Huỳnh Đệ được mười tuổi nhưng tâm trí như đứa trẻ lên năm.
Đệ cao lớn so với tuổi, đứng ngang vai một người lớn. Tuy
hình dáng Đệ khôi ngô, cử động lanh lẹ, nói chuyện nhanh
nhẩu, và ứng biến giỏi, nhưng Đệ lại là đứa trẻ dốt.
Khuôn mặt Đệ thon đều, trán rộng, mắt to, chân mày rậm. Mũi
Đệ cao, cánh mũi nhỏ. Miệng Đệ rộng, môi dày. Tóc Đệ đen
nhánh và dài, thường được cha mẹ cột ra sau gáy. Nhưng Đệ
không thích như vậy. Ra khỏi nhà, Đệ xỏa tóc lòa xòa xuống
vai.
Hình hài và dáng dấp của Huỳnh Đệ như vậy. Rõ ràng, Đệ không
phải là đứa trẻ trì độn. Nhưng Đệ có tật lớn là chẳng chịu
học hành, chỉ thích rong chơi ngoài đồng. Hằng ngày Đệ câu
được nhiều cá, bẫy được nhiều thú rừng. Nhờ vậy, cha mẹ Đệ
không phải mua thức ăn.
Cha Đệ vốn là thầy giáo trong làng, thông thạo chữ nghĩa,
thường mong muốn Đệ phải được học hành đến nơi đến chốn. Cha
Đệ dạy được bốn chữ thì Đệ quên hết ba. Ngày hôm sau, không
ôn lại thì Đệ quên hết, chẳng giữ được chữ nào.
Ngồi trong lớp học, Đệ thích nhìn qua cửa sổ. Thầy giáo bắt
Đệ chăm chú thì Đệ mơ tưởng đến sông rộng, rừng rậm, tôm cá
, và chim muông.
Cha mẹ Đệ buồn lắm, bèn gởi Đệ đến nhà một người bạn, vốn là
thầy giáo giỏi và nghiêm khắc. Được ba tháng, người bạn trả
Đệ về ông ấy bảo rằng, thằng nhỏ này coi vậy mà ngu độn,
không thể dạy được.
Cha mẹ Đệ buồn lắm nhưng vốn hiếm hoi, chỉ có Đệ là con một
nên ông bà quyết chí tìm thầy cho Đệ.
Một hôm có người mách bảo trên núi cao gần đó có ngôi chùa
Bạch Vân là nơi thanh tịnh. Vị Phương trượng của chùa là
người đạo hạnh, nghiêm túc, tinh thông chữ nghĩa. Bất cứ ai
lên chùa học đạo đều trở thành người tốt. Nghe vậy, cha mẹ
Đệ mừng lắm, liền chuẩn bị đồ cúng, hoa quả, và tiền bạc để
đưa Đệ lên chùa .
Sáng hôm đó, cha mẹ dẫn Đệ lên núi. Đường dốc lên, khúc
khuỷu. Cha mẹ Đệ mang nhiều hành trang nặng nề. Đệ tuy mười
tuổi nhưng lớn xác, khỏe mạnh nên gánh vác đồ đạc cho cha mẹ
.
Đệ không sợ làm việc nặng nhưng ngại lên chùa, phải học chữ.
Đệ vừa đi lên chùa vừa nhớ sông, nhớ rừng. Đệ thèm câu cá
bẫy thú. Tất cả không còn nữa. Đệ buồn lắm. Từ nay, Đệ không
còn gặp lại bạn bè, cảnh cũ.
Đường lên cao, quanh co, dốc ngược. Đệ nhìn lại, làng xóm
khuất sau mấy rặng cây xanh .
Trời về trưa, nắng càng gắt. Mặt trời lên cao, xéo trên đỉnh
đầu. Nắng chiếu nóng bỏng, Đệ mệt, thở hồng hộc nhưng không
dám than vãn.
Quá trưa, ba người lên đến chùa.
Đệ ngồi chờ bên ngoài phòng đợi. Cha mẹ vào trong yết kiến
Phương trượng.
Chùa rộng mênh mông. Đệ không biết có bao nhiêu phòng. Từng
dãy nhà nối nhau san sát. Phía trước chùa có trồng nhiều cây
lớn, tàng lá thật rộng, che mát cả một vùng. Phía sau chùa,
Đệ không biết được, nhưng thấy cây rừng bát ngát, lá xanh
vươn cao ngất tận trời.
Đệ mừng lắm, có rừng là có thú.
Chờ một hồi lâu. Cha mẹ trở ra, dẫn Đệ vào bái tạ Phương
trượng. Đệ thấy một vị sư già, râu tóc bạc phơ, mặt hồng
hào, dáng điệu hiền lành. Vị sư không nhìn tới Đệ, ra lệnh
cho một chú tiểu hướng dẫn Đệ đi.
Cha mẹ Đệ bùi ngùi từ giã. Ông bà dặn dò Đệ đủ chuyện nhưng
Đệ chẳng nhớ điều gì.
Căn dặn Đệ nhắm chừng đã đủ, cha mẹ vái lạy phương trượng,
cám ơn mấy nhà sư chung quanh rồi cáo lui.
Đệ hết nhìn các tượng Phật, bàn thờ, lư hương, ... rồi ngó
vách tường, cột nhà .. ..
Lúc Đệ nhìn lại, bắt gặp ánh mắt Phương trượng nghiêm trang,
sắc lạnh. Đệ rùng mình, ngơ ngác.
Một chú tiểu bước lại gần, nói như ra lệnh:
- Tôi là A Du. Chú mang đồ đạc theo tôi.
Đệ nhìn chú tiểu A Du, định cự nự vì lối xưng hô kiểu đàn
anh. Mặt A Du non choẹt nhưng có lẽ lớn tuổi hơn nên Đệ nhẫn
nhịn.
Đầu A Du trơn láng, để tóc ba chỏm. Đệ nhìn A Du rồi tưởng
tượng đến lúc các nhà sư trong chùa sẽ cạo đầu mình. Mái tóc
dài xỏa vai của Đệ sẽ bị họ cắt phăng đi. Da đầu Đệ sẽ trọc
nhẵn như vậy.
Đệ ngó A Du, chán nản. Nước da A Du trắng xanh, ánh mắt buồn
bã.
A Du nói như đọc kinh:
- Chú Đệ, có nghe tôi nói không, mang đồ đạc theo tôi về
phòng.
Đệ gật đầu, nối gót A Du, dật dờ bước đi. Chùa rộng quá,
đường xá quanh co, phòng ốc ngổn ngang, Đệ không định được
phương hướng. Đệ bắt đầu lo, tìm đường trốn ra khỏi chùa
không phải dễ dàng như Đệ tưởng.
Đi được một khoảng, Đệ càng cố nhớ càng nhức đầu thêm. Rồi
đi một hồi lâu, Đệ hoàn toàn mất phương hướng .
Bỗng dưng, A Du rẽ qua một hành lang âm u. Chỗ này, phòng ốc
làm bằng gỗ, cũ kỹ.
A Du dừng lại trước một căn phòng tối tăm, từ tốn nói:
- Đây là phòng của chú.
Đệ nản quá, lên giọng:
- Anh nói lớn một chút có được không? Anh nói sao giống như
đọc kinh vậy.
A Du trừng mắt:
- Chú không được nói lớn, sư phụ sẽ quở phạt.
Đệ hậm hực hỏi:
- Sư phụ anh là Phương trượng phải không ?
A Du lạnh lùng đáp:
- Không phải, Phương trượng lớn hơn sư phụ tôi nhiều lắm.
- Thế thì, anh gọi Phương trượng bằng gì ?
- Tôi không biết, Phương trượng là sư phụ của sư phụ tôi.
Đệ lắc đầu hỏi lại:
- Anh nói khó hiểu quá. Phương trượng cao tới hai lần sư
phụ, tu gì mà phân nhiều cấp quá vậy ?
A Du hoảng hốt bịt miệng Đệ:
- Chú coi chừng, nói bậy bị phạt nặng lắm.
Đệ hỏi:
- Bị phạt như thế nào?
- Gánh nước, bửa củi, nấu cơm, quét nhà...
Đệ bật cười:
- Phạt gì mà nhẹ quá vậy, tôi đâu có sợ. Có khi nào anh bị
đánh đòn không ?
- Có chớ. Mấy thứ hình phạt mà tôi vừa kể cho chú nghe là
dành cho tội nhẹ.
- Còn làm thế nào bị tội nặng ?
- Ăn mặn, nói dối, uống rượu, trộm cắp...
- Ăn mặn cũng bị tội hay sao ?
- Đương nhiên.
- Nếu gây tội ăn mặn, bị phạt gì ?
- Ngồi trong phòng sám hối từ một đến ba ngày, hay hơn nữa.
Đệ le lưỡi:
- Ngồi trong phòng sám hối thì chán thật.
A Du hất hàm nói:
- Chú vào phòng. Nhớ, không được nói lớn, không được cười
giỡn, chỉ đi chớ không được chạy, còn nhiều chuyện lắm.. .
Tôi sẽ dạy cho chú.
Đệ ngạc nhiên, trố mắt hỏi:
- Anh dạy cho tôi.
- Chứ sao. Tôi sẽ dạy chú chữ và nhiều thứ khác.
- Vậy anh là sư phụ của tôi.
A Du đáp:
- Không phải, tôi chỉ là sư huynh của chú mà thôi. Khi nào
làm lễ xong, chú phải gọi tôi là sư huynh.
