Tôi chính thức làm nghề thầy giáo năm 1949, dạy ở
một trường trung học thuộc vùng kháng chiến, tỉnh Phú Yên.
Toàn tỉnh chỉ có một truờng trung học nên mỗi lần đọc tên
học sinh kèm theo tên sinh quán là tâm hồn tôi êm đềm liên
tưởng đến một miền quen thuộc, trí óc nhảy vọt từ Cù Mông
đầu tỉnh đến Hòa Xuân cuối tỉnh, từ Sơn Long đầu nguồn đến
An Chấn sát biển. Huỳnh thị Tư, Nguyễn Văn Chính... thấy
rồi: Triêm Ðức, Ðồng Tranh, Xuân Quang, Xuân Phước. Những
cánh đồng lúa sạ. Những lùm cây... Man Tấn Châm, Võ thị
Huỳnh Lê... thấy rồi: Gò Duối. Những đèo, những núi. Trương
Dụng Khả: Bầu Hương... Nguyễn Thị Hảo: Hòa Quang. Những
ruộng nước nằm bằng phẳng, lá úa màu xanh ngắt. Nguyễn Ngọc
Xuân, Nguyễn Thị Bích: Tiên Châu, Gành Ðỏ. Sóng vỗ rì rào.
Những tấm lưới màu nâu. Con chim le le ngúc ngoắc đuôi đi
trên bãi cát gần mép nước...
Học sinh là những đứa con quí của các gia đình thuộc
tầng lớp trên trong khắp tỉnh. Cả trường chỉ có hai lớp đệ
Tứ, dưới 30 học sinh thì coi như xã chỉ chọn gởi tới một
người. Cả trường chỉ có hai lớp đệ Ngũ, 80 học sinh thì coi
như mỗi xã được chọn gởi chỉ hai học sinh xuất sắc nhất. Học
sinh của trường học giỏi là lẽ tất nhiên. Hôm nay, số học
sinh cấp II của nhiều xã không thua bao nhiêu so với số học
sinh toàn trường dành cho cả tỉnh ngày đó.
Mà làm sao chẳng học giỏi khi suốt ngày chỉ biết có
học? Không rạp xi nê, không ca kịch, múa hát, đá banh. Không
xổ số kiến thiết, không có hàng bánh trái đầy dẫy dàn ra
khắp các ngả đường. Không rađiô, tivi. Gần như không báo
chí, tiểu thuyết. Bưu điện cũng không nên khỏi tốn thì giờ
viết thư. Bờ ao, rẫy sắn, cây keo, con chim chóp mào...
không hùng biện dụ dỗ học sinh bỏ học. Sách vở dạy gì làm
nấy. Thầy giáo dặn sao nghe vậy. Học hành kiểu đó thì ra
đời, tệ nhất cũng phải bằng thầy giáo mình.
Nhiều hồi nhìn học trò ngồi im lặng làm bài, tôi bồi
hồi thấy mình được hưởng một vinh dự, vì ngồi trước mặt tôi
là những viên ngọc của những gia đình. Có học sinh từ miền
cực Nam kháng chiến trốn Pháp đi bộ leo đèo vượt núi qua đây
ngồi học.
Niên khóa sau, trường có sáng kiến phân tán ra nhiều
địa điểm. Vì chỉ là lợp tranh, vách trét bùn, nền đất nên dễ
thực hiện sáng kiến. Khu trung tâm nằm ở chợ Sen. Một bộ
phận nằm ở ngọn đồi nhỏ sau lưng. Một bộ phận ở doi núi
Phong Hậu. Bộ phận này quấy phá nghịch ngợm nhất, vì nằm xa
"trung ương", hai thầy giám thị Nguyễn Bình và Ðặng Văn Chế
ít khi lui tới. Không hiểu nghĩ sao, thầy hiệu trưởng bỗng
giao cho tôi trách nhiệm coi sóc khu này, chỉ có hai lớp 5B
và 6B toàn con trai. Tôi cố hết sức dịu dàng, rủ cùng đào lỗ
trong sân trường để trồng chuối. Không nhằm mục đích ăn trái
- vì khi trái ra buồng thì nhất định đã có bà con lân cận
"chiếu cố" giùm trước - mà cốt nhờ tàu lá chuối che kín sân,
dễ chạy núp trốn máy bay. Ðang nhằm mùa mưa, con đường đất
chạy trước trường đóng vũng, bà con miệt Long Hòa đi chợ Sen
lội bì bõm và bị trơn trợt té bể đồ gốm và bánh tráng. Tôi
lại rủ:
- Mình lấy xà beng nạy đá ở ven bờ núi kề sân trường,
bưng bỏ xuống mấy vũng nước. Ðầm xuống. Rồi rải đất sỏi
lên...
Khỏi cần uyển từ véo von động viên kêu gọi, khỏi cần
hội thảo trình phương án lập kế hoạch phân công, khỏi cần
phân tích tổng kết, cứ sáng nói chiều làm, thấy chỗ nào đáng
làm là chia nhau làm, rủ nhau làm. Và chỉ sau hai giờ là mặt
đường bằng phẳng.
Những hôm sau tôi rủ học trò đứng coi bà con đi chợ,
bước nhẹ nhàng trên những đoạn đường do chúng tôi tu bổ. Họ
bước thong thả, mắt nhìn lơ đãng, miệng không ngớt chuyện
trò. Khỏi còn cái cảnh chân bước rụt rè, đi né đi tránh, mắt
nhìn sau trước ước lượng tầm xa để thót nhảy một cái. Anh em
học sinh đứng nhìn, không ai nói cảm tưởng. Những nụ cười,
ánh mắt rạng rỡ đã nói thay. Vào những lúc này, nếu rủ xây
cầu e cũng dám xâm mình mà đi chặt cây, đào hố chôn trụ, đan
mê lát sàn cầu.
Một hôm có một học sinh méc là nơi vũng lầy cạnh mấy
đám ruộng trước mặt trường có mạch suối nước nóng (cách lớp
độ 30m). Tôi nhờ dẫn tới coi. Quả là có một mạch nước nhỏ
cuồn cuộn vọt lên rồi chảy tỏa ra, tràn hòa với nước xung
quanh, nhúng tay rờ thấy nóng ấm. Óc tôi dự tính: sẽ rủ học
sinh khoét rộng nơi mạch nước, dọn sạch để nước khỏi dơ, rồi
tìm cách phân tích xem đó là loại suối khoáng gì để dùng. Ít
nhất cũng có thể dùng để tắm, trị ghẻ. Trời đang lạnh ngắt
và thấy nhiều học sinh lén ngồi gãi.
Dự tính chưa thực hiện được thì tôi bị cất lên làm
hiệu trưởng. Bao nhiêu là việc phải làm. Ðã vậy tình hình
chiến tranh sôi động, máy bay Pháp cứ bất ngờ bay vọt ra.
Dẫu đã đề phòng sắp xếp buổi học giấc thật sớm và giấc thật
chiều, nhưng đôi khi đang ngồi học bỗng có tiếng kẻng báo
động. Học sinh trong các lớp ùa ra trắng cả khu đồi rồi mới
chui lọt xuống hầm trốn.
Có một lần máy bay ra thật sớm. Học sinh túa ra như
thường lệ, trắng rợp cả ba khu đồi rồi chạy thụt núp dưới
đáy hầm. Chợt máy bay quay lại. Thầy trò cùng thót ruột.
Chợt từ máy bay tung túa ra một vùng đám sáng trắng. Bỗng có
nhiều tiếng la to, la thất thanh:
- Bom nguyên tử! Trời ơi, thả bom nguyên tử rồi!
Ðợi tiếng nổ. Nhưng đó đây im phăng phắc. Những mảnh
trắng bay đầy trời lần lần đảo xuống gần. Chao qua lượn lại.
Thấy rõ đó là những tờ giấy, học sinh trồi lên, nhảy thót
ra, chạy đầy khắp mặt đồi để lượm giấy... truyền đơn. Trong
khi tiếng máy bay vẫn còn rù rù đảo quanh. Thân phận hiệu
trưởng thời chiến tranh khốn khổ vậy đó.
Tôi mượn thiên nhiên để quên bớt lo lắng. Bao quanh
trường chỗ nào cũng là bụi tre đứng thẳng, gió thổi lăn tăn
những chùm lá tre, gió mát như có tẩm vị ngon trong đó.
Chặng mười giờ rưỡi, gió như có mang hơi nước mặn thổi từ
cửa biển Tiên Châu, Hội Phú thổi lên, thổi dọc bờ sông, pha
hơi nước ngọt của đập Tam Giang, sông Cái. Ở khu cầu Cây Cam
ga Phong Hiên, Soi Giữa, hàng rào bằng cây keo, cây táo
nhơn. Và từng chặng trên đường xuyên qua xóm, lác đác đứng
giữa cánh đồng là cái dáng cô đơn của những cây gòn, cây
bàng, cây gạo.
Mới thoáng đó mà đã ngót bốn mươi năm. Rất ân cần,
rất chu đáo, thời gian không bỏ sót một ai, rắc màu trắng
lên mái tóc của mọi ngưòi học sinh cũ. Từ một cậu trai rụt
rè, một cô gái bẽn lẽn, nay đã thành một bà ngoại mực thước,
một ông nội nghiêm trang. Tôi chợt thèm được về thăm trường
cũ, được ngồi cạnh đám cây lá lốt mọc dưới chân đồi của nhóm
lớp 5A, 6A. Hồi đó, mỗi lần ghé thăm lớp này, tôi không bao
giờ quên lại ngồi cạnh đám lá lốt xanh láng như có thoa dầu.
Ở thành phố người ta dùng lá lốt để gói thịt mà nướng. Nơi
vùng quê nghèo chỉ ăn nổi cá và mắm, lá lốt thành ra được
hớn hở tự do.
Trong hồi ức ngậm ngùi nhìn mọi vật quanh mình đều
thay đổi, tôi hy vọng họa chăng chỉ những đám cây lá lốt này
là vẫn còn giữ được hình dáng cũ như xưa. |