Sáng ngày hôm đó tôi được mặc quần áo
mới, vác cái cạt táp to gần nửa người và
theo ba tôi đi học trường lớn. Mà
trường lớn thiệt, nhà ngang, dãy dọc,
sân trước minh mông, có hơn mười cây cổ
thụ, tàng rộng, lá xanh. Từ cổng trường
phải đi qua hai dãy nhà lớn mới tới sân
chơi ở sau. Các thầy giáo phụ trách lớp
đều mặc một kiểu áo thụng đen, trước cổ
cài một cái thẻ trắng không biết làm
bằng gì. Không có cô giáo. Phải hơn
tuần sau tôi mới biết trường tên là
Institution Taberd, do các Frères (sau
này gọi là các Sư huynh) dòng La Salle
(La-San) điều khiển và giảng dạy. Khi
vào lớp, thầy và trò đều đứng, làm dấu
thánh giá, đọc kinh xong học trò mới
được phép ngồi xuống. Bàn Frère ngồi
đặt trên bục, giữa hai tấm bảng đen lớn.
Tôi đã biết đọc, biết viết và làm toán,
nên vào ngay lớp ba, nhưng vì không có
đạo, nên rất bỡ ngỡ. Lúc đầu phải ngó
và tập theo các bạn hai bên.
Học đến sáng ngày thứ bảy, thầy dạy lớp
tôi là Frère Marcien, cho biết là "các
trò có thể lên nhà thờ xưng tội." Tôi
cũng theo hai bạn ngồi kế bên lên nhà
thờ ở từng cao nhứt trong dãy nhà ngang
lớn. Dũng, ngồi bên tay mặt tôi trong
lớp, hỏi "mày có đạo không mà lên đây?"
chừng đó tôi mới biết tôi chưa dính líu
gì đến việc đi xưng tội. Nhưng vẫn phải
ngồi lại nhà thờ, chờ về chung với Dũng,
vì sợ đi lạc. Dần dà rồi tôi cũng biết
là buổi sáng vô lớp đọc kinh Lạy Cha,
xong đến kinh Tin Kính, kinh Cáo Mình,
và kết với kinh Sáng Danh. Ra chơi hay
khi trở lại lớp chỉ đọc một kinh Kính
Mừng. Trưa lại, khi vào lớp đọc một
kinh Lạy Cha và mười kinh Kính Mừng và
cũng kết bằng kinh Sáng Danh.
Học được gần một tháng, vào giờ thứ nhì
chiều thứ sáu, các lớp Tiểu học lên nhà
thờ "chầu Mình Thánh." Lúc đó lớp chúng
tôi đã được học hát bài "Dâng hoa," bắt
đầu bằng câu "Chúng con bao xiết
mừng..." hát ngay khi bắt đầu lễ.
Trong buổi lễ, tôi thích nhứt lúc người
phụ lễ rung chuông sau khi linh mục xông
hương, và cả nhà thờ đều kính cẩn cúi
đầu. Lâu lâu lại lên nhà thờ vào buổi
sáng, dự thánh lễ Mi-sa. Trong năm học
này tôi chẳng hiểu gì về thánh lễ, chỉ
nhớ có rung chuông hai lần, và sau dó có
người đi lên phía bàn thờ, quì gối, xong
rồi đi trở xuống, người nào cũng nghiêm
trang và yên lặng,
Lúc đó trường còn theo chương trình bổn
xứ theo Pháp (programme Franco-Indigène)
nên lớp tôi học mang tên Cours
Élémentaire 1, ngoài cửa lớp có ghi tấm
bảng Lớp Ba 1 . Hơn giữa năm học, mỗi
tuần có một buổi học, Frère Marcien cho
chúng tôi tập thi Sơ học yếu lược. Có
bài Ám tả với câu hỏi, xong làm hai bài
toán đố, rồi trả lời các câu hỏi thường
thức về sử ký, địa lý, vệ sinh, cách
trí, và luân lý. Tôi chỉ được dự mà
không được xếp hạng, vì theo lời Frère
Marcien, tôi chưa đủ tuổi nên chưa chắc
được dự thi. Ba tôi phải làm đơn xin
miễn tuổi. Qua tết tôi mới biết là sẽ
được đi thi, và từ đó mới được dự vào
việc xếp hạng.