Đệ lắc đầu:
- Anh lớn hơn tôi chừng năm tuổi là cùng. Ba tôi, các bác,
các chú còn dạy chữ cho tôi không nổi nữa mà. Con nít như
anh mà đòi dạy chữ cho tôi sao.
A Du lạnh lùng nói:
- Phương trượng đã cắt đặt công việc cho sư phụ tôi rồi. Sư
phụ bảo tôi dạy chữ cho chú.
Biết cãi cũng không được gì, Đệ hỏi tiếp:
- Thế tên tôi sẽ là gì ? Tôi có được giữ tên cũ không ?
- Chú sẽ có tên mới.
- Pháp danh phải không ?
- Cái gì mà pháp danh.
- Tên chú có thể là A Đệ.
Đệ vừa thất vọng vừa bực bội:
- Cái gì mà A Đệ. Tên tôi là Huỳnh Đệ. Thế thì cứ thêm chữ A
trước chữ Đệ là thành pháp danh.
- Đó không phải là pháp danh, chỉ là cái tên để mọi người
gọi chú, biết không ?
A Du nói xong, khoác tay ra hiệu cho Đệ bước vào phòng và
trừng mắt, ý chừng bảo Đệ khôn hồn thì câm họng. Đệ im lặng,
chẳng phải vì sợ A Du mà chán hắn và cả mọi người trong
chùa.
Đến chiều, A Du trở lại. Hắn cho biết, từ nay tên gọi của Đệ
là A Đệ. Sau đó, hắn trao cho Đệ một mảnh giấy ghi lịch
trình làm việc hàng ngày. Xem lướt qua tờ giấy, Đệ không
hiểu gì cả, bèn hỏi:
- Giấy ghi chuyện gì vậy ?
A Du nhìn Đệ với ánh mắt giễu cợt rồi nói:
- Từ sáng, chú phải thức dậy sớm và đến phòng tụng niệm
chung với mọi người để tụng kinh. Sau đó, chú đi xách nước,
quét nhà, bửa củi, khiêng gạo, nhóm lửa. Rồi chú ăn trưa,
sau đó tụng kinh và tiếp tục làm những việc ban sáng. Đến
chiều, chú được ăn cơm, dọn dẹp, và tụng kinh cho đến tối.
Nghe qua, Đệ vừa kinh hãi vừa tức giận, xô A Du qua một bên,
quát lớn:
- Tôi đi về.
A Du chậm rãi nói:
- Làm sao chú biết đường mà về. Hơn nữa ai cho phép chú.
Đệ nghe A Du nói có lý, bèn quay lại:
- Được, tôi sẽ làm việc, nhưng tôi có phạm tội gì đâu.
- Tất cả mọi người mới vào đây phải làm những công việc
giống nhau như vậy, chứ không phải bị tội.
Đệ gật đầu vâng dạ. Từ đó, Đệ chăm chỉ làm việc với mưu toan
trốn thoát khỏi chùa.
Đệ làm việc cật lực suất ngày như vậy gần một tháng thì một
hôm A Du đến, bảo rằng:
- Ngày mai, chú sẽ bắt đầu học chữ.
Đệ vâng dạ:
- Được, anh sẽ dạy cho tôi phải không ?
A Du ưỡn ngực nói:
- Tôi sẽ dạy chữ cho chú. Khi chú thông thạo chữ, tôi sẽ dạy
cho chú học kinh sách.
Đệ ngán ngẩm nói:
- Từ từ mà, tôi còn phải làm việc, đâu có thì giờ.
A Du nghiêm sắc mặt:
- Chú không được cãi. Ngày mai có người mới vào, sẽ phụ việc
với chú. Lúc ấy, chú sẽ có thì giờ học chữ.
Biết thoái thác cũng không được, Đệ đành gật đầu:
- Tôi sẵn sàng.
A Du lên giọng:
- Bắt đầu ngày mai chú phải gọi tôi là sư huynh.
Đệ ngước lên nhìn A Du. Mặt hắn trắng xanh, đầu trọc nhẵn,
chỉ có ba chỏm tóc. Gọi hắn là sư huynh cũng được nhưng Đệ
cảm thấy khó chịu quá :
- Này, tôi gọi anh là sư huynh cũng được nhưng anh không
được bày đặt chuyện bắt tôi học nhiều.
A Du nghiêm giọng, ra vẻ quan trọng:
- Không dược. Ngày ta vào chùa, năm năm trước, ta cũng làm
mọi chuyên như ngươi. Người sư huynh của ta đã hành hạ ta
nhiều lắm.
Đệ trợn mắt nhìn A Du, gằn hỏi:
- Thế thì, bây giờ anh định hành hạ lại tôi phải không ?
A Du lạnh lùng hăm dọa:
- Nếu ngươi cãi lệnh ta, tức là cãi sư phụ ta, có nghĩa là
bất tuân lệnh Phương trượng. Ta sẽ tâu lên Phương trượng,
nhốt ngươi vào phòng sám hối.
Đệ nổi nóng, nhất định không nghe lời A Du, không chịu học
chữ. Đúng như A Du hăm dọa, chiều hôm sau có mấy chú tiểu
nữa đi cùng với hắn đến áp tải Đệ vào phòng tối. Họ nhốt Đệ
nhiều ngày. Mỗi ngày, Đệ được hai bữa cơm nguội và nước
lạnh.
Cứ cuối ngày, A Du đến hỏi:
- Chú đã hối tội chưa ?
Đệ đáp:
- Tôi không có tội.
Ngày hôm sau, A Du lại đến hỏi:
- Chú biết hối tội chưa ?
Đệ một mực trả lời:
- Tôi không có tội.
Được bảy ngày như thế, Đệ mệt lả và chán chường phòng tối
quá. Đến chiều, khi A Du vừa đến, Đệ vội la lên:
- Tôi biết tội rồi.
A Du gật đầu:
- Tốt, ngươi chịu học chữ chứ gì ?
Đệ vâng dạ:
- Thưa sư huynh, tôi biết tội rồi.
Đệ nói vậy, nhưng trong óc tìm hết lời chửi A Du cho thỏa
thích.
A Du nào biết như vậy, khoái chí lắm, đi gọi người đến thả
Đệ ra.
Ngày hôm sau, Đệ bắt đầu học chữ.
Cũng y như lúc Đệ ở với cha mẹ. A Du dạy được ba chữ thì Đệ
quên hết hai. Ngày hôm sau Đệ quên nốt chữ đó . A Du giận
lắm, cố sức dạy cho Đệ . Ban đầu A Du còn nói nhỏ nhẹ,
khuyên bảo, sau lớn tiếng hơn, nhưng không có kết quả gì khả
quan.
Một hôm A Du dạy hoài mà Đệ không nhớ, liền lớn giọng thóa
mạ :
- Ngươi là một thằng ngu.
Đệ cãi lại:
- Tôi ngu mới để cho anh dạy.
A Du tức tối hỏi:
- Ngươi nói lời bất kính với ta phải không ?
- Đúng vậy. . .
A Du không dằn được cơn giận, liền tát Đệ một bạt tai nẩy
đom đóm mắt. Nào ngờ, Đệ nổi hung đấm lại một phát khiến A
Du té ngửa xuống đất, sặc cả máu mũi.
A Du bịt mũi, cố cầm máu, rồi chạy ra ngoài, tri hô lên.
Mấy nhà sư của Chấp Pháp Đường đến hài tội và bắt Đệ ra sau
chùa. Từ đó Đệ phải ở trong một căn nhà chứa củi, không được
tham dự các sinh hoạt tụng niệm và học hành của chùa nữa.
Ngoài ra, để đổi lại các bữa ăn, Đệ phải quét lá và dọn đẹp
phía sau chùa.
Ngay hôm đó sau bữa ăn chiều, hai nhà sư trẻ đến áp tải Đệ
ra sau căn nhà chứa củi. Họ dẫn Đệ đi quanh co một hồi rồi
đẩy Đệ vào một căn nhà tối om.
Đệ không sợ hãi, tìm một xó, quấn mền rách mà ngủ.
Sáng hôm sau, Đệ tỉnh dậy đã nghe chim hót líu lo bên ngoài.
Chung quanh yên lặng quá , ngoài tiếng chim và lá cây rung
xào xạc, Đệ không nghe một âm thanh nào khác. Đệ lần mò đi
ra ngoài, mới biết căn nhà chứa củi làm bằng gỗ, khá rộng.
Nhà nằm hẳn ra ngoài vòng tường của chùa. Phía sau nhà là
rừng cây. Từ nhà đi ra có con đường mòn nhỏ. Đệ không biết
con đường này dẫn tới đâu.
Suy nghĩ một lúc, Đệ quyết chí trốn khỏi chùa nên gom góp
vật dụng, theo con dường mòn mà đi .
Buổi sáng vừa bắt đầu, mặt trời chưa lên, sương đêm còn phủ
mịt mờ. Không khí mát lạnh khiến Đệ cảm thấy dễ chịu.
Vừa đi được một quãng, bất chợt Đệ thấy một người đi loáng
thoáng trong sương. Người này đi trước cùng chiều, nên quay
lưng về phía Đệ. Đó là một ông già mặc áo xám. Đệ biết các
nhà sư trong chùa đều mặc áo vàng. Chỉ những người làm
chuyện tạp dịch , hay mới vào chùa như Đệ mới mặc áo xám.
Như vậy, chức phận người này chắc hẳn rất thấp trong chùa.
Trong buổi sáng tinh mơ, Đệ không biết ông già ra đây làm
gì. Đệ thấy ông ấy cầm cây chổi, vừa đi vừa quét lá. Ông già
đi thật nhẹ nhàng, tựa như bay trên mặt đất.
