Chiều hôm ấy khi đi học về, An
thấy trên ven mép sân vừa trồng một hàng cúc vạn thọ. Mừng quá, An
không kịp bỏ mũ sách, nhảy tuốt ra nhà sau tìm chú Ba.
- Chú Ba ơi! Chú Ba! Chú trồng vạn
thọ hả chú? Gần tới Tết rồi hả chú Ba?
Câu trả lời của chú, An đoán trước
được nhưng An vẫn thích hỏi. Còn ai vào đây trồng hoa nữa? Ba, bốn
năm nay từ khi An có trí khôn, An thấy cứ gần Tết là chú Ba đi xin
cây vạn thọ hoặc ở chùa Châu Lâm hoặc ở vườn thằng Kiết về trồng một
hàng quanh mép sân. An không biết xem lịch vì lịch in bằng chữ nho,
cuốn lịch cha nó treo ở khung cửa sổ bên cạnh cái bàn toán. An cũng
không lưu ý tìm xem tháng này là tháng mấy. Đối với tâm hồn ngây thơ
của nó, cảnh và vật nói nhiều hơn tháng ngày. Nghe con tu hú kêu nó
nghĩ đến những chùm trái vú dẻ chín vàng ngọt lịm và nó nghĩ: “Tháng
Ba. Mùa gặt tới”. Nhìn bà hàng gánh đôi thúng xếp đầy những trái bắp
nếp luộc hơi nóng lên nghi ngút, nó cảm nghe mùi ngọt thơm của hột
bắp dẻo nghiền tan dưới răng và nó nói thầm: “Tháng Tám rồi. Sắp mưa
lụt”. Còn ngày Tết thì luôn luôn được báo hiệu bằng dãy cúc vạn thọ.
An nhìn trìu mến dãy hoa vừa
trồng. Mỗi cây đứng trong một cái lỗ khoét to bằng cái bát sứ. Cây
cao hơn mặt đất không quá hai tấc và đứng gục đầu xuống, lá buông ủ
rũ. An có cảm tưởng chúng nhớ đàn nhớ bầy, nhớ cái vạt đất nhỏ nơi
đó người ta gieo chúng, nơi đó chúng lớn lên cạnh những anh em của
chúng cùng một hoa mẹ sinh ra. Có đôi cây yếu quá tưởng như chúng
không thể sống qua đêm nay. Sự lo lắng thương hại của An khiến nó
thấy cái thái độ lầm lì lạnh nhạt của chú Ba là đáng ghét. Người lớn
trông họ vô tâm đến tàn ác. Mấy cây hoa đau đớn ủ rũ thế kia mà họ
vẫn có thể thản nhiên bỏ đứng bơ vơ một mình không săn sóc đến. Đêm
đến, khi leo lên bộ ván gõ nằm ngủ, An cứ loay hoay nghĩ về mấy cây
hoa đáng thương. Và mới sáng tinh sương khi bừng mắt dậy, nó đã nhảy
vội ra sân thăm từng cây hoa. Mừng quá! Dù có cây thân còn cong lại
chưa đứng thẳng nổi nhưng cây nào đọt cũng xanh tươi, chỉ những lá
gần gốc là héo sẫm lại mà thôi. Dăm ngày sau, cây bén rễ và tới một
độ nào đó An không nhớ nữa, những cây hoa lớn vụt thật mau, đâm chồi
thật nhiều. Những khoảng cách giữa các cây hoa trước kia trống trải
mênh mông, giờ đã bị che mất bởi tàng lá.
Cùng với sự phát triển của dãy cúc
vạn thọ, cái Tết như cũng lớn dần. Manh nha từ đầu tháng Mười một
với những cơn mưa nhẹ, mưa gieo cải, cái Tết thấp thoáng mơ hồ với
những rò cải, ngò, xà lách, tàn ô nằm vuông vắn ở hầu hết mọi sân
nhà. Cái Tết lớn lần lên với những bụi hoa, vạn thọ, cúc đại đóa,
thược dược phát chồi sum sê và bắt đầu ra nụ. Càng đi sâu vào ngày
tháng, cái Tết càng hiện rõ thêm, in dấu vết trên mọi cảnh mọi vật
và mọi hoạt động của con người. Chữ Tết được nhắc đi nhắc lại một
cách thân mến êm đềm trong mọi trường hợp sinh hoạt ở gia đình. Cha
nói: “Mấy dây dưa leo chắc ra trái không kịp Tết. Bậy quá. Bị mưa
làm thúi giống gieo kỳ trước”. Mẹ nói: “Thằng Ba coi chừng mấy con
gà thiến. Để qua nhà lão Dần chó cắn chết thì nghỉ ăn Tết đó nghe?”