Frère Marcien có cách dạy toán rất độc
đáo. Sau khi chúng tôi chép đầu đề bài
toán, Frère cho chúng tôi đọc lại, và
suy nghĩ một chút. Xong, Frère bắt đầu
từ câu hỏi của bài, cho chúng tôi viết
vào tập "người ta muốn biết gì ?" thí dụ
như
số cây trồng quanh vườn ?
= số cây trồng quanh nửa vườn X 2
(toán nhơn)
số cây trồng quanh nửa vườn ?
= số cây trồng theo chiều dài + số cây
trồng theo chiều ngang (toán cộng)
số cây trồng theo chiều dài
= chiều dài / khoảng cách giữa hai
cây (toán chia), biết được.
số cây trồng theo chiều ngang
= chiều ngang / khoảng cách giữa hai
cây (toán chia), biết được.
Tất nhiên là chúng tôi phải giải thích
thêm là số cây từng chiều tính ra sẽ
phải cộng thêm một (trồng cả hai đầu),
trừ bớt một khi không trồng ở hai đầu),
hay giữ nguyên, như khi trồng giáp vòng
vườn. Và từ những cái biết được đi dần
lên để tính cái cần phải biết. Lên
trung học, tôi mới biết đó là cách giải
toán theo Đại số học.
Đến kỳ thi, chúng tôi phải đi đến
trường Tiểu học Đa Kao trên đường Albert
Premier, sau đổi lại là đường Đinh Tiên
Hoàng, để dự thi. Có lẽ vì còn quá nhỏ
để biết lo, sợ, nên chúng tôi đi thi mà
cứ dửng dưng như đi chơi, không hề nghĩ
đến chuyện đậu rớt. Tôi chỉ nhớ là
dường như mấy bạn cùng đi thi trong lớp
tôi đều đậu. Đến ngày bãi trường có lễ
phát phần thưởng, và tôi đưọc giải nhứt
về toán. Mỗi học trò đều được một quyển
Palmarès, có hình chụp chung từng lớp,
có ghi tên người được giải danh dự, ba
người đứng đầu lớp, và những người được
giải nhứt từng môn học. Trong những
trang đầu có ghi lại các diễn biến quan
trọng trong năm học, hình chụp Frère
directeur (Sư huynh hiệu trưởng), các
dịp du ngoạn của học sinh, vân vân. Mỗi
năm, ba tôi đều lấy quyển Palmarès tôi
đem về, đưa ra tiệm để đóng bìa da, gáy
có in chữ mạ vàng, và khi lấy về, trân
trọng cất vào tủ sách.
Bãi trường từ đầu tháng 7, đến đầu
tháng 9 mới đi học lại. Tiếng là nghỉ
hè, nhưng miền Nam dường như không có
hè, dù nhạc sĩ Hùng Lân trong khoảng
thời gian đó đã cho trời hồng hồng và
ngàn phượng rung nắng ngoài sân, nên
học trò chúng tôi phải vác về nhà một
cuốn tập đề Bài làm trong kỳ nghỉ bằng
tiếng Pháp Devoirs de vacances. Thành
ra cứ sáng sáng, sau khi Đài Phát thanh
hát chào Quốc ca xong là Má chúng tôi
gọi anh em tôi lại, ngồi vào bàn, mở tập
ra, làm bài, học bài, theo đề mục đã ghi
trong cuốn tập Bài làm trong kỳ nghỉ.
Và năm nào cũng thế cho hết khi học tiểu
học.
Tựu trường tôi lên lớp Ba 2 (tức Cours
Élémentaire 2). Ba tôi giải thích là
học như thế, khi học xong tiểu học, học
trò đã 17, 18 tuỗi, phải lo đi làm việc,
kiếm sống và lập gia đình. Nhà nước
Pháp đâu có muốn dân mình học lên cao,
chỉ cần có người biết đọc, viết chút ít
tiếng Pháp để làm cho họ.
Lớp tôi học với Frère Apollinaire.
Frère rất hoạt động. Mỗi đầu tháng,
chúng tôi phải đem nộp hai cuốn sách
tiếng Việt để làm thư viện lớp, đặt
trong một cái thùng cạt tông cũ đựng
sữa. Rồi vào ngày thứ năm, chúng tôi
theo thứ tự từng bàn lên lựa một quyển,
ghi tên vào sổ thư viện, mượn sách về
đọc trong tuần. Cứ thế tiếp tục cho đến
đầu tháng sau, lấy sách của mình về và
nộp sách mới cho thư viện lớp. Nhờ thế
mà tôi được đọc vài ba quyển sách hay,
đến giờ còn nhớ như "Ba ông tướng đi tản
cư" và "15 ngày trên băng tuyết" .
Frère Apollinaire còn phụ trách hội
Nghĩa sĩ Chúa Hài đồng. Tôi nghe lời
Dũng, xin vào hội, được phát khăn quàng
xanh, viền trắng, và sáng thứ bảy đi
họp. Tôi giấu không cho ba, má tôi
biết, nhưng ba tôi cũng biết tôi vô
hội. Có điều là không bị la rầy, và ba
tôi chỉ dặn, "làm gì thì làm, nhưng phải
ráng lo học cho giỏi" .
Vì có chân trong hội Nghĩa sĩ, chiều
thứ năm thay vì ở nhà, tôi được vào
trường, dự các trò chơi như hướng đạo.
Trong lớp Ba 2 có một nửa chưa thi Sơ
học yếu lược, phải lo học thêm để đi
thi. Tôi ở trong nhóm còn lại và được
chọn vào toán múa khoảng 25 trò của ba
lớp Ba 1, Ba 2 và lớp nhì. Vào dịp
Giáng sinh đọc kết quả thi Lục cá nguyệt
đầu, chúng tôi múa bài "Mừng Xuân," và
hôm lễ bãi trường múa bài "Rừng hương"
câu hát đầu tiên như là "Ngàn thông reo
ca trên đồi thông ..."
Ở lớp Ba 2, chúng tôi học tiếng Pháp
nhiều hơn. Sách do một Frère người Pháp
rất rành tiếng Việt, năm đó làm Préfet
(Giám học) tiểu học soạn. Mỗi bài học
có phần ngữ vựng Pháp, Việt độ mươi,
mười lăm chữ, phần đặt câu ngắn, bài đọc
ngắn, văn phạm, lúc đầu chỉ có học chia
động từ, đến giữa sách mới có học về
danh từ, tĩnh từ ... Bài đầu tiên học
Bonjour Monsieur là Chào ông, Bonjour
Madame là Chào bà ... nhưng không có
Chào cô ! Tôi sợ và ghét nhứt hai phần
chót trong mỗi bài gồm Version (dịch
Pháp văn ra Việt văn) và Thème (dịch
Việt văn ra Pháp văn). Không biết có
phải là "ghét của nào trời trao của nấy"
không, mà hai mươi mấy năm nay, tôi đã
phải phụ trách dịch Anh, Pháp, Việt.
Hoạt động trong hội Nghĩa sĩ, chúng tôi
tập làm báo thông tin trong hội và cách
in báo bằng xu xoa. Xu soa nấu chảy ra,
đổ vào khuôn cở trang giấy tập, để nguội
cho đông lại. Trang chính viết bằng mực
tím, đặt lên trên mặt xu xoa, để cho mực
thấm. Gỡ ra thấy trên xu xoa có chữ,
lấy giấy trắng ép lên, chữ chuyền qua
giấy này, đọc cũng rõ. Nhưng in chỉ
được mươi tờ thì phải bóp vụn xu xoa ra,
nấu lại và làm lại từ đầu. Sau này lớn
lên, khi in Ditto, cũng ra nét mực màu
tím như thế, nhớ lại những hồi quây quần
in xu xoa, khó quên lúc nhỏ.