Đệ đi sau lưng ông già một lúc mà không thấy ông ta quay
lại, liền bước nhanh qua mặt ông. Đi được vài bước Đệ tò mò
ngoái đầu nhìn lại. Thì ra ông già áo xám là một nhà sư rất
già, râu tóc bạc phơ. Tóc ông để dài chứ không cạo như các
nhà sư trong chùa. Ông vừa đi vừa quét lá nhưng nhắm nghiền
hai mắt.
Lạ thay, ông đi không vấp mà cái chổi trên tay ông quét thật
đúng lá khô trên đường.
Đệ thấy chuyện lạ, thích chí đứng dừng lại, đưa tay ra trước
mặt ông. Đột nhiên ông già bước xéo qua bên trái, tránh bàn
tay của Đệ rồi tiếp tục bước đi.
Hành động của ông già áo xám nhanh quá khiến Đệ nghi ngờ.
Đệ liền vòi tay nắm cái chổi của ông. Nhưng bàn tay Đệ còn
cách cái chổi một gang tay thì ông già đưa tay nhanh ra
trước, hất tung lá khô vào mặt Đệ.
Đệ nổi giận, chạy qua mặt ông già, đạp lên cái chổi. Thình
lình, ông già xoay ngược cái chổi lại, dùng cái cán gạt mạnh
vào chân khiến Đệ té lăn xuống đường.
Ông già áo xám cử động vừa nhanh vừa chính xác nhưng mắt
không hề mở. Ông nhắm mắt mà như thấy hết mọi vật trước mặt.
Đệ tức giận nhưng thích chí, liền đi trước ông già, vừa bước
vừa hất lá phía ngoài trở vào đường đi.
Lạ thay, Đệ hất chiếc lá nào vào thì ông già nhanh tay quét
trở ra. Hai người cứ làm như vậy suốt một khoảng đường dài.
Được một hồi lâu, Đệ không nhịn nhục được nữa, phải lên
tiếng:
- Ông giả bộ nhắm mắt phải không?
Ông già làm thinh, bước tới trước, tiếp tục quét lá. Cái
chổi di chuyển thật nhanh nhưng không hề trúng chân Đệ.
Thấy vậy Đệ chờ cái chổi đến gần liền đá lá ra chỗ khác.
Nhưng mặc cho Đệ làm thế nào đi nữa, cái chổi của ông già
vẫn bắt trúng lá và hất ra khỏi đường.
Đệ và ông già áo xám thi đua nhau như vậy cho đến khi mặt
trời lên. Nắng bắt đầu gay gắt khiến Đệ mệt lả, thở hồng hộc
.
Cuối cùng, Đệ nổi nóng thét lớn:
- Ông già, có chịu mở mắt ra không ?
Đệ vừa nói xong thì cái chổi trên tay ông già đột nhiên
chuyển hướng, lông chổi quất vào chân Đệ rát rát, còn cán
thì đập vào đít Đệ một phát .
Đệ bị đau quá la hoảng lên:
- Ê ông già không chơi như vậy chớ.
Đột nhiên, ông già lên tiếng:
- Thằng nhỏ kia, chịu thua chưa.
Đệ nhảy lùi ra sau, thảng thốt đáp:
- Con chịu thua.
Ông già áo xám mở mắt ra. Trời sáng tỏ, ánh nắng chiếu
nghiêng một bên người ông. Râu tóc ông già bạc trắng nhưng
khuôn mặt ông hồng hào, da trơn láng như trẻ thơ. Ông nhìn
Đệ, cười hiền hậu:
- Ngươi định trốn thoát khỏi chùa phải không?
Đệ sợ hãi, nhớn nhác nhìn chung quanh.
Ông già bật cười:
- Ngươi tưởng ta là người của Chấp Pháp Đường gởi tới để bắt
ngươi sao?
Đệ lo lắng hỏi:
- Ông là ai ?
Ông già thản nhiên đáp:
- Ta là ta.
- Ông tên gì ?
- Ta không biết.
- Tên của ông mà ông không biết à?
Lâu quá, ta quên mất tên ta rồi.
- Vậy người trong chùa gọi ông là gì ?
- Họ gọi ta là Lão Cuồng. Ngươi cứ kêu ta như vậy được rồi.
Đệ lắc đầu:
- Ông già rồi, con không dám gọi ông như vậy.
- Lão Cuồng là Lão Cuồng. Có gì xấu đâu mà ngươi không dám
gọi ta.
- Ông bao nhiêu tuổi rồi ?
- Sáu mươi năm trước, lúc vào chùa ta được mười tuổi.
Đệ thấy ông già nói chuyện hiền lành, cảm thấy bớt sợ:
- Vậy lúc đó ông bằng tuổi con.
Lão Cuồng nheo mắt nhìn Đệ:
- Thế ra ngươi được mười tuổi.
Ông già im lặng một lúc rồi hỏi:
- Ngươi là thằng bé thông minh. Tên ngươi là gì ?
Đệ ngạc nhiên nói:
- Con tên Huỳnh Đệ. Từ xưa tới giờ người ta nói con ngu độn,
chưa có ai khen con thông minh.
Ông già gật gù:
- Người đời chỉ thấy bằng mắt, suy nghĩ bằng não làm sao mà
biết được. Này, nhà ngươi phạm tội trong chùa rồi định tẩu
thoát chứ gì ?
Đệ gật đầu:
- Dạ phải.
- Nhà ngươi đã gây tội gì ?
- Con đánh sư huynh.
Tại sao ngươi đánh sư huynh ngươi ?
- Hắn bắt con phải học chữ. Hắn ép con học. Con học không
nhớ nên bị hắn chửi và đánh.
- Thế rồi ngươi đánh trả lại sư huynh ngươi ?
Đệ bực tức nói:
- Hắn không phải là sư huynh con. Từ nay con không gọi hắn
là sư huynh nữa.
Ông già gục gặc đầu:
- Không ai bắt ép được ai. Được rồi, nhà ngươi lại đây.
Lão Cuồng dẫn Đệ đến bên một tảng đá, nhỏ nhẹ nói:
- Ngươi ngồi đây.
Lão Cuồng leo lên tảng đá. Lão moi phía sau tảng đá ra một
chai nước và một gói giấy. Bên trong gói giấy có một ít cơm
khô . Lão chia cho Đệ một nửa:
- Nhà ngươi ăn cơm với ta.
Đệ nhảy thót lên, ngồi bên cạnh Lão Cuồng. Hai người vừa ăn
cơm khô vừa nhìn xuống phía rừng cây và thung lũng. Đệ vừa
ăn vừa hỏi:
- Ông nói không nhìn bằng mắt thì nhìn bằng gì ? Còn không
nghĩ bằng não thì nghĩ bằng gì ?
Lão Cuồng thong thả đáp:
- Nếu ngươi nhìn bằng mắt thì ngươi chỉ thấy được những gì
phía trước mặt, không thấy được phía sau lưng. Nếu ngươi suy
nghĩ bằng não thì ngươi chỉ hiểu những gì có mà không thể
hiểu những gì không có.
Đệ lắc đầu:
- Ông nói gì con không hiểu.
Lão Cuồng thản nhiên nói:
- Nếu ngươi không chỉ nhìn bằng mắt mà nhìn bằng não thì
không những ngươi thấy được những gì trước mặt mà còn thấy
cả phía sau lưng và tất cả mọi vật ở mọi nơi. Nếu ngươi suy
nghĩ bằng tâm linh thì ngươi hiểu cả những gì có mặt và cả
những gì không có.
Đệ lắc đầu:
- Con không hiểu ông nói gì.
Lão Cuồng gật đầu:
- Ta quên, ngươi chỉ mười tuổi, làm sao hiểu được, nhưng sau
này ngươi sẽ hiểu.
Lão Cuồng đưa chai nước cho Đệ:
- Ngươi uống chút nước này rồi muốn đi đâu thì đi.
Đệ lắc đầu:
- Con không biết đi đâu bây giờ. Về nhà, cha mẹ con sẽ đánh
chết.
Lão Cuồng im lặng một lúc rồi nói:
- Ngày xưa, sáu mươi năm trước, ta bị đưa vào chùa cùng lúc
với Phương trượng bây giờ. Người tự xưng là sư phụ ta đã dạy
ta những điều xằng bậy trong kinh sách. Sau đó, sư phụ ta
uống nhằm nước tiểu của ta. Rồi giày sư phụ ta bị trét phân.
Vì thế, Phương trượng đời trước phạt ta ra sau chùa quét lá.
Sau đó, mọi người quên bẵng ta. Đến khi Phương trượng chết,
ta cứ sống ngoài này. Vậy mà đã sáu mươi năm rồi.
Đệ trố mắt nhìn Lão Cuồng:
- Ông ở ngoài này quét lá đã sáu mươi năm rồi à ?
Lão Cuồng gật đầu:
- Chứ sao. Sáu mươi năm, ta quen hết mọi vật.
- Hèn gì ông nhắm mắt mà thấy hết mọi thứ.
- Ta đã bảo ngươi, ta nhìn bằng não mà.
Đệ thích chí hỏi:
- Thế thì ông nhắm mắt mà thấy được tất cả mọi vật. Ông dạy
cho con làm sao nhắm mắt mà câu được cá và bẫy được thú đi.
Lão Cuồng gật đầu:
- Ta chỉ cho ngươi biết cách chứ không phải dạy , rồi tự
ngươi sẽ hành xử. Ta không dạy và ta không là sư phụ của ai
cả.
- Vậy ông có bắt con học chữ hay không ?
- Ta không bao giờ bắt ép ngươi. Đến một lúc nào đó, ngươi
sẽ cần học chữ và tự ngươi tìm học. Lúc ấy, dù ta có ngăn
cản ngươi cũng không được.
- Thế thì con ở đây với ông được không ?
- Ngươi muốn ở đây bao lâu cũng được. Ta với ngươi sẽ trò
chuyện hàng ngày. Ngươi cùng ta quét lá.
Từ đó Đệ ở lại sau chùa. Hàng ngày, Đệ cùng Lão Cuồng quét
lá và rong chơi. Cơm nước, ngày hai bữa có nhà chùa lo.
Ngày qua, ban đầu Đệ nói chuyện chơi với Lão Cuồng, dần đần
Đệ hiểu nhiều hơn. Lão Cuồng gợi cho Đệ suy nghĩ nhiều
chuyện.
Lão Cuồng chăm chỉ đọc sách. Lão biết rất nhiều thứ. Bất cứ
chuyện gì, Lão Cuồng cũng bàn bạc được. Cả chuyện câu cá và
bẫy thú, Lão Cuồng chưa hề làm qua nhưng lão không những bàn
được mà còn chỉ cho Đệ nhiều cách thức khác, làm sao câu
được nhiều cá và bẫy được nhiều thú . Đệ không hiểu tại sao
Lão Cuồng biết được. Lão trả lời, đọc sách mà biết được .
Sống với Lão Cuồng gần một năm. Đệ cảm thấy cần biết nhiều
điều. Nhưng khi Đệ hỏi Lão Cuồng, có lúc lão giải thích, có
lúc lão bảo tìm trong sách mà đọc. Đệ bèn năn nỉ Lão Cuồng
dạy chữ. Bấy giờ, Lão Cuồng đem giấy mực ra dạy cho Đệ .
Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa thay đổi đến ba lần. Thấm thoát,
Đệ sống với Lão Cuồng đã được ba năm. Đệ rất thích Lão
Cuồng. Lão không bao giờ bắt ép Đệ làm điều gì, nhưng lão
biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra cho Đệ. Do đó, lão gợi ý điều
gì cho Đệ là trúng ngay điều đó.
Một hôm, sau khi ăm cơm chiều, Lão Cuồng bảo:
- Tối nay, ngươi đi theo ta làm chuyện này.
Đệ gật đầu, không cần biết sẽ làm chuyện gì. Đến nửa khuya,
Lão Cuồng đánh thức Đệ dậy, bảo mặc quần áo sậm màu, lấy vải
quấn giày lại để đi cho êm.
Sau đó, Lão Cuồng ra dấu cho Đệ đi theo. Hai người ra khỏi
căn nhà chứa củi, đi về phía chùa.
Đệ biết ý Lão Cuồng nên lẳng lặng làm theo mà không hỏi điều
gì . Đệ theo lão, trèo qua tường vào chùa. Lão đi rất nhanh,
thoăn thoắt.
Lão Cuồng rất rành mọi ngõ ngách, chứng tỏ lão thường vào ra
chùa.
Lão Cuồng dẫn Đệ đi quanh co, khi núp vào chỗ này, khi lách
qua ngõ khác để tránh các nhà sư tuần hành trong đêm.
Đi một hồi lâu, hai người tới một tòa nhà rất cũ. Lão Cuồng
chỉ tấm bảng treo trên cao trước cửa.
Nhờ ánh trăng lờ mờ. Đệ đọc được mấy chữ, mới biết tòa nhà
dó là Tàng Kinh Các của chùa .
Lão Cuồng lấy mấy que cây và một sợi dây, lòn qua khe cửa mở
chốt bên trong. Lão hành động rất thuần thục, giỏi hơn cả
một tên trộm rành nghề .
Đệ theo Lão Cuồng lẻn vào trong, đi men theo các dãy kệ
sách.
Lão Cuồng rút một cuốn sách trong người ra, để lên kệ, rồi
lựa hai cuốn sách, nhét vào trong bọc. Xong, Lão Cuồng đi
trở ra, cài chốt y như cũ.
Bấy giờ, Đệ mới hiểu những cuốn sách mà Lão Cuồng đọc lâu
nay là sách mượn của Tàng Kinh Các trong chùa .
Đến sáng hôm sau. Lão Cuồng lấy một cuốn sách ra dạy cho Đệ
học. Cứ như thế, nhiều năm trôi qua. Lão Cuồng dạy cho Đệ
học rất nhiều sách. Lão rất thông minh và sức hiểu biết sâu
rộng vô bờ. Lần đầu lão bảo Đệ đọc sách cho thông. Sau đó,
Đệ bàn luận với lão. Cách giải thích của Lão Cuồng khác hẳn
trong kinh sách.
Lão bảo Đệ:
- Người đời dạy cho ngươi vui vì được, ta chỉ cho ngươi biết
vui vì mất.
Đệ lắc đầu:
- Lão Cuồng à, con đi câu để sẩy một con cá, buồn cả một
ngày. Con bẫy thú, để sổng một con thỏ. rầu đến ba hôm. Lão
bảo con để sẩy cá. sổng thỏ mà vui thì vui làm sao được.
Lão Cuồng thản nhiên nói:
- Ngươi để sẩy một con cá, buồn một ngày. Nếu ngươi để sẩy
ba con cá thì buồn ba ngày. Ngươi làm sổng một con thỏ, rầu
ba hôm. Nếu ngươi để sổng hai con thỏ sẽ rầu sáu ngày. Sẩy
cá và sổng thỏ đã là mầm mống nghiệp chướng của đời ngươi
đó. Ngươi còn buồn rầu là còn chìm đắm trong đạo đời khổ ải.
Khi nào, ngươi cảm thấy mất mà vui thì mới nên người.
Mặc cho Lão Cuồng nói gì thì nói. Đệ ấm ức không chịu được.
Để sẩy cá và sổng thỏ, lại lấy chuyện đó làm vui thì Đệ
không nghe lọt tai được.
Một lúc khác, Lão Cuồng nói:
- Người đời dạy cho ngươi phải đi tới, ta chỉ cho ngươi biết
nơi đâu nên dừng lại và phải biết đi lùi.
Đệ bật cười:
- Đi tới thì dễ và đi lùi cũng có gì là khó đâu.
Lão Cuồng bảo:
- Ngươi đi tới thì nhanh và dễ dàng. Ngươi đi lui khó khăn
và chậm chạp. Tại vì mắt ngươi ở phía trước mặt.
Đệ mỉm cười hỏi:
- Nếu con có hai mắt ở sau lưng thì sẽ lùi dễ hơn phải không
?
Lão Cuồng lắc đầu.
- Mọi người được sinh ra chỉ có hai mắt phía trước. Ngươi
đừng có tham lam đòi hỏi nhiều mắt. Ngươi cứ tưởng tượng
xem, một người có bốn mắt sẽ trông quái dị như thế nào. Tại
vì ngươi nhìn bằng mắt cho nên chỉ thấy được phía trước. Như
ta đã nói, ngươi nhìn bằng não không những thấy được phía
trước mà luôn cả phía sau và khắp mọi bề.
- Như vậy, con phải làm sao để nhìn bằng não ?
Chừng nào con mới nhìn bằng não được ?
Lão Cuồng thong thả đáp:
- Con người có lục quan, thông thường chỉ xử dụng một quan
cho một việc.
Đệ bật cười:
- Ai cũng nói con người có ngũ quan, sao lão bảo có tới lục
quan?
Lão Cuồng giải thích:
- Thật sự con người có tới lục quan. Năm quan đầu là thị
giác, thính giác, khứu giác, vị giác, và xúc giác. Đồng thời
con người có thất khiếu là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, và
miệng. Người ta dùng mắt cho thị giác, dùng tai cho thính
giác, dùng mũi cho khứu giác, dùng miệng lưỡi cho vị giác,
dùng da cho xúc giác. Nhưng con người không biết dùng cái gì
cho giác quan thứ sáu là trực giác.
Đệ lắng tai nghe. Những điều mà Lão Cuồng nói quả nhiên hợp
lý, nhưng Đệ không hiểu được giác quan thứ sáu là gì.
Lão Cuồng hỏi:
- Ngươi dùng cái gì cho giác quan thứ sáu ?
Đệ lắc đầu:
- Con không biết.
Lão Cuồng từ tốn giải thích.
- Giác quan thứ sáu là trực giác quan trọng hơn cả . Trực
giác vô hình, vô sắc, vô thanh, vô vị. Ngươi phải biết dùng
trực giác, phải dùng tâm linh cho trực giác. Giác quan thứ
sáu này có uy lực vô biên, phối hợp cả ngũ quan kia.
Đệ lắc dầu:
- Con không hiểu.
- Nhưng ngươi có nhớ không?
- Dạ có.
- Được lắm. Với trực giác, ngươi không mở mắt mà thấy, không
dùng tai mà nghe được, không cần mũi mà ngửi được, không
dùng lưỡi mà biết vị, không sờ mà biết được.
- Con vẫn không hiểu.
- Nhưng ngươi có nhớ không?
- Dạ có.
- Hay lắm. Cho thị giác, ngươi không chỉ dùng mắt mà còn
dùng não để thấy. Cho thính giác, ngươi không chỉ dùng tai
mà còn dùng mắt để nghe. Cho khứu giác, ngươi không chỉ dùng
mũi mà còn dùng não để ngửi. Cho vị giác, ngươi không chỉ
dùng lưỡi mà còn dùng mắt để nếm. Cho xúc giác, ngươi không
chỉ dùng tay mà dùng mắt và tay để sờ.