Ở lớp học bạn khoe với nhau: “Tết này tao được đi thăm cô tao ở
Phước Lãnh… Bà ngoại vừa gởi cho mẹ tao một trái bí đao to để làm
mứt Tết.” Ở ngoài đường, chữ Tết len lỏi trong những câu chuyện:
“Chợ Tết mà ế quá, tháng Chạp thiếu, hăm Chín lấy làm Ba mươi, chạy
Tết cũng mệt… Tết năm nay ở Phú Mỹ có bài chòi…”
Thôn Quảng Đức đa số làm nghề gốm
và buôn vôi thế mà sự sinh hoạt cũng hối hả theo cái đà của ngày Tết
cứ sừng sững đến gần. Đồ gốm sản xuất ra, chở đò dọc đem bán ở các
chợ xa: chợ Đèo, chợ Đồng dài, chợ Gò chai, chợ Gành, chợ Thứ… tiếng
ốc tù-và của chủ đò thúc khách quá giang chuyển hàng cho gấp xuống
đò vang lên trong đêm khuya. Càng gần Tết sự mua bán càng hối hả rộn
rịp nên chợ nào cũng vãn chậm. Đò xuôi chở khách về cũng mãi khuya
mới tới bến. Bến đò thành ra ồn ào rộn rịp suốt đêm. Những cây đèn
chai làm bằng một đoạn tre trong tẩm dầu, cháy rực sáng cả bực sông,
in ngược bóng xuống nước rung rinh, lóe đỏ cả một vùng.
Trên con đường đi xuyên qua xóm,
những dáng người gánh gồng vội vã đi chập choạng theo ngọn đèn chai
cầm lắc lư dưới tay. Đèn chai ở đây là một cái đèn dầu nhỏ được một
nửa cái chai ụp lên để chắn gió. Tiếng chuyện trò lanh lảnh vang
trong đêm, hối hả theo bước chân chuyển từ đầu xóm sang cuối xóm.
Trong đêm tối mà mọi vật như xóa nhòa hết cả hình nét để tan vào
bóng đen, mà mọi sinh vật đều như mỏi mệt, tiếng nói chuyện tỉnh táo
rõ ràng dường giữ đủ cả sắc cạnh. Ở dưới bước chân, bóng người in
đen được phóng đại ra, nằm trải xuống mặt đường, nằm vắt qua bờ rào,
chập chờn di chuyển theo bước đi.
Một bữa An thấy chú Ba hí hoáy nắn
một vật gì trông tựa cái lưỡi cày mà bằng đất sét. Chú lấy mũi dao
liếc thật nhẵn mặt. Chỗ tay cầm cũng được gọt thật đều. An hỏi:
- Chú làm cái gì vậy?
- Tao làm cái bàn ủi.
- Làm bàn ủi để chi vậy chú?
- Để ủi quần áo chớ chi.
Giọng nói của chú lơ đãng. Trong
giọng ấy còn có vẻ tự phụ vì chú nheo mắt ngắm nghía ra dáng bằng
lòng lắm. Rồi chú nói chậm rãi tiếp theo, như nói với cái bàn ủi chứ
không phải nói với An:
- Mốt tới phiên lò ông Hương Lạc
đem gởi nung. Chín rồi lấy ra đem ngâm nước. Thế là giặt quần áo để
sẵn đó. Đem đặt bàn ủi lên lò than nóng rồi cứ vậy mà ủi lên mặt
quần áo. Quần áo dầu cũ mà trông như mới.
Cũ mà trông như mới! Thật là kỳ
diệu, An nghĩ. Nó nhìn xuống cái áo cũ nó đang mặc, tưởng tượng rằng
cái áo ấy sẽ mới và nó ngó sang cái bàn ủi một cách khâm phục. Cái
bàn ủi ấy được mang đi nung, điều ấy quả có thật. Chính mắt An nhìn
nó chuyển từ màu xám của đất phơ sang màu hồng nhạt của đất nung.
Cũng lại chính tai An lắng nghe tiếng “boong boong” khi cầm nó lên
để gần tai, cung ngón tay gõ nghe thử. Nhưng chắc chắn là An chưa hề
thấy chú Ba dùng nó để ủi cái áo của chú cho từ cũ hóa “như mới”. Có
lẽ chú đã lén thí nghiệm nhưng bị thất bại nên sau đó chú không
tuyên bố gì ráo.
Ngày hăm sáu tháng chạp phiên chợ
Hôm, mẹ nói:
- Hôm nay An có đi chợ Tết không
con?
An vội vàng như sợ ai kịp phản
đối.
- Dạ có. Lát nữa thằng Tòng lại rủ
con đi.
Tòng là bạn học lớp Tư của An. Vì
sao mà quen thân nhau, An cũng không nhớ rõ vì nhà Tòng ở mãi tận
Hội Tín đi học khác đường mà tính tình thì hai đứa không giống nhau.