Trường Taberd, ở phần tiểu học, ngoài
ban theo chương trình nửa Pháp nửa Việt
chúng tôi còn có ban học chương trình
tiểu học Pháp thuần túy, mang tên
Section française, theo chương trình áp
dụng bên Pháp. Các lớp ban này ở từng
trệt dãy nhà sau, bên kia sân chơi.
Mặt sau là tường gạch cao, ngăn với
đường Lagrandière, sau gọi là Gia Long.
Bên ban Pháp, không có hội Nghĩa sĩ, mà
có hội Coeur vaillant tức Hùng tâm. Hội
này lúc đó do Frère Firmin trông coi,
mỗi sáng thứ năm vào giờ ra chơi, có bán
sách hình ra hàng tuần như Coeur
Vaillant, Tintin, Spirou (và Fantasio),
và các sách in thành từng tập truyện của
Tintin, Pat'A'pouf, Red Ryder, Hopalong
Cassidy, Buck Roger và các phi công Mỹ
... Nhờ thế mà tôi được làm quen với
các phi cơ loại Bearcat, Hellcat, P51
Mustang, Zero, Messerschmitt ... Tôi
không có tiền ăn quà nên chỉ qua hội
quán Coeur vaillant xem ké sách. Sau
này lớn lên, mua Astérix và Obélix, cùng
Lucky Luke, và Tintin, xem lại thấy cũng
còn hay, vui nhứt là khi đi dọc bờ sông
Seine, tìm được trong các quán sách nhỏ,
những quyển Tintin xưa, cũ, bìa dày vẫn
lành lặn và còn đầy đủ trang.
Khi lên lớp nhì, Cours Moyen, dường như
có thay đổi chương trình học vì chỉ có
một lớp Nhì chứ không có Nhì 1, Nhì 2
như các năm trước. Chúng tôi học với
Frère Léopold. Frère viết chữ rất đẹp,
và rất lo cho học trò. Chúng tôi học
Giáo lý nhiều hơn và thường được Frère
Roger, giám học mới, đến giảng về Cựu
ước, kể chuyện Môi Se, 12 bộ tộc Ít ra
ên, và các tiên tri người Do thái cũng
như vua Solomon, vua David và anh hùng
Samson. Chúng tôi mỗi ngày đều có giờ
học Sách phần của địa phận Sài gòn và
mỗi kỳ thi đều có thi phần Giáo lý.
Thường vào sáng thứ bảy hàng tuần,
Frère Roger đến từng lớp. Khi ông vào,
Frère Léopold gỏ thước xuống bàn, cả lớp
đứng lên chào. Frère Roger ngồi vào
ghế và bắt đầu gọi tên từng người theo
hạng thứ trong lớp và phát sổ điểm hàng
tuần. Chúng tôi phải đem sổ điểm về nhà
cho cha mẹ ký tên. Chỉ có hai môn là
Luân lý (Morale) và Chuyên cần
(Application) tính trên 20 là không cộng
vào điểm xếp hạng và thường ai nấy cũng
được 20/20. Cứ độ sáu, bảy tuần là có
thi, đợt đầu là bán tam cá nguyệt, kêu
điễm xếp hạng trong lớp, đợt kế là thi
tam cá nguyệt. Khi có kết quả kỳ thi
này, tất cả học sinh trong ban tiểu học
tập họp ở nhà chơi, ngồi theo lớp, trên
các băng ghế dài, chờ nghe kêu điễm, xếp
hạng, không khí rất long trọng và trang
nghiêm.
Frère Léopold nói được tiếng Anh nên có
liên lạc với phòng thông tin Anh hoặc
Mỹ, nhờ đó chúng tôi thường được xem
chiếu phim hoạt họa trong lớp. Tôi học
thêm được chữ The End là Hết, với chữ T
viết như chữ J của Pháp. Chúng tôi
thích nhứt phim về chích ngừa, vẻ hồng
huyết cầu, bạch huyết cầu đấu với vi
trùng bệnh, khi gần thua, được thuốc
ngừa tăng viện, giúp hồi phục sức lực,
đánh đuổi vi trùng bệnh ra ngoài. Có xe
tăng màu đỏ, màu xanh đánh xe tăng vi
trùng bệnh màu đen, máy bay, súng lớn,
súng nhỏ, súng máy gắn trên xe mô tô, đủ
hết.