Lão Cuồng nói huyên thiên một hồi khiến Đệ hoang mang, không
biết lão nói cái gì.
Đệ thảng thốt nói:
- Con không hiểu gì cả.
- Nhưng ngươi có nhớ không?
- Con cảm thấy mơ hồ, không chắc có nhớ hay không.
Lão Cuồng mừng rỡ nói:
- Tốt lắm, ngươi là đứa trẻ thông minh và thành thật.
Rồi Lão Cuồng và Đệ đi quét lá, xong, họ trở về căn nhà chứa
củi ăn cơm .
Được vài ngày, đến đêm, Lão Cuồng lại dẫn Đệ vào Tàng Kinh
Các của chùa tìm sách khác. Nơi đây, nhà chùa có đủ loại
sách, không chỉ có sách về Phật giáo mà còn có đủ sách của
các đạo khác. Lão Cuồng lần lượt, qua nhiều năm, chọn cho Đệ
hết sách này đến sách khác.
Thời gian trôi qua, Đệ ở sau chùa quét lá với Lão Cuồng được
bảy năm. Bấy giờ Đệ đã lớn, trở thành một thanh niên tuấn
tú.
Trong khoảng thời gian đó, cha mẹ Đệ bệnh nặng, lần lượt qua
đời. Đệ về lo chôn cất cha mẹ rồi trở lên sống với Lão
Cuồng.
Một hôm, trong khi quét lá, Lão Cuồng nói:
- Tuần sau, chùa sẽ có buổi thi quan trọng.
Đệ nhìn Lão Cuồng, không nói gì. Lâu nay sống với Lão Cuồng,
dần dà Đệ chẳng màng chuyện gì khác. Nhưng lần này, vẻ mặt
lão Cuồng có vẻ quan trọng, khiến Đệ phải suy nghĩ.
Lão Cuồng nói tiếp:
- Cứ bảy năm một lần, triều đình cho người đi tuyển sư phụ
cho vua. Chùa Bạch Vân này có tiếng tăm như nhiều nơi khác
nên được triều đình chọn là một địa điểm thi.
Đệ thản nhiên nói:
- Người trong chùa dự thi đâu có liên can gì đến chúng ta.
- Có chớ, ta và ngươi cũng thuộc về chùa. Bao nhiêu năm nay
chúng ta ăn cơm và quét lá cho chùa, ngươi không nhớ sao.
- Con nhớ chớ. Chúng ta vẫn quét lá hàng ngày mà.
- Này, ta bảo cho biết. Ta già rồi, nhưng ngươi còn trẻ,
phải ra dự thi.
Đệ lắc đầu:
- Lão đã dạy con phải biết đi lùi. Hôm nay, lão xúi con đi
tới
Lão Cuồng mỉm cười:
- Ngươi học những gì của ta thì phải biết vận dụng. Ngươi
phải đi tới rồi mới lùi được, có phải không? Từ trước tới
giờ, ngươi chưa đi tới bao giờ mà, thế thì ngươi lui chỗ
nào.
Đệ ngẫm nghĩ một lúc, gật đầu:
- Lão nói đúng.
Lão Cuồng gục gặc đầu. giải thích tiếp:
- Tới và lui dựa nhau mà hành xử. Người ta chết vì biết tới
mà không biết lui. Người ta trở thành ngu si, đần độn vì
biết lui mà không biết tới. Ngươi chỉ lui sau khi đã đi tới.
Ngươi không thể tới mãi mà cũng không thể lui mãi. Khi nào
tới và khi nào lui, ngươi phải thông hiểu điều đó.
Đệ gật đầu:
- Dạ.
Lão Cuồng tiếp:
- Hơn nữa, nhà ngươi còn trẻ, ngươi phải ra đời lập thân,
lấy vợ đẻ con, làm nên công danh sự nghiệp cho đất nước.
- Dạ.
- Tốt. Mỗi bảy năm, triều đình cử người tới chùa này để
tuyển sư phụ cho vua. Nhưng hơn nửa thế kỷ qua, chùa Bạch
Vân này cũng như các nơi khác, chưa có ai được chọn.
Đệ suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Vậy thì đề thi chắc khó lắm?
- Khó hay không, tùy ở con người. Bao nhiêu năm qua đề thi
chỉ có một không hề thay đổi, mà không ai trúng tuyển. Những
kẻ lớn tuổi như Phương trượng và ta đều biết rõ, chỉ có một
đề thi mà thôi. Đề thi này do một vị vua đời trước bày ra
gần một thế kỷ rồi.
Đệ ngồi im lặng. Dự thi hay không, Đệ không suy nghĩ tới nên
không hỏi.
Lão Cuồng biết vậy nên nói tiếp:
- Ngày xưa, vị vua đó cho làm ra một bia đá, khắc một bài
thơ bằng một thứ chữ cổ. Cách thi rất đơn giản, thí sinh
phải đọc và nhớ thuộc lòng bài thơ, chép lại nguyên bản trên
giấy và dịch ra cho mọi người hiểu. Vị hoàng đế ấy cho biết
rằng, khi nào có người nhớ hết cả bài thơ trong thời gian
ngắn như vậy là lúc ngài tái sinh, và phải chọn người đó làm
sư phụ cho vua.
Đệ lắc đầu:
- Lão nói cách thi đơn giản nhưng phải có khó khăn như thế
nào nên bao nhiêu năm nay không có người trúng tuyển.
Lão Cuồng gật đầu:
- Đúng vậy. Họ để tấm bia vào trong một bồn nước rồi cho
quân sĩ múc nước đổ vào bồn. Khi nước đầy bồn thì ngập hết
tấm bia. Lúc đó thời gian của buổi thi chấm dứt.
Đệ vẫn lắc đầu:
- Con đi thi làm gì, sống nơi đây với lão cũng được rồi.
Lão Cuồng ung dung nói:
- Ta không ép ngươi nhưng cha mẹ ngươi luôn luôn muốn ngươi
trở thành người có công danh và sự nghiệp. Ngươi hãy suy
nghĩ cho kỹ.
Lão Cuồng nói xong, cùng Đệ đi quét lá. Lão ung dung làm
việc, thư thái mà sống. Từ đó, lão không nhắc gì tới chuyện
dự thi nữa.
Đệ chờ Lão Cuồng đề cập đến chuyện dự thi nhưng không nghe
lão nói gì. Hình như lão quên bẵng chuyện đó.
Một hôm, trời vừa hừng sáng, Lão Cuồng đánh thức Đệ dậy:
- Ngươi có đi với ta xem lễ hay không ?
Đệ sống với Lão Cuồng quá lâu, hiểu rõ tính lão, vốn không
ưa náo nhiệt. Đột nhiên, sáng nay lão rủ Đệ đi xem lễ khiến
Đệ ngạc nhiên:
- Lễ ở đâu ?
- Hôm nay, trong chùa có làm lễ thi tuyển sư phụ cho vua.
Ngươi theo ta đi xem cho vui .
Đệ biết Lão Cuồng có dụng ý khác, chẳng phải vì vui và náo
nhiệt mà lão mời mọc Đệ đi chơi. Đệ nhớ tới lời đề nghị của
lão hôm trước nên lòng rộn rã , muốn biết người ta tổ chức
thi như thế nào. Đệ gật đầu:
- Con đi với lão.
Lão Cuồng ậm ừ nói:
- Ngươi muốn đi thì theo, chứ ta không ép.
- Dạ, con muốn đi mà .
- Được.
Lão Cuồng moi sau đống củi ra một cái gói bọc bằng giấy dầu.
Lão mở ra, bên trong có bộ quần áo màu xám còn mới. Lão nói:
- Ta cho ngươi áo mới đi dự lễ.
Đệ ngạc nhiên hỏi:
- Lão tìm bộ quần áo này ở đâu ?
Thấy Đệ nhìn với ánh mắt nghi ngờ, Lão Cuồng liền cải chính:
- Bộ quần áo này của mấy tên sư trẻ trong nhà bếp cho ta.
Đệ gật đầu nói:
- Con tin lão, nhưng chẳng phải lão xin đâu.
- Ta không ăn trộm quần áo của ai.
- Lão không ăn trộm nhưng lão lại gạt mấy tên trong nhà bếp
chuyện gì đó để lấy bộ quần áo này.
Lão Cuồng gật đầu:
- Đúng vậy, chúng nó thua trí ta.
Đệ bật cười:
- Lão cá với họ chuyện gì ?
Lão Cuồng mỉm cười, thú thật:
- Đâu có chuyện gì lạ . Bọn chúng đâu biết ta nhắm mắt mà
thấy được, nên cá với ta. Thế là cả bọn đều thua.
- Lão cá với họ chuyện gì.
- Ta đưa chúng nhiều viên sỏi . Bảo chúng nó giấu mấy viên
sỏi trong lòng bàn tay. Nếu ta nói đúng số viên sỏi, ta
thắng, thì họ thua .
- Con biết đương nhiên họ thua, nhưng làm cách nào mà lão
thắng được.
Lão Cuồng thản nhiên nói:
- Ngươi theo ta khá lâu mà chưa biết sao? Mỗi khi tên nào
giấu bao nhiêu viên sỏi, chúng nó đều nhìn vào lòng bàn tay
trước. Thế rồi, ta nhìn vào mắt chúng, ta đọc được hết. Ta
có bao giờ thèm nhìn vào bàn tay nắm chặt của chúng đâu.
Nói xong, Lão Cuồng thúc giục:
- Ngươi thay quần áo rồi chúng ta đi.
Đệ cởi bộ quần áo rách nát ra, mặc bộ mới vào. Lão Cuồng
nhìn Đệ, tấm tắc khen:
- Quả nhiên ngươi không xấu, thật xứng đáng là sư phụ của
vua.
Đệ giật mình hỏi:
- Lão vừa nói gì ?
Lão Cuồng nói lảng sang chuyện khác:
- Ngươi theo ta đi mau.
Hai người ra khỏi nhà chứa củi, trèo qua bức tường, vào phía
sau nhà bếp của chùa. Sáng nay, trong chùa thật vắng lặng,
chỉ còn vài người lo chuyện nấu bếp và canh phòng.
Lão Cuồng nói nhỏ:
- Họ ra ngoài chánh điện rồi.
Lão vừa nói vừa đi thật nhanh. Đệ sống với Lão Cuồng đã lâu,
chỉ thấy lão đi khoan thai, nhẹ nhàng. Chưa bao giờ Đệ thấy
lão đi nhanh. Người Lão Cuồng tuy đi nhưng tựa như bay trên
mặt đất. Đệ rán sức chạy theo nhưng không đuổi kịp, đành gọi
vòi theo:
- Lão làm gì mà chạy nhanh quá vậy.
- Ta đang đi mà .
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, thoáng chốc đã đến một tòa
nhà thật rộng. Lão Cuồng đi vào cửa phía bên phải. Đệ thấy
bên trong có rất nhiều người. Các nhà sư của chùa ngồi hai
bên thành ba dãy. Phía trên bày hương án, ngay dưới là một
dãy bàn, có nhiều người ngồi. Chính giữa có bốn vị quan mặc
triều phục xanh, đỏ, đen, vàng. Kế đó là Phương trượng và ba
nhà sư già nữa.
Đệ thấy Lão Cuồng ngang nhiên đi vào. Mọi người trong sảnh
đường đều nhìn lão, lấy làm kinh ngạc.
Một nhà sư đứng gần cửa đưa tay chận Lão Cuồng lại:
- Nam mô A Di Đà Phật, xin thí chủ dừng chân .
Lão Cuồng ung dung hỏi:
- Ta vào trong kia được không?
Nhà sư liền hỏi:
- Thí chủ là ai?
- Ta là Lão Cuồng.
Nhà sư ngơ ngác hỏi:
- Lão Cuồng là ai ? Tại sao thí chủ xâm nhập vào bổn chùa ?
Lão Cuồng ngạc nhiên hỏi:
- Ta ở trong chùa này mà .
Nhà sư liền nạt:
- Thí chủ đừng nói những điều không thật.
- Ta ở đây đã sáu mươi năm rồi mà ngươi không biết sao ?
Trong sảnh đường đang im lặng nên cuộc đối thoại của hai
người vang rõ mồn một .
Hai vị sư phía trên thềm điện liền bước xuống. Một trong hai
người là Phương trượng của chùa .
Vị sư kia liền hỏi:
- Thí chủ là ai ? Tại sao dám đường đột vào đây ?
Lão Cuồng nhíu mày nhìn sắc phục của nhà sư rồi nói:
- À, ngươi là thủ tọa của Chấp Pháp Đường. Ngươi vào chùa
được bao nhiêu lâu rồi?
- Ta vào chùa được bao lâu có liên can gì đến thí chủ?
- Có chứ. Có lẽ ngươi vào chùa sau này nên không biết ta.
Hai người đang đối đáp, chợt Phương trượng lên tiếng:
- Vô Chấn, lâu nay ông mạnh giỏi chớ?
Lão Cuồng bật cười:
- Thế ra cũng có người nhớ tên ta. Vô Chung, ta vẫn khỏe
mạnh, nhưng ông chắc thường đau ốm luôn .
Lão Cuồng vừa nói xong thì các nhà sư trong chùa đều đứng
lên, lộ vẻ giận dữ.
Lão Cuồng thản nhiên nói:
- Tên thầy của các ngươi có gì đâu mà phải úy kỵ .
Nhà sư thủ tọa Chấp Pháp Đường liền lên tiếng:
- Lão Cuồng, Phương trượng đời trước đã phạt ông không được
vào chùa, tại sao ông cãi lệnh ?
Lão Cuồng bật cười:
- Chuyện Phương trượng đời trước phạt ta cách đây hơn năm
mươi năm rồi. Lúc ngài viên tịch đã quên mất ta. Nếu nhớ,
ngài đã tha tội cho ta rồi. Ta lỡ để cho sư phụ ta uống nhằm
nước tiểu
của ta, hay trét phân vào giày sư phụ ta, chẳng lẽ tội ấy
nặng đến nỗi phải phạt hơn năm mươi năm hay sao ? Ngươi là
thủ tọa Chấp Pháp Đường, làm việc tắc trách, không nhớ ai bị
phạt trong chùa để đem ra duyệt xét. Ngươi bỏ ta sau chùa
bao nhiêu năm nay, tội làm việc thiếu xót ấy đáng bị xử như
thế nào ?
Lão Cuồng nói thao thao bất tuyệt, tranh luận thật hùng hồn.
Đệ không ngờ, cứ tưởng lão không biết nói chuyện .
Nghe Lão Cuồng hạch sách thủ tọa Chấp Pháp Đường, Phương
trượng liền can thiệp:
- Vô Chấn, ông không được nói chuyện vô lễ như vậy. Chuyện
của ông, ta sẽ cứu xét sau buổi thi này .
Lão Cuồng ung dung nói:
- Hơn năm mươi năm nay ta không chính thức vào chùa, nhưng
hôm nay ta trở lại chẳng phải vì chuyện năm xưa. Ta chỉ xin
Phương trượng cho thằng nhỏ kia được dự thi .
Lão Cuồng vừa nói vừa chỉ về phía Đệ. Mọi người đều quay lại
nhìn .
Đệ mặc quần áo xám, tăng chúng đều biết chức phận Đệ rất
thấp. Đệ lại quá trẻ nếu so với ba người được chùa tuyển lựa
để dự thi, đều đã hơn bốn mươi .
Thủ tọa Chấp Pháp Đường kề tai phương trượng nói nhỏ .
Vừa nghe xong, Phương trượng lên tiếng ngay:
- Thí chủ , trẻ đó phạm tội đánh sư huynh, chưa mãn hạn tội.
Lão Cuồng điềm nhiên nói:
- Ta không bàn về chuyện đó. Ta chỉ muốn nói rằng, nước tiểu
ta.. .
Lão Cuồng chưa nói xong thì Phương trượng cất cao giọng nói
át:
- Vô Chấn, ngươi không được nói chuyện điên giữa chỗ trang
nghiêm như thế này .
Mọi người đang theo dõi cuộc đối đáp của Phương trượng và
Lão Cuồng thì vị quan mặc triều phục đỏ đứng dậy, bực tức
nói:
- Quí vị muốn giải quyết chuyện nội bộ ở đây hay là chúng ta
hủy bỏ cuộc thi .
Giọng người này vang lên sang sảng trong sảnh đường .
Phương trượng nghe xong, liền quay lại cúi đầu:
- A Di Đà Phật, xin đại nhân cho bắt đầu cuộc thi. Ta đồng ý
cho thí chủ trẻ kia được tham dự cuộc thi .
Lời tuyên bố của Phương trượng làm mọi người ngỡ ngàng. Tuy
vậy, họ lại nghĩ rằng Phương trượng vì danh dự của Phật môn
mà phải chịu như vậy .
Sau lời tuyên bố của Phương trượng mọi người trở về chỗ cũ .
Lão Cuồng tiến lại gần Đệ, nói nhỏ:
- Ngươi phải nhớ, không chỉ nhìn bằng mắt mà còn nhìn bằng
não. Người ta đi tới thì ngươi phải biết đi lui. Người ta đi
thuận thì ngươi phải đi ngược .
Lão Cuồng vừa dứt lời thì một nhà sư bước tới, dẫn Đệ đến
ngồi trên một cái ghế bên cạnh ba nhà sư dự thi. Họ đang
ngồi phía trước, gần thềm đại điện.
Lão Cuồng lẳng lặng lui ra phía sau.
Một người trong bốn vị quan giám khảo gõ một tiếng chuông.
Tức thì tất cả mọi người trong sảnh đường đều quay mặt ra
sau, ngó vào tường. Rồi mỗi người rút ra một khăn đen, tự
bịt mắt.
Ba nhà sư dự thi cũng hành động y như vậy.
Đệ còn đang ngơ ngác thì một nhà sư bước tới, lấy khăn đen
bịt mắt Đệ rồi xoay Đệ ra phía sau.
Một tiếng chuông nữa vang lên.
Bốn quân sĩ khiêng một bia đá từ phía sau, để vào bồn nước
thật lớn ở giữa sảnh đường.
Thí sinh ngồi trên ghế, có thể nhìn trọn tấm bia và đọc được
hết chữ của bài thơ. Thời gian thi không lâu mà cũng không
mau. Khi nào nước trong bồn ngập hết tấm bia là xong một lần
thi.
Một tiếng chuông vang lên.
Nhà sư đầu tiên bên phải được quay lại và mở khăn bịt mắt
ra. Trước mắt người dự thi là tấm bia bằng đá hoa cương có
khấc nguyên một bài thơ bằng chữ cổ. Nét khắc thật sâu và rõ
ràng.
Trong khi nhà sư dự thi ra sức đọc và cố nhớ bài thơ trên
tấm bia đá thì bốn quân sĩ gánh nước đổ vào bồn. Tiếng chân
người di chuyển rầm rập và tiếng nước đổ xào xát, ùng ục.
Bốn người này mang áo giáp, đeo gươm, gắn lục lạc, nên mỗi
khi di chuyển phát ra những tiếng leng keng, lẻng xẻng .
Nước trong bồn càng lúc càng dâng cao lên, thời gian càng
thu ngắn lại. Dần dần, trên trán nhà sư bắt đầu lấm tấm mồ
hôi, vẻ mặt căng thẳng hơn, và thần sắc càng mệt mỏi.
Khi nước ngập đầy bồn thì cũng vừa che lấp tấm bia.
Một tiếng chuông vang lên.
Nhà sư dự thi được dẫn đến cái bàn đối diện với bốn vị quan.
Nơi đó có giấy bút sẵn sàng. Nhà sư liền ngồi xuống hí hoáy
chép ngay.
Kết quả không khả quan. Bốn vị giám khảo đều lắc đầu. Nhà sư
này không nhớ được một phần sáu bài thơ, lại nhớ loạn lên,
đảo lộn cả thứ tự trước sau, trên dưới .
Đến nhà sư thứ hai, kết quả không khá hơn: Chỉ nhớ được
chừng một phần năm và lộn xộn chữ và câu.
Phiên nhà sư thứ ba , khá nhất, nhớ được một phần tư, giữ
đúng được thứ tự.
Bốn vị quan mỉm cười thoải mái .
Cuối cùng, đến phiên Đệ.
Mọi người trong sảnh đường nhìn thấy Đệ còn quá trẻ, bộ dạng
ngơ ngác, đều tỏ vẻ xem thường .
Tiếng chuông bắt đầu.
Bốn quân sĩ cũng di chuyển, đổ nước vào bồn. Những âm thanh
của họ phát ra thật ồn ào. Nào tiếng chân đi, tiếng lục lạc,
áo giáp, gươm chạm nhau, rồi tiếng nước đổ chạm vào thành
bồn. Hình ảnh xoay chuyển và âm thanh náo động làm Đệ xao
lảng ngay từ phút đầu.
Đệ thấy những chữ trên bia đá bắt đầu nhảy múa loạn lên, chữ
này trợt lên chữ kia, hàng này chồng lên hàng nọ. Đệ đang
hoang mang, chợt nghe lời Lão Cuồng văng vẳng bên tai, không
chỉ nhìn bằng mắt mà còn nhìn bằng não..., không chỉ nhìn
bằng mắt mà còn nhìn bằng não...
Ráng trấn tỉnh, Đệ nhìn thẳng vào tấm bia, cố nhớ thật kỹ
rồi từ từ nhấm mắt lại. Lạ thay, bao nhiêu hình ảnh và âm
thanh rối loạn không còn nữa. Giữa một vùng tối mờ, hiện ra
trước mặt Đệ nguyên tấm bia đá với trọn cả bài thơ.
Đệ lại nghe lời Lão Cuồng nhắc nhở, người ta đi tới thì
ngươi phải biết đi lùi, người ta đi thuận thì ngươi phải
biết đi ngược...
Vừa nghe xong, Đệ tỉnh ngộ ngay. Đệ bắt đọc ngược từ chữ
cuối cùng, đi trở lên. Người ta đọc từ phải qua trái thì Đệ
nhớ từ trái qua phải. Lạ lùng thay, khi đọc ngược thì nghĩa
bài thơ bày tỏ ra rõ ràng.
Đệ vừa đọc vừa cố nhớ. Đệ nhớ được chừng phân nửa bài thơ
thì tấm bia đá với bài thơ trước mặt Đệ vụt biến mất. Đệ mở
mắt ra, bị chi phối ngay bởi hình ảnh rối loạn và âm thanh
xao động ầm ĩ.
Trong bồn, nước đã ngập gần nửa tấm bia. Đệ nhìn kỹ, cố nhớ
rồi nhắm mắt lại.
Lần này, Đệ nhớ được thêm một phần tư nữa của bài thơ thì
hình ảnh trong não lại biến mất. Đệ mở mắt ra, nước trong
bồn dâng lên xấp xỉ ba phần tư tấm bia rồi.
Đệ theo phương pháp của Lão Cuồng đã chỉ, nhắm mắt lai cố
nhớ phần còn lại.
Khi Đệ vừa nhớ trọn bài thơ thì tiếng chuông vang lên. Đệ mở
mắt ra, trong bồn, nước đã ngập phủ hết lấm bia. Cả bài thơ
đã bị chìm trong nước, Đệ chầm chậm đứng lên, bước theo nhà
sư hướng dẫn đến trước mặt bốn vị quan. Đệ ngồi xuống nhắm
mắt lại và cầm bút lên.
Bốn vị giám khảo và bốn nhà sư ngồi kế cận là Phương trượng,
thủ tọa Chấp Pháp Đường, La Hán Đường, Tàng Kinh Các đều trố
mắt ngạc nhiên. Họ không ngờ Đệ có hành động lạ lùng như
vậy. Trong đời, họ chưa bao giờ thấy ai vừa nhắm mắt vừa
viết chữ .
Đệ ngồi đối diện với bốn vị giám khảo. Khi Đệ chép tới nửa
bài thơ thì thần sắc bốn vị bắt đầu thay đổi. Đệ cứ chép
thong thả. Từ trong ngọn bút của Đệ, chữ cứ tuôn ra không
ngừng.
Đột nhiên vị quan áo đỏ cười lên hăng hắc như một đứa trẻ.
Vị quan áo xanh đổi sắc mặt tái nhợt.
Vị quan áo vàng khóc rưng rức, tức tưởi.
Còn vị quan áo đen ngơ ngác nhìn quanh.
Bốn người đều già, da mặt nhăn nheo và tóc bạc, biểu lộ ra
bốn sắc thái khác nhau.
Khi Đệ viết xong chữ cuối cùng của bài thơ thì bốn vị giám
khảo đã đến trạng thái quá độ.
Vị áo đỏ gập người mà cười hăng hắc.
Vị áo xanh ngồi im tái nhợt như một xác chết.
Vị áo vàng khóc hu hu, kêu gào thảm thiết.
Vị áo đen ngơ ngẩn như một kẻ mất hồn .
Tăng chúng trong sảnh đường không biết Đệ làm chuyện gì mà
khiến bốn vị giám khảo đang oai vệ trong triều phục lộng
lẫy, đột nhiên biểu lộ như bốn kẻ điên khùng .
Nguyên bốn vị quan này. Vị áo đỏ là hoạn quan đã phục vụ cho
Hoàng đế, người làm ra tấm bia và bài thơ đó, còn ba người
kia là học trò của ngài .
Mọi người trong hội trường đang ngơ ngác thì bốn vị quan,
đột nhiên đứng lên, bước ra trước mặt Đệ, sụp xuống lạy .
Vị áo đỏ kêu lên:
- Thái thượng, thái thượng .
Ba vị kia tung hô:
- Sư phụ, sư phụ,.. .
Đệ hoảng hốt đứng dậy, loạng choạng bước ra sau.
Bốn vị quan bước tới bằng đầu gối, không ngớt gọi:
- Thái thượng, sư phụ, sư phụ, sư phụ .
Cả sảnh đường xôn xao. Phương trượng phải đứng lên, ra hiệu
cho mọi người im lặng .
Ba vị thủ tọa của Chấp Đường, La Hán Đường, và Tàng Kinh Các
lần lượt bước ra cúi đầu chào:
- A Di Đà Phật, các bần tăng xin chúc mừng ngài .
Đệ còn hoảng hốt, lắp bắp hỏi:
- Tôi đã làm gì ?
Thái độ thất thần của Đệ càng làm cho bốn vị quan tin hơn
nữa. Họ quì lạy liên hồi, dập đầu xuống nền đá đến chạy máu
trán .
Phương trượng thấy cảnh tượng thương tâm quá liền bước lại
gần Đệ, khuyên nhủ:
- Ngài hãy mau mau cho phép họ đứng dậy.
- Tôi, tôi.. .
Phương trượng giải thích:
- Họ nghĩ rằng ngài là Hoàng đế đời trước tái sinh .
Bấy giờ Đệ mới hiểu ra, liền hỏi:
- Tôi phải làm sao ?
Phương trượng ôn tồn nói:
- Bây giờ ngài là một người khác rồi. Tiếng nói của ngài có
uy lực vô biên. Ngài hãy cho phép họ đứng lên .
Đệ liền dõng dạc nói:
- Bốn người đứng lên mau .
Bốn vị quan lật đật đứng dậy. Họ đứng xuôi tay thật nghiêm
túc. Trên nét mặt họ vẫn giữ nguyên sắc thái ban đầu .
Bấy giờ, tăng chúng trong sảnh đường mới trông thấy họ rõ
ràng.
Vị áo đỏ vẫn cười toe toét.
Vị áo xanh còn tái nhợt.
Vị áo vàng khóc rưng rức, nước mắt chảy xuống đầy mặt.
Vị áo đen ngơ ngẩn, thất thần .
Bọn quân sĩ đã dọn dẹp mọi thứ, cùng đám tùy tùng tiến lên,
xếp thành hai hàng chờ lệnh .
Một lúc lâu sau, bốn vị quan dịu bớt xúc động. Vị áo đỏ nói
với phương trượng:
- Hơn năm mươi năm, qua biết bao kỳ thi chúng tôi chưa thấy
ai nhớ nỗi quá nửa bài thơ. Mà bây giờ... thật may mắn, Thái
thượng đã chọn chùa Bạch Vân làm chỗ tái sinh .
Vị áo xanh tiếp lời:
- Chúng tôi sẽ tâu với hoàng thượng sắc phong cho chùa Bạch
Vân làm Quốc Tự .
Vị áo vàng cũng nói:
- Chúng tôi cũng xin hoàng thượng chu cấp bổng lộc cho chùa
đời đời .
Vị áo đen phụ họa:
- Chúng tôi cũng xin Hoàng thượng một ngân khoản lớn để
trùng tu chùa Bạch Vân .
Phương trương và các Thủ tọa cúi đầu nói:
- Đa tạ các đại nhân .
Vị áo đỏ nói tiếp:
- Chúng tôi phải hộ tống Thái thượng về ngay kinh đô .
Các vị quan kia cùng gật đầu:
- Chúng tôi cử người cấp báo cho Hoàng thượng ngay. Bây giờ
xin phương trượng cho chúng tôi được cáo từ .
Trong khi mọi người đang nói chuyện, Lão Cuồng đi lại gần .
Vị áo đỏ chỉ lão hỏi nhỏ:
- Người này là ai?
Phương trượng đáp:
- Người này tên là Vô Chấn, một người làm việc trong chùa .
Vị áo xanh hỏi:
- Ông ấy liên hệ như thế nào với sư phụ ?
Phương trượng còn đang ngập ngừng thì Lão Cuồng bước lại
gần:
- Chúng tôi chỉ là bạn hữu .
Lão Cuồng quay sang phía Đệ:
- Ngươi phải cẩn thận, từ nay trở đi không còn ta bên cạnh
nữa đâu .
Đệ cúi đầu vâng dạ:
- Con biết .
Lão Cuồng quay lưng bước đi. Lúc đi ngang Phương trượng, lão
nói:
- Nước tiểu của ta không khai và phân ta không thối như vậy
.
Mọi người nghe Lão Cuồng nói đều ngơ ngác. Họ tưởng lão nổi
cơn điên. Nhưng Phương trượng vừa nghe xong, chợt biến sắc
mặt, chân tay run rẩy .
Lão Cuồng vừa đi vừa nói vòi lại:
- Ta chỉ nói thế thôi .
Đệ nhớ lại câu chuyện mà Lão Cuồng đã kể năm xưa. Lão Cuồng
bảo rằng, sư phụ lão uống nhằm nước tiểu của lão. Ngoài ra
giày sư phụ của lão bị trét phân. Vì những chuyện đó mà Lão
Cuồng bị phạt ra quét lá sau chùa đã gần sáu mươi năm. Tại
sao bây giờ, lão nói ra những điều này?
Đệ còn đang thắc mắc thì Lão Cuồng đã đi gần tới cửa. Đệ
chạy theo, run giọng nói:
- Lão ở lại nhớ bảo trọng .
Lão Cuồng cười hiền hậu:
- Ngươi nghe đây.
Đệ cúi đầu ngẫm nghĩ Lão Cuồng lặp lại:
- Giữ làm chi cho nhiều không bằng thôi bỏ bớt. Trau chuốt
chi cho bén nhọn mà không giữ được lâu dài. Của cải chi cho
nhiều để mang thêm phiền lụy. Công thành, việc trọn, nên lui
.
Lão Cuồng vừa nói vừa bước đi.
Đệ chạy theo, gọi vòi:
- Sư phụ .
- Ta không phải sư phụ ngươi. Hãy nhớ những lời ta dặn .
Thoáng qua, Lão Cuồng đã khuất sau khung cửa. Tiếng lão còn
vọng lại:
- Giữ làm chi cho nhiều không bằng thôi bỏ bớt...
Bốn mươi năm sau. Buổi chiều đông lạnh, mưa phùn, gió bấc.
Dinh Tể Tướng nằm im lìm trong sương mờ. Bên trong dinh tối
tăm. Chỉ có một căn phòng còn để đèn.
Tể Tướng Huỳnh Đệ đã gần lục tuần, tóc hoa râm, nhưng ông
còn khỏe mạnh. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mơ màng nhìn ra
khung cửa sổ. Bao nhiêu năm qua, Tể Tướng được từ vua tới
dân nể trọng. Ông không những là Thái sư, thầy của vua, mà
còn là Tể Tướng có quyền hành cao nhất nước, chỉ dưới vua mà
thôi. Tể Tướng được vua trao gươm vàng, tiền trảm hậu tấu.
Ngài được quyền đeo gươm, bước lên thềm điện trong buổi
chầu. Ngài được quyền mang gươm vào cả trong hậu cung vua.
Phu nhân ngài mất sớm, còn hai con, một trai một gái, đã
lớn, đều có công danh, sự nghiệp, và gia đình. Tuy quyền
cao, chức trọng, giàu sang như vậy nhưng Tể Tướng không vui
bao giờ. Lúc nào ông cũng đăm chiêu, suy nghĩ.
Chiều nay, ngài ngồi bên cửa sổ như trông đợi chuyện gì .
Chợt có lính hầu vào thông báo có sứ giả phương xa về tới .
Một người trung niên bước vào, quần áo đẫm ướt nước mưa và
sương lạnh. Người ấy quì xuống:
- Thưa đại nhân, thuộc hạ vừa về tới, vội vàng đến báo cáo
cho đại nhân rõ.
- Ta nghe đây.
- Thưa đại nhân. Thuộc hạ vâng lệnh ngài, nhờ các nhà sư
trong chùa chuyển thức ăn và quần áo cho người ấy trong bao
nhiêu năm qua nhưng ông ấy vẫn từ chối. Tiểu nhân nghĩ rằng,
đại nhân đã biết những chuyện đó rồi.
- Ta biết. Còn những chuyện gần đây thì sao?
- Thưa đại nhân, các nhà sư cho biết, người ấy càng ngày
càng điên nhiều lắm.
Tể Tướng bực bội hỏi:
- Tại sao họ bảo ông ấy điên?
- Dạ, ông ấy, chẳng những không nhận quần áo và thức ăn mà
còn lấy phân và nước tiểu ném vào người các nhà sư.
Tể Tướng trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Người ấy không bao giờ điên.
- Thưa đại nhân...
- Ta bảo ông ấy không điên là không điên. Nếu có điên thì ta
điên, ngươi điên, hay thiên hạ đều điên.
- Thưa đại nhân...
- Chuyện gì ?
- Các nhà sư...
- Ta đã nói với ngươi rồi. Các nhà sư trong chùa không sao
hiểu nổi ông ấy. Nếu thiên hạ chỉ có một người sáng suốt,
người đó phải là ông ấy.
Tể Tướng đứng lên, bước lại gần cửa sổ. Ông nhìn ra ngoài
trời lạnh giá. Ông lẩm bẩm:
- Ta phải về với ông ấy.
- Thưa đại nhân, ngài vừa nói gì ?
- Ta đã viết sẵn lá thư cho Hoàng thượng. Ngày mai, ngươi
mang thư cùng với ấn tín, và thanh gươm này vào đệ trình cho
Hoàng thượng .
Người sứ giả run giọng hỏi:
- Thưa đại nhân, tại sao ngài quyết định như vậy ?
- Ngươi đừng hỏi. Vì ngươi có biết cũng không thể hiểu nổi.
Gần bốn mươi năm nay, ngươi đã theo phò tá ta, một lòng
trung kiên. Khi ta đi, một phần tư gia sản của ta, thuộc về
ngươi, còn lại ba phần tư, ngươi phân phát hết cho người
nghèo.
- Thưa đại nhân. Kẻ hèn này chỉ muốn theo ngài.
- Ngươi theo ta sẽ không được gì. Bởi vì ta chẳng còn thứ
gì.
- Đại nhân.
- Đây là lệnh.
- Dạ, thuộc hạ xin tuân theo.
- Trong thư, ta đã căn dặn mọi điều. Ngươi cứ làm theo những
gì ta dặn. Ngày mai, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa. Cho
ngươi lui.
- Dạ , thuộc hạ cáo từ. Xin đại nhân bảo trọng.
- Ngươi đi đi.
Chùa Bạch Vân trông cũ kỹ hơn, quanh chùa, cây cối nhiều và
già cỗi. Tăng chúng trong chùa đã thay đổi quá nhiều. Chùa
đã hai lần đổi Phương trượng .
Một buổi sáng, sau chùa Bạch Vân. Trong sương sớm có hai
người vừa đi vừa quét lá. Người đi đầu là một ông già, râu
tóc bạc phơ. Người đi sau tuổi quá trung niên, râu đen
nhánh, tóc hoa râm. Cả hai vừa đi, vừa nhắm mắt.
Ông già đi đầu, từ tốn nói:
- Có một chiếc lá vừa rơi sau lưng ngươi.
- Dạ, con vừa biết được.
- Tốt.
- Có một chiếc lá vừa rơi trước mặt sư phụ.
- Ờ, ta cũng biết, nhưng ngươi vừa gọi ta bằng gì ?
- Dạ, sư phụ.
- Sao ngươi lại gọi ta là sư phụ ?
- Sư phụ là sư phụ mà cũng không là sư phụ. Tại sao sư phụ
lại trói mình trong hai chữ sư phụ .
Ông già bật cười:
- Ngươi giỏi lắm. Bây giờ ngươi gọi ta như thế nào cũng
được, Lão Cuồng hay Sư Phụ, có khác gì đâu.
- Có một con chim vừa đậu trên vai sư phụ.
- Ờ , cứ mặc kệ nó .
|