Tự Đức vốn là ông vua sính thơ
và hay khoe thơ ḿnh. Nghĩ được câu thơ
nào thường vẫn đem đọc cho quần
thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.
Một hôm sau
buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
-Đêm qua
Trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ
thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho
các khanh nghe!
Rồi đọc
luôn:
Viên trung oanh chuyển
"khề khà" ngữ,
Dă ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Các quan nghe
xong đều lấy làm lạ v́ chưa hề
được nghe lối thơ vừa chữ Hán
vừa Nôm ấy bao giờ, nhất là những
chữ "khề khà", "lấm tấm" nghe
thật thú vị. C̣n Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng
có mặt ở đấy, th́ vẫn thản nhiên mà
tâu rằng:
-Tâu bệ
hạ, tưởng ǵ chứ hai câu ấy th́ từ
hồi c̣n để chỏm đi học, thần
đă được nghe rồi ạ! Thần
được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ
hạ cho phép, thần xin đọc lại tất
cả.
Tự Đức
đang hí hửng về mấy câu thơ dở
chữ dở Nôm rất độc đáo của ḿnh,
không dè bị Quát giội một gáo nước
lạnh th́ tức lắm, v́ rơ ràng hai câu thơ
đó chính ông đă nghĩ ra. Tuy nhiên, ông vẫn
cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe
cả bài thơ, với thâm ư nếu không đọc
được th́ sẽ trị cái tội khi quân
ấy cho hả giận.
C̣n đ́nh
thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc
phạm đến vua, và họ đang chờ một
trận lôi đ́nh; ông nọ lấm lét nh́n ông kia,
không khí triều đ́nh trở nên căng thẳng,
nặng nề khác thường...
Quát b́nh
thản suy nghĩ một lát như để nhớ
lại một bài thơ lâu ngày không nh́n đến,
rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
Bảo mă tây phương
huếch hoác lai,
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dă ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
Nghĩa là:
Ngựa báu từ phía tây
huếch hoác lại,
Người huênh hoang nhờ cậy d́u về.
Trong vườn oanh hót giọng khề khà,
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi
lộp bộp,
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Tứ thơ khù khờ đă nhiều người
biết,
Khệnh khạng c̣n mang đến hỏi tú tài.
Bài thơ
vừa đọc dứt, cả đ́nh thần hoang
mang nh́n nhau, c̣n Tự Đức th́ biết đích là
Cao Bá Quát chơi xỏ ḿnh, nhưng cũng rất
sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai
lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải
thú thật là đă bịa thêm sáu câu.
***
Có một lần Cao Bá Quát đi thăm
bạn ở xa. Bạn đi vắng, ông phải
trở về, bụng đói mà tiền th́ đă
hết nhẵn.
Đang đi lang thang thất thểu,
chợt nghe gần đấy có kèn trống đám
ma. Quát theo chừng lần tới nơi. Hỏi ra
biết là đám tang một ông cụ già nhà khá
giả. Quát liền bước vào nhà thấy quan viên
ngồi chật ních trong rạp; ở chính giữa
rạp thấy có dăm bảy ông râu dài, ngồi
chễm chệ trên ghế cạp điều, đang
ngất ngưởng nói chuyện chữ nghĩa;
lại thấy hiếu chủ chắp tay bẩm báo
chầu chực, nên Quát đoán là văn thân hào
mục, hay cử tú ǵ đó.
Quát liền tới gần hiếu chủ nói:
- Tôi là khách qua đường, nghe
nói cụ nhà phúc đức lắm, nay chẳng may
cụ hai năm mươi về chầu Phật,
bụng tôi lấy làm cảm động vô cùng. Nên
xin được vào phúng cụ vài câu rồi đi.
Mấy vị ngồi chiếu cạp điều
nghe Quát nói thế th́ muốn lên mặt đàn anh,
vừa rung đùi vuốt râu vừa hất hàm
hỏi:
- Thế nhà thầy ở đâu
qua đây? Làm nghề ǵ?
Quát thưa:
- Bẩm các quan, tôi ở làng bên
đi dạy học về qua đây!
Các ông lại tranh nhau hỏi:
- Dạy
học à? Thế đă thi cử khoa nào chưa?
Quát đáp:
- Bẩm cũng
có theo đ̣i vài ba khoa, nhưng đều hỏng
cả.
Về nhà văn dốt vũ dát nên đành phải
đi gơ đầu trẻ!
Các quan viên lại hỏi luôn:
- Thế nhà thầy định
phúng câu đối Nôm hay chữ đấy?
Quát trả lời:
- Bẩm có mấy chữ đă
dạy trẻ hết mất rồi, giờ xin làm Nôm
thôi ạ!
Các ông đàn anh được thể lại lên
giọng:
- Ừ, thế
th́ làm đi rồi các cụ sẽ phủ chính cho!
Quát bèn hắng dặng rồi ngâm nga rằng:
Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân
thiết nhẽ đâu mà khóc mướn?
Tưởng sự bách niên đùng nghĩ đến,
động can tràng nên nỗi phải thương vay
!
Các quan viên nghe xong đều thè lưỡi thán
phục, kéo ngay Quát lên chiếu cạp điều
mời cùng đánh chén. Đến sau rượu đă
ngà, mấy ông cứ gạn hỏi măi, Quát đành
phải xưng tên thật. Thế là ông nào ông
nấy giật ḿnh thon thót, đứng vội dậy
chắp tay xin lỗi Quát rối rít.
***
Hồi đó, Cao Bá Quát đang
nghỉ ở nhà. Nhân dân quanh vùng thường rủ
nhau đến xin câu đối về dán nhà, nhất
là trong dịp Tết.
Một hôm có hai người
láng giềng cùng đến một lúc, chỉ trước
sau mấy bước. Người đến trước
là một anh làm nghề đóng áo quan. Người
đến sau là một chị đang có chửa
gần ngày sinh. Cao Bá Quát không cần phải nghĩ
ngợi lâu, cầm bút viết vào rẻo giấy cho
anh thợ áo quan:
Thiên thiên
tuế nguyệt nhân thiêm Thọ,
Xuân măn càn khôn, phúc măn Đường.
Nghĩa là:
Trời thêm năm tháng,
người thêm thọ,
Xuân khắp non sông, phúc chật nhà.
Cao khéo
dùng hai chữ "Thọ" và "Đường" để nói đến
cái quan tài v́ ngày xưa ta quen gọi cái quantài là Cỗ thọ đường
Anh thợ nghe
giảng rơ, vui mừng vái chào đi ra. Đến
chị bụng chửa. Cao nh́n chị hóm hỉnh cười,
rồi lấy mảnh giấu khác, viết ngay:
Thiên thiên
tuế nguyệt, nhân thiêm,
Xuân măn càn khôn, phúc măn.
Nghĩa là:
Trời thêm năm tháng,
người thêm
Xuân đầy vũ trụ, phúc đầy.
Như vậy là
Cao Bá Quát đă dùng lại câu đối nghĩ cho
anh thợ áo quan hồi năy, chỉ có bớt ở
mỗi vế một chữ cuối. Nhưng như
thế vẫn nói lên được rất rơ
việc chị phụ nữ sắp đẻ ( người
thêm) và việc hiện tại trước mắt là chị đang có mang v́
chữ "phúc" là "hạnh phúc" trùng âm với chữ
"phúc" là "bụng"("phúc măn" là "đầy
bụng" tức là bụng có chửa).
***
Hồi Cao Bá Quát c̣n đang làm hành
tẩu trong Huế, một hôm ở chỗ làm
việc của ông bỗng xảy ra một đám
đánh nhau. Nghe đâu đó lại chính là hai vị
quan khá to ở triều đ́nh. Nguyên nhân thế nào
th́ Quát không rơ, nhưng chỉ thấy hai ông lúc
đầu th́ căi nhau, sau đến chửi nhau
rồi th́ đi đến chỗ "thượng
cẳng chân, hạ cẳng tay" không c̣n ra thể
thống ǵ nữa.
Đến khi phân
xử phải trái, Tự Đức thấy Quát là người
thấy tận mắt cái cảnh đó, liền
bắt Quát ra làm nhân chứng. Quát vốn không ưa
ǵ bọn này, muốn nhân dịp xỏ xiên chơi,
mới lựa lấy một câu chửi đă
được nghe để viết vào tờ khai như
sau:
Tiền Quát
bất tri
Hậu Quát bất tri
Trung gian Quát chi
Đăn kiến:
Thượng bàn hô cẩu!
Hạ bàn hô cẩu!
Thượng hạ giai cẩu
Lưỡng tương đấu ẩu
Thần gián bất đắc
Thần kiến thế nguy
Thần hoảng thần tẩu!
Nghĩa là:
Trước Quát không
biết
Sau Quát chẳng hay
Nửa chừng Quát đến
Quát thấy thế này:
Bàn trên chửi "chó"!
Bàn dưới cũng "chó"!
Trên dưới đều "chó"
Rồi choảng nhau luôn
Thần can chẳng bỏ
Thần thấy thế nguy
Thần hoảng thần chuồn!
Khai xong, Quát dâng lên
cho Tự Đức, rồi cứ đứng tủm
tỉm cười ra vẻ hể hả lắm, v́ không
dễ mấy khi đă được chửi từ
trên xuống dưới một bữa sướng
miệng như thế. C̣n Tự Đức khi đọc
đến câu "Thượng hạ giai cẩu"
(Trên dưới đều "chó") th́ cũng
biết thừa là Quát có ư xược, nhưng
khốn nỗi đó chỉ là lời khai đúng
sự thật mà thôi. Cho nên không thể bắt
tội Quát vào đâu được.
|