Thời gian này, hàng tháng, trường có tổ
chức chiếu phim vào chiều thứ năm, vé
vào cửa là 5 đồng. Thường chiếu phim
Charlot, Zorro bắn súng hay đánh kiếm,
phim Tarzan, phim Les trois
mousquetaires ... Có lần chiếu phim Le
capitaine courageux kể về đời sống người
đi biển, chuyện rất thương tâm và cảm
động. Phim thường nói tiếng Pháp, những
trò trong lớp chúng tôi nghe chữ được,
chữ mất, thường đoán già về cốt chuyện,
và chỉ mê say theo dỏi ông đóng tuồng,
tức kép thủ vai chánh. Năm học lớp nhì
có thể nói là không mấy sôi nổi, tuy
ngoài việc học, tôi vẫn tham gia hội
Nghĩa sĩ.
Học trường Taberd được ba năm tôi mới
biết là có bạn cùng lớp bị điểm trung
bình kém, cuối năm không được đương
nhiên lên lớp trên, mà phải học hè và
thi lên lớp vào khoảng hai tuần trước
khi bắt đầu niên học mới. Thi đậu mới
lên lớp, còn rớt thì phải học lại. Năm
học lớp nhì, tôi chơi thân với Phước, và
Phước phải thi để lên lớp nhất. Phước
may mắn được lên lớp, nhưng cho biết
trong số 12 người cùng thi với Phước,
chỉ có năm người đậu. Tôi không rỏ mỗi
niên học có bao nhiêu học sinh phải ở
lại lớp củ, và cũng không rỏ sự hiệu
nghiệm của việc bắt học sinh ở lại, học
thêm một năm lớp củ. Tôi chỉ nhớ là
Phước khi lên Trung học, học rất giỏi,
năm nào cũng có phần thưởng.
Đến năm này tôi cũng được biết là
trường thu học phí rất cao, lại đóng
từng tam cá nguyệt, tức là tiền học thu
từng ba tháng một. Thành ra học sinh
phần lớn đều là con nhà giàu, tan học ra
hơn một nửa học sinh các lớp nhỏ có xe
hơi và tài xế đón. Ba tôi làm việc ở Sở
hành chánh số 6 (sau này là Bộ Kinh tế,
thời Đệ nhất Cng hòa) cách trường khoảng
bốn trăm thước, nên tan học tôi đến đó,
chờ ba tôi chở về. Tôi nhớ cũng có lúc
Cậu 12 tôi, sáng, trưa ngày bốn bận, đưa
đón tôi đi học, chở tôi bằng xe đạp. Về
học phí, sau này tôi biết là trong tiền
học hai học sinh trường Taberd, sau mọi
chi phí thì nhà trường có dư tiền để
dạy miễn phí một học sinh nghèo ở một
trường Nghĩa Thục của Dòng. Đó là cách
chia sẻ để bớt bất công xã hội, theo
đường hướng và tôn chỉ của Thánh Gioan
La-San, Sư huynh sáng lập Dòng.
Lên lớp Nhứt tức Cours Supérieur chúng
tôi cảm thấy mình lớn hơn, có trách
nhiệm và biết lo nghĩ đến kỳ thi Tiểu
học vào cuối năm. Frère Adolphe dạy
chúng tôi. Toán khó hơn, chính tả và
luận văn cũng khó hơn. Riêng có môn
Compte rendu de lecture, Frère Adolphe
đọc một bài bằng tiếng Pháp hoặc tiếng
Việt, dài chừng 300, 400 chữ. Chúng tôi
ngồi chăm chỉ nghe vì Frère chỉ đọc một
lần. Khi đọc xong, chúng tôi phải viết
lại những gì còn nhớ về bài đã đọc,
thường thì phải tóm lược ý chính, chớ
không chép lại nguyên câu. Có khi tôi
cũng không hiểu bài đọc đó nói về cái
gì. Những lúc như thế thì khó mà viết
lại được.
Frère Adolphe cho chúng tôi học ngữ
vựng Pháp theo chuyên đề mà Frère gọi là
Vocabulaire par centre d'intérêt. Nhờ
đó mà chúng tôi biết thêm vừa tiếng Pháp
vừa tiếng Việt nhiều chữ mới hoặc xa lạ
với chúng tôi như then, chốt cửa, bản
lề, đinh tán, cây song hồng, búa, kềm,
cây xà beng vân vân Chúng tôi còn học
thêm về canh nông, cách trí, cách trồng
đậu, trồng khoai, hay các chứng bệnh
thương hàn, sốt rét vàng da, đậu mùa.
Chúng tôi đã lớn nên không dự vào ban
múa. Năm đó cả lớp tập hát và được đến
Đài Phát Thanh Sài Gòn thâu thanh bài
hát về Giáng sinh với câu "Đêm đông
lạnh lẽo Chúa sinh ra đời." Đến ngày
lễ Giáng sinh đón nghe phát thanh bài
hát và lời giới thiệu "do học sinh lớp
Nhứt trường Taberd đồng ca," cũng thấy
nở lỗ mũi một chút.
Frère Adolphe cao lớn con, ông có vẻ
thích kỷ luật và trật tự. Trong giờ
rảnh rỗi, ông kể cho chúng tôi nghe các
trận chiến oanh liệt của Hải quân Đức,
từ chiến trận Coronel đến Falkland, qua
Rio de la Plata ... Frère thích các
chiến công của chiếc tàu chiến Emden,
giả dạng thuyền buôn đi bắt các thương
thuyền Anh quốc. Lúc đó trong lớp vẫn
có nghe nói là Hitler còn sống, trốn ở
Nam Băng Dương và dĩa bay là khí cụ thám
thính của Hitler.
Trong năm học này, trường tổ chức cho
vài ba lớp đi chơi xa. Thật ra, chỉ xa
đối với chúng tôi lúc đó, vì chúng tôi
đi lên trường Mossard, cũng của Dòng các
Sư huynh, ở Thủ Đúc. Xe nhà binh Pháp
đến trường đón, chạy ngang qua chợ Bà
chiểu, qua Bình hòa, trực chỉ dường như
là Quốc lộ 1, qua cầu Bình lợi, cầu Gò
dưa, ngang chợ Thủ đúc, quẹo mặt, chạy
một đoạn nữa là đến. Dường như khoảng
cách chỉ có 15 hay 20 cây số, nhưng đi
gần một tiếng đồng hồ mới tới. Trường
Mossard có hai cái đặc biệt mà trường
Taberd không có, đó là sân đá banh, dài,
rộng, cỏ xanh, hai đầu sân có cột gôn
gắn lưới, và sau đó là hồ bơi. Do đó
chúng tôi rất mê. Giờ nhớ lại, mỗi lớp
gần 60 học sinh, chạy chơi xong rồi đi
tắm, hồ bơi rộng và một đầu khá sâu, thế
mà chỉ có một Sư huynh trông coi. Công
việc quả thật nặng nhọc, nhưng lúc nhỏ,
ham chơi, chúng tôi đâu có để ý.
Qua Tết ta, lớp chúng tôi bắt đầu làm
đơn ghi danh thi Tiểu học. Đơn viết
tay, trên mẫu giấy dài, kèm theo khai
sinh và giấy chứng nhận của trường. Tất
cả được ghim lại bằng kim gút ở góc
trên, bên trái, mũi nhọn của kim phải
chỉa xuống phía dưới, và đầu kim không
được nằm gần lề giấy dưới hai phân !
Chúng tôi cũng được thi thử, dùng giấy
thi có phách như khi đi thi thiệt. Nhờ
thế mà vào trường thi, cũng trường Tiểu
học Đa Kao, chúng tôi không bị bỡ ngỡ.