Cha Tòng làm thầy phù thủy. Có lần nó rủ An đến nhà chơi thấy gian
nhà giữa đầy những tượng, những hình ông thần, ông tướng, những cờ
những đèn, trống chiêng, thanh la, não bạt khiến An sợ khép nép
không dám vào. Cha Tòng có một cái trán quá cao. Nhìn gần thấy chân
tóc mọc nên An biết trán cao là vì tóc bị cạo. Sau này lớn lên được
biết nhà Tòng vừa làm phù thủy vừa hát bội, - hai nghề này có họ
hàng với nhau vì hò hét điều động âm binh cũng là một cách hát bội,
- nên cha Tòng phải để trán cao mà đội cái mão. Lúc Tòng lớn, Tòng
nghỉ học sớm và kế nghiệp cha. Cái trán của Tòng cũng được cạo lên
thật cao và chân đi chữ bát. Lúc nói chuyện là hai tay vung vẩy như
múa. Đó là kết quả của nghệ thuật tiêm nhiễm vào cuộc đời.
An thay quần áo xong thì Tòng đến.
Tòng mặc quần trắng và áo cụt lụa màu hồ thủy. Những nếp gấp làm hai
ống quần lép lại và gãy ra làm ba. Tòng đội một cái khăn lông màu
vàng nghệ có chạy sọc xanh đỏ. Úp lên trên khăn lông là cái mũ kaki.
Trông Tòng nửa giống như một chú nhỏ ở trong tranh vẽ, nửa giống như
một tên lính Tàu thời cổ. Chắc Tòng chịu ảnh hưởng của những tấm
tranh màu treo la liệt trên tường nhà nó.
Đường xuống chợ có nhiều chỗ lõm
thấp xuống, đó là khi con đường đi sát cạnh những cái bàu nước. Mỗi
bàu nước mang một tên bí mật: bàu ông Chì, bàu ông Lôi. Mỗi lần đi
qua một cái bàu, An khép nép đi sát vào Tòng vừa liếc mắt xuống mặt
nước đầy rong, ấu xanh um. Những gốc tre già xám đen, những thân cây
sung cong vẹo in bóng xuống mặt nước làm cho các tên ông Chì, ông
Lôi được trùm trong một không khí rùng rợn. Người đi và người về
tránh nhau trên con đường hẹp. Lũ trẻ con đi chợ về trên tay thế nào
cũng có những món đồ chơi, hoặc con gà cồ bằng đất, khi thổi ở lỗ
khoét ngang hông thì cất tiếng gáy “côô…côô” hoặc con “chút chít”
khi kéo ra đẩy vào thì phát ra tiếng kêu chút chít. Nhiều đứa hãnh
diện cầm những ghim pháo tre, những bó pháo thăng thiên đi cạnh mẹ.
Đến gần chợ thì nghe tiếng mua bán
xì xào vang lên. Thỉnh thoảng có tiếng pháo tre nổ “đùng” khiến trái
tim của hai đứa như nhảy cởn lên. Không ai bảo ai mà cả hai đều rảo
bước.
Đến đây rồi, chợ Hôm! Những dãy
lều mái bằng tranh rạ cột tre yếu ớt sắp chạy từng dãy. Có nhiều
hàng bày bán ở giữa trời, như hàng trái cây, cá mắm. Hai cây đa to
tỏa bóng mát cả một khu chợ. Lá đa dày san sát ở trên từng cao làm
thành một vòm xanh lao xao cử động. Tiếng rì rào vừa phát tự dưới
đất nơi người ta buôn bán trao đổi vừa phát tự trên cao do gió lay
cành lá. An gặp chị Thắm bày bán đồ gốm ở gần gốc đa. Chị Thắm ở
cạnh nhà An, hàng ngày vẫn sang giếng nhà An xách nước nhưng sao hôm
nay trông chị lạ hẳn đi. Có lẽ vì chị mặc áo dài và đi guốc chăng?
Hay vì đặt chị giữa cái khung cảnh lạ mà người chị trông cũng lạ đi.
Những đồ gốm: ấm, chậu, hỏa lò, lon, vò, cây đèn, v.v… hàng ngày vì
quá quen mắt An coi như không có giá trị gì nữa, coi như những đồ
chơi vô nghĩa, thế mà người đến xem xét trả giá tấp nập. Chị Thắm
đóng vai trò một cách rất nghiêm trang, từ chối rất quyết liệt,
thách giá rất chắc chắn. Cái ấm cái chậu bỏ lăn lóc ở xung quanh hè
nhà chị Thắm, thỉnh thoàng An lỡ đi vô ý đá phải ngã lăn, nay thấy
người mua mặc cả giá từng đồng, móc túi đếm từng tờ bạc để trả và
cuối cùng nâng niu xếp lên rổ bưng đi. Tòng nói:
- Tụi mình ra hàng pháo coi.