Trong kỳ thi này chúng tôi thi toàn
tiếng Việt, xong có thể thi một bài ám
tả tiếng Pháp, trả lời bốn câu hỏi liên
quan đến bài và làm một bài luận ngắn.
Nếu được trên trung bình, trong văn bằng
tiểu học sẽ có ghi chú "Avec mention
française."
Hơn một tháng sau khi có kết quả Tiểu
học, một số bạn cùng lớp tôi ghi tên thi
vào lớp Đệ Thất trưòng công. Riêng
tôi, ba tôi muốn tôi vẫn theo học trường
Taberd, lên lớp Sixième, chương trình
Pháp. Tôi theo học trường Taberd cho
tới khi xong Tú tài 2 ban Toán. Trong
hai năm chót ban Trung học, có lẽ vì ở
nội trú và đã theo học lâu năm nên tuy
không có đạo, tôi vẫn được chọn giúp lễ
Misa, và phụ lễ Chầu Mình Thánh. Mỗi
lần nắm chuông lắc leng keng, tôi vẫn
nhớ ngày còn ngồi dãy ghế đằng sau, kính
cẩn cúi đầu khi nghe tiếng chuông.
So với các trường khác ở Sàigòn lúc đó,
trường Taberd thuộc vào loại lớn, nhưng
người ta biết đến trường vì kỷ luật
trường rất nghiêm. Giờ vào lớp, giờ ra
chơi, lúc nào học trò cũng xếp hàng ngay
ngắn, tử tế, và nhanh chóng. Đi vào
lớp theo hàng, trật tự, và giữ im lặng.
Học trò phần lớn đều siêng học, trong
lớp không nói chuyện, mà chú ý nghe lời
giảng. Mỗi Sư huynh đều có một cây roi
mây dài hơn một thước rưỡi, để kế bên
bàn, nhưng thường dùng để dương oai,
nhắc nhở học trò giữ kỷ luật, chớ ít khi
dùng để đánh. Phạm lỗi nhỏ như nói
chuyện hay lơ đãng trong lúc Sư huynh
giảng bài thì bị quỳ gối sau bảng đen từ
10 phút đến nửa giờ. Một vài trò nghịch
ngợm, quấy phá quá, hay đánh lộn hoặc
không thuộc bài nhiều lần thì bị
consigne (cấm túc), phải mang giấy phạt
về nhà cho cha mẹ ký tên, rồi chiều thứ
bảy trở vô trường vào lúc 3 giờ, trình
diện Frère coi nhóm bị phạt, được giao
một bài phải học thuộc lòng, hoặc chép
phạt, cho đến 5 giờ mới được về. Khi bị
ba hay bốn lần consignes thì sẽ bị
blâme, tức là bị gọi ra chịu khiển trách
trước cả trường. Nhưng trong suốt thới
gian học Taberd, từ tiểu học cho đến hết
trung học, tôi chỉ thấy có một ngưới bị
blâme.
Tháng 11 năm 2002, khi sang Pháp, tôi
được dự bữa cơm gây quỹ do nhóm Chim én
tổ chức để lấy tiền giúp trường học cho
trẻ em nghèo, do Sư huynh Désiré (một
cựu hiệu trưởng trường Taberd) gây dựng
ở Cái Nhum. Ban tổ chức có chiếu
vài âm bản hình trường Taberd, tuy vẫn
còn vẻ đồ sộ, nhưng nét điêu tàn vì
thiếu bảo trì và chăm sóc vẫn có thể
nhận được. Nhìn lại hình ảnh
trường cũ, kỷ niệm xưa vẫn còn âm trong
tâm tưởng.
Khi nghĩ đến nền giáo dục
đang gặp khó khăn bên nhà, tôi không
khỏi ngậm ngùi. Ai đó có thể mơ làm Quang
Trung, mang về cho đất nước một mùa Xuân
lớn, tôi chỉ mong sao bên nhà có một
Gioan La-San, mang ánh sáng hiểu biết
đến với các em thiếu nhi, trai cũng như
gái, để các em có một tương lai sáng sủa
hơn.