Hai đứa cầm tay nhau đi. Hàng pháo
ồn ào nhất nên không mất công tìm. Nó ở cách biệt ra một góc chợ xa
những hàng khác vì tiếng nổ không ai ưa, nhất là những người đi chợ
hầu hết là đàn bà. Bác bán pháo là một người đàn ông vạm vỡ. Chỉ bán
có pháo tre và pháo thăng thiên, bác đựng trong một cặp bồ lớn. Một
số pháo bày làm mẫu được dàn trên một chiếc chiếu nhỏ. Người mua
pháo bắt đốt thử. Bác tháo ở gắp tre lấy một chiếc pháo, bóc giấy
(miếng giấy xanh đỏ dán đè lên ngòi) rồi đặt lên một tấm gạch cách
xa bác một sải tay. Bác cầm cây hương cháy châm lên ngòi. Ngòi pháo
xì khói, bác quay mặt sang một bên và một tiếng nổ “đùng” rền lên,
chát tai. Xác pháo là một vòng nan tre bị cháy xém bay tung lên cao
rồi rớt xuống.
Hàng hoa quả không hấp dẫn bằng
ngày thường vì không có những miếng mít múi vàng óng ả, những trái
mãng cầu nứt gai chảy mật, những quả ổi thơm, những trái xay, trái
sim, trái đát. Hôm nay người ta chỉ bày bán những nải chuối xanh mà
chuối xanh thì trẻ con không thích vì không ăn ngay được. Trẻ con
không có tính kiên nhẫn đợi chờ. Ngày thường mẹ đi chợ về An lật rổ
ra coi mà thấy bí thấy rau thấy cá là An ghét lắm. Kẹo, mít, bánh
rán… mới là những món An hoan nghênh. An và Tòng đưa nhau sang hàng
thịt cá. Thật đáng thương hại cho những bà hàng này quanh năm phải
bán y một món không thay đổi. Áo quần thì đen đủi, món hàng thì tanh
tưởi, thật không có một vẻ Tết vẻ xuân nào cả. Chẳng bù với hàng
bánh mứt họ bày bán trong những cái quả sơn quang dầu đỏ thắm trông
vui như những đám cưới. Các cô bán mứt đều xinh, tóc vấn trần chải
dầu dừa láng mượt, áo dài vải trang đầm bó sát người.
Kề ngang hông chợ là dãy phố Hoa kiều. Đó
là tiệm chú Năm Heo và tiệm ông Ngâu. Khách vào ra đa số là
đàn ông đi mua rượu, tranh sơn thủy, chén bát, nho táo. Tiệm
chú Năm Heo bán thuốc bắc. Những người đến cân thuốc xách đu
đưa những gói thuốc bước ra khỏi tiệm, mặt trông buồn giữa
cái khung cảnh nhộn nhịp của ngày xuân vui. Chọn ngày Tết để
đau bệnh thật là không phải lúc.
Đi loanh quanh một lát hai đứa đã bắt đầu chán.
Chợ ngày Tết khi chưa tới xem thì thấy háo hức là thế nhưng đi lại
đôi vòng chúng đã khám phá hết mọi bí mật. Sự thỏa mãn có pha một ít
chán chường như khi đọc một cuốn truyện cổ tích được người ta quảng
cáo là hấp dẫn nhưng đọc xong một lượt thấy không còn thèm thuồng
nữa. An nhìn trở lại khung cảnh chợ. Những dáng người đi lại chen
lấn, cúi xuống lựa chọn mặc cả, những tiếng xì xào, ngay cả đến bóng
rợp của cây đa cao An đều thấy quen thuộc hết.
Ngày hăm bảy tháng Chạp chú Ba đi hái lá me và
trái me về giã nhỏ ngâm nước chùi đồng. Công việc thật nặng nhọc vì
những bộ lư đèn ở ba bàn thờ tổ đều to lớn bề bộn. An cũng xen vào
công việc cho vui nhưng chỉ chùi được những cái hộp thau mặt nhẵn.
Nắp lư hương có hình con lân con phụng bị chú Ba hắt hủi nhất vì
những kẹt khó chùi. Người đầy tớ phải lau dọn săn sóc thật khó có
thể đồng quan điểm với người thợ đúc khéo tay và người chủ nhà yêu
mỹ thuật. Việc quét nhà cuối năm cũng không kém nặng nhọc. Chú Ba
bắc thang leo lên rầm cao, cầm cái chổi có cán dài để quét bụi và
mạng nhện ở mái nhà. Chú bịt đầu bằng một cái áo đen cũ. Lúc bước
xuống thang, mặt chú mốc thếch vì bụi trông lạ hẳn và như già đi.
Mẹ lo rim mứt. Hết chảo này đến chảo khác, mẹ
ngồi trở mứt, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt dừa… mà không hề la
mỏi. Có đêm An mơ màng ngủ mà hễ chợt dậy là vẫn thấy mẹ ngồi cạnh
chảo mứt cầm đũa đảo qua đảo lại. Tiếng nước đường sóng sánh. Hình
như cả đêm mẹ không ngủ. An nghĩ: chỉ có mình là sung sướng nhất,
chẳng phải làm gì hết. Thế mà lại được ăn nhiều nhất. Những miếng
mứt vụn An ăn từ hồi còn dẻo. Khi mứt khô vớt ra nia phơi thì An vét
chảo ăn đường. Chỗ nào có An là có cặp tay phá khuấy và cái miệng ăn
không ngớt.
Ngày hăm chín gói bánh tét. Lại cũng chỉ mẹ và
chú Ba là bận rộn. Những đòn bánh to bằng bắp vế thế mà cũng do mẹ
thoăn thoắt sắp lá, đong nếp, đổ đậu xếp nhân thịt, gói, buộc lạt.
Chú Ba ngồi cạnh phụ tay. Cha trông vậy mà cũng dở. Cứ đi lên đi
xuống ngó chừng và nói vô ích làm mẹ mất công trả lời. Chẳng hạn:
- Đừng buộc chặt tay quá kẻo bánh không chín đều.
Hôm đám giỗ ông nội bánh bị sống …
Cha bỏ lửng câu thì mẹ nói:
- Nhớ rồi.
Chẳng hạn:
- Còn dư nếp đủ gói một đòn nữa. Thế là một, hai,
ba, bốn… đúng mười hai đòn cả thảy.
Mẹ nghe cha nói, miệng vừa cắn một đầu sợi lạt
một tay cầm đầu kia xiết cho chặt vừa đưa mắt nhìn xuống số đòn bánh
tét mà cha vừa đếm. Quả cha đếm không sai, nhưng số bánh không nhờ
cha đếm mà tăng thêm. Cha chỉ làm được một việc mà An thích: đó là
chôn một cột trụ giữa sân để chong cây đèn gương. Có lẽ cha cũng sẽ
sai chú Ba đào lỗ chôn nếu chú Ba không bận tay. Cái đèn hình lục
lăng, tối thắp lên sáng cả sân, đứng làm bạn với An khi nó phải trèo
lên nằm ngủ trên chiếc ván gõ rộng ở nhà trên.
Những ngày mùa đông, gió mưa lạnh trời tối đen
như mực mà một mình nằm ở nhà trên rộng mênh mông thật là cô đơn.
Lắm lúc An có cảm giác rờn rợn rằng thân mình đã tan ra để lẫn mất
vào bóng đêm. Khổ nhất cho An là khuya chợt thức buồn đi tiểu mà lò
mò mãi trong bóng tối không biết cửa ở về phía nào để mở. Trẻ nhỏ
nằm ngủ trên bộ ván rộng thì tha hồ mà quay. Đến chừng tỉnh giấc
nhắm chừng mò ra cửa nhưng lại cứ đi xông ngược vào bàn thờ. Rờ chỗ
nào cũng thấy những bàn những ghế. Sao mà lắm bàn lắm ghế vậy? Đêm
nay nằm nhìn ra cửa sổ thấy ánh đèn sáng. An vui quá không muốn ngủ
nữa. Ở dưới nhà ngang còn nghe tiếng lục cục của mẹ làm việc. Hồi
chiều chú Ba làm thịt một lần hai con gà cồ thiến và ba con vịt. An
lẽo đẽo theo đứng một bên để nhìn, An hỏi:
- Sao giết gà vịt một lần nhiều vậy chú?
- Chớ mày muốn để sáng mồng Một sát sinh hả? Làm
thịt bữa nay để cúng hai bữa.
An nhìn dòng máu đỏ chảy từ cái vết cắt ở cổ chảy
ròng ròng xuống cái bát, nhìn những cặp mắt mở to rồi mờ dần yếu dần
cho tới lúc nhắm hẳn. Cái chết đến im lặng, nhẹ nhàng như một trò
chơi dễ. An thấy thương hại cho con gà cồ oai vệ, cho con vịt hiền
lành. An chép miệng:
- Tội nghiệp mấy con gà, con vịt hở chú? Chú giết
nó không sợ nó báo oán sao?
Chú Ba quay phắt lại liền:
- Thằng này dóc tổ. Tao thấy xào nướng bưng lên
là mày gắp liền tay. Mày ăn thì nó báo oán mày chớ mắc gì đến tao?
An thấy chú Ba nói cũng có lý nên định bụng thôi
lần này không ăn thịt gà thịt vịt nữa. Nhưng ý định đó An quên ngay
khi chú Ba rửa ráy xong bưng rổ gà vịt đi mất và nó thẩn thơ đi tìm
xem chuyện khác.
Sáng mồng Một tiếng pháo nổ rầm rầm làm An choàng
tỉnh dậy. Hỏi chú Ba thì là pháo ở tiệm khách Tụn. Nhìn vào bàn thờ
thấy đèn sáp thắp sáng trưng và cha đã khoác áo chỉnh tề đứng khấn
rì rầm. Trông cha uy nghiêm thật phù hợp với cái không khí nghiêm
trang nơi đây. Để tăng thêm vẻ đường bệ, mọi cử chỉ của cha đều chậm
chạp: rót rượu, châm nước, đốt hương, sửa nến. Cha đọc từng hàng chữ
nho: “Đại Nam quốc, Phú Yên tỉnh, Tuy An phủ, An Sơn tổng…” chú Ba
đem pháo tre ra đốt. Chú thích pháo nhưng nhát không dám cầm cây
hương đốt mà phải cầm một thanh củi dài có đầu lửa đỏ. Mười tiếng nổ
đùng liên tiếp, tiếng nào tiếng nấy bưng tai. Mẹ nói:
- Pháo năm nay hay.
An ngạc nhiên. Trông bộ mẹ lục đục suốt ngày như
chỉ biết chú ý đến công việc làm thế mà không ngờ mẹ cũng lưu ý đến
tiếng pháo vui chơi. Cha tươi cười vì câu nói của mẹ ngầm ý bảo: năm
nay làm ăn có hy vọng khá vì pháo nổ chắc tiếng. Cả thôn Quảng Đức
chỉ có chú khách Tụn đốt pháo dây còn thì các nhà khác chỉ đốt pháo
tre, có nhà mươi tiếng, có nhà ba tiếng, năm tiếng.
Vừa bảnh mắt đã có mấy tay cầm cái xóc dĩa chia
nhau từng chặng trải chiếu trên con đường xóm. Lũ trẻ con bâu quanh
liền. Chú Ba bôn chôn ra mặt khi nghe tiếng bốn đồng tiền rủng rẻng
của hàng xóc dĩa tổ chức ngay ở góc rào nhà. Chú ham đánh xóc dĩa và
ích-xì hơn ăn mứt ăn bánh. Chú cứ đi ra đi vô như người mất hồn. Khổ
cho chú hơn nữa là ở ngoài góc rào tiếng lũ nhỏ cứ reo lên :
- Bán chẵn này.
- Lạy trời ra cái lẻ nữa đi.
- Đặt bên chẵn một tiền rưỡi.
- Lẻ! Lẻ! Coi chừng nhà cái chạy làng.
Đường cái vang lên tiếng guốc. Nghe tiếng guốc có
thể đoán biết được người mang. Tiếng guốc lỏng cỏng gõ vội vàng là
tiếng chân của một đứa bé mới tập đi guốc lần đầu. Tiếng guốc chậm
chạp thỉnh thỏang dừng lại là tiếng guốc của người mẹ, người chị đi
kèm lũ trẻ. Tiếng gõ chắc chắn nện mạnh trên nền sỏi là tiếng guốc
của người đàn ông. Con đường sỏi đá gập gềnh làm nhiều đứa nhỏ đi
trượt guốc cứ phải tụt lại đằng sau đứng sửa. Lắm đứa đã chán với
cái trò chơi đi guốc rồi nên cặp guốc lại cầm ở tay và đi chân đất
như thường ngày. Lối đi này thoải mái dễ chịu hơn cả.
Đường cái rộn rịp nhưng nhà cửa thì vắng vì cửa
ngõ cửa ra vào nhà ai cũng đóng im ỉm hoặc mở he hé. Xóm làng thành
ra mang một vẻ uể oải giả dối. Vì ở đằng sau cánh cửa đóng là cả một
sự hoạt động rộn rịp.
Gần trưa, cha An tiếp những ông khách lễ mễ trịnh
trọng trong những cái áo dài đen và cái quần trắng. Những ông nhà
nông mà thường ngày mặt mày không lúc nào khỏi đầy bụi bặm, râu ria
tua tủa, áo vải to dày cộm thấm đầy mồ hôi, hôm nay mặc áo quần mới
trông trẻ và đẹp ra. Nhưng An không thích nghe tiếng chân ghế kéo
chạm vào mặt đất khi khách sắp ngồi và khi khách đứng dậy sửa soạn
ra về. Những câu chuyện trao đổi giữa cha mẹ và các người khách cũng
vậy. Toàn nói những thứ gì An không hiểu, thế mà họ cũng cười với
nhau một cách thích thú thành thật. Những lúc này An tỉ tê theo gợi
chuyện với chú Ba. Những điều An hỏi, chú Ba đều trả lời được hết:
- Sao đánh xóc dĩa, chị Lượm đặt tiền lại quay
thành một vòng ở dưới chiếu hở chú? Sao không đặt một ụ như người
ta?
- Hễ nó ngồi bên phía chiếu lẻ mà nó muốn đặt
chẵn thì nó đặt tiền quay thành một vòng. Nếu nó để thành ụ, thành
đống thì tức là nó đánh lẻ.
- Sao chị ấy không đặt sang bên chiếu chẵn cho nó
tiện?
- Tại ngồi xa nó với tay không tới.
- Họ chúc Tết “bách niên dai lão” là sao hở chú?
Chú Ba vừa nhai miếng cốm vừa nói:
- “Dai” lão là sống dai.
An hết thắc mắc, vói tay vào dĩa lấy một miếng
cốm ăn theo chú. Đây là phần bánh mứt mẹ sớt vào một dĩa lớn dành
cho chú. Trong số những vò, hũ, chum… bỏ trống ở nhà bếp, chú chọn
một cái vò để cất dĩa bánh mứt vào đó. Khi đi chơi về, hoặc vào
trưa, hoặc lúc khuya, chú mở vò bưng dĩa ra lấy ăn. An chia phần với
chú và ăn thấy ngon hơn là khi ăn chung với cha mẹ.
Ngày mồng Hai cha nói:
- An có muốn theo cha xuống núi Một thăm ông Cửu
Nghiệp không?
An mừng quýnh trả lời vội vàng:
- Có.
Ông Cửu Nghiệp giàu nhất vùng và nhà ông
xây hai từng. Suốt một phủ Tuy An chỉ có bà Cửu Phần và ông
Cửu Nghiệp là ở nhà lầu mà thôi. Ông là chỗ bạn thân của cha
nên mỗi khi đi ra tỉnh tiện đường ông đều ghé nhà. Cha tiếp
ở nhà trên, ngay gian giữa. Hôm nay theo cha, An mặc áo dài
đen cẩm nhung. Sự trịnh trọng này do một ngẫu nhiên may mắn
mà có được. Số là xấp hàng cẩm nhung cha đưa may cắt thế nào
mà rốt cuộc còn dư lỡ cỡ một đoạn. Tính toán đủ lối vẫn
không có cách nào dùng được cả nên cuối cùng mẹ đề nghị: để
may cho thằng An cái áo dài. Đó là cái áo dài đầu tiên của
nó. Bước ra đường, An được lũ trẻ trầm trồ nhìn. Hơi ngượng
một chút nhưng mà thầm thích thú. Con đường hôm nay không
chỉ có những người đi rong chơi mà còn có nhiều người đi làm
ruộng. Người ta đã cởi bỏ bộ quần áo mới như còn nuối tiếc
nên vẫn cố giữ hoặc một cái quần hoặc một cái áo vải mới.
Thân người nửa mới nửa cũ hóa ra màu cũ trông tàn tạ thêm.
Cày cuốc ngự trên vai.
Đi qua khỏi xóm thì tới cánh đồng Hòa Mai. Ruộng
đang mùa cày bừa trông thấp hẳn xuống. Vài đám mới cấy, bụi lúa cắm
như chân hương vàng vọt. An thường quen mắt với đồng lúa mướt màu
xanh, lá lúa gợn sóng hoặc cánh đồng lúa chín vàng hạt lúa nặng làm
gục đầu thân lúa nên trông cánh đồng hôm nay có vẻ trần truồng. Con
đường ruộng, từng chặng, nhầy nhụa những khối bùn do các cô thợ cấy
ném lên khiến An phải đi rón rén cẩn thận. Đưa mắt nhìn quanh sang
các xóm làng bao quanh cánh đồng, An thấy chỗ này chỗ kia có từng
đoàn người đi, màu áo đen trên điểm nón trắng. Thỉnh thoảng nhô lên
cái ô đen. Nó lẩm nhẩm lẫn lộn không biết đó là Hòa Tú hay Hòa
Chiểu, phía kia là Hà Yến hay Trường Xuân. Cha chỉ một xóm trước
mặt, nói:
- Núi Một kìa.
Đó là ngọn núi thấp nằm dài, mình mang đầy cây
cối xanh um. Dưới chân núi các nông trại chia nằm rải rác từng nhóm.
Theo tay cha chỉ, An chú ý nhìn vào khu vườn nhà ông Cửu Nghiệp xanh
um màu tàu chuối tàu cau. Thân cau trắng mốc đứng vươn lên thành
hàng song song. Nỗi vui được thấy cảnh lạ làm An quên nghĩ đến con
đường còn lại phải đi. Thoáng mới đó mà đã giã từ con đường ruộng để
bước lên con đường đá đánh vòng đai núi Một. Những bụi gai thấp,
những chùm táo nhơn thưa, những thân chuối rậm rạp xanh mướt trông
quen thuộc.
Bước vào vườn chuối, An thấy êm mát vì ánh sáng
lọc qua lá chuối non đổ xuống xanh xanh. Thân chuối bụ bẫm đứng cao
vút như muốn vượt theo thân cau. Ở vườn nhà, chuối thấp hơn và thân
cau cũng gầy hơn. An nghĩ thầm: “Cái gì của ông Cửu Nghiệp cũng
oai”. Những cây mít mang trên mình đầy trái. Trái lớn quây quần dưới
gốc còn rải rác trên thân cây là những trái hạng vừa nằm thưỡn dài
trông như những cái vú chảy. Bưởi cam cũng không thiếu. An thèm
thuồng cái địa vị của người con ông Cửu Nghiệp được sống giữa những
món ăn ngon này. Sao ở nhà nó lại chỉ có toàn những lúa và nếp thế?
Có lần nó thỏ thẻ so bì với mẹ:
- Nhà con Bông làm kẹo nên nó sướng hơn con. Kẹo
bể là nó ăn. Véo chỗ kẹo dẻo nào cũng bỏ vào miệng được. Nhà mình
thì chỉ toàn lúa nếp. Lúa ăn không ngon. Sao mẹ không làm nghề kẹo
có sướng hơn không.
Mẹ cười mà không trả lời.
Tiếng chó sủa ồ ồ làm An giật mình. Tiếp theo,
tiếng sang sảng vang trong nhà:
- Có đứa nào ra coi chó, bay.
Đúng là tiếng của ông Cửu Nghiệp, giọng chậm rải
của người giàu không cần vội vàng. Người ở là một anh lực điền ra mở
cổng. Ba con chó cao to như ba con bê nhảy xồ ra khiến An bấu vào áo
cha. Cha vẫn đứng yên nhìn vào anh lực điền đang lấy tay gãi sau ót
lí nhí thưa:
- Dạ thưa thầy xuống dưới này.
- Ờ! Có ông Cửu ở nhà không?
- Dạ có.
Cha ung dung bước vào khiến ba con chó đứng dạt
ra. An bước theo, lây cái can đảm của cha. Ông Cửu Nghiệp ra đứng
trước hiên vái chào. Ông đội khăn nhiễu đen, mặc áo xa-tanh màu lam
dệt bông to, chân đi giày Gia Định. Cha cúi xuống chắp tay vái trả
lại. Ông Cửu quay lại xoa đầu An và nói:
- Con đi xa có mỏi chân không? Để bác mừng tuổi
cho con.
Ông móc túi lấy một cắc bạc trắng tinh đặt vào
lòng bàn tay An. An lúng túng không biết nên làm sao. Chợt nhớ tới
cha và ông Cửu chào nhau lúc nãy, nó chắp tay cúi xuống vái. Lát sau
khi đã bình tĩnh lại nó thấy ngượng vì cái vái vô duyên. Đáng lẽ
phải nói “Con cám ơn bác”.
Cha và ông Cửu ngồi ở một cái bàn tròn trên xếp
đầy những đồ dùng mà thoáng nhìn An đoán là rất quí, rất đắt tiền.
Bộ bình trà có chạm rồng nổi mạ vàng. Ve rượu bằng thủy tinh trong
suốt có một cái bầu rất thon và cái vòi nhỏ uốn cong dịu dàng. Ly
rượu toàn viền vàng. Cái điếu thuốc lào khảm xà cừ với cần trúc uốn
dài cong vút. Hộp trầu, khay kỷ, dĩa bánh mứt, tất cả đều choáng lộn
hoặc màu xanh đỏ óng ánh xà cừ hoặc màu vàng quí phái hoặc màu trắng
muốt nõn nà. An ngồi ở cái trường kỷ tay mân mê những chỗ chạm trổ
hình rồng hình phụng. Quả hồng tàu ông Cửu cho, nó nắm mà không ăn.
Nó cứ đưa mắt nhìn cái nhà rộng thênh thang với cái trần cao trong
bày biện toàn những đôn, lọ, sạp, ghế. Nó nhìn lại ông Cửu thấy ông
bé quá so với cái nhà. Để che nắng che mưa chắc chắn ông Cửu không
cần một cái nhà to như vậy. Nó chợt thấy khâm phục con người nhỏ
nhắn mà có thể tạo tác ra một công trình to lớn dường ấy. Ở đằng bàn
tròn, ông Cửu và cha chuyện trò tương đắc. Khói thuốc tỏa ra bao vây
chỗ hai người khiến trông họ như ngồi sau đám sương mờ mờ đục.
Khi cha đứng dậy cáo từ, ông Cửu nài ở lại nhưng
cha lấy cớ ngày Tết có khách đợi ở nhà nên không chịu. An lãnh thêm
hai trái cam ông Cửu cho, cúi đầu chào và theo bén gót cha. Ông Cửu
đi tiễn đến mãi đầu đường mới trở lại. Khi còn lại hai cha con, An
nói:
- Cha hẹn cho con coi lầu ông Cửu Nghiệp mà con
không thấy lầu đâu cả.
- Thì nhà lầu đó.
- Nhà lầu gì vậy? Phải leo lên trên lầu mới gọi
là lầu.
- À quên! Tao tưởng mày biết rồi. Nhưng mà… cũng
vậy đó thôi, cũng như hai cái nhà chồng lên nhau.
Về đến nhà đôi chân An mỏi nhừ. Tuy vậy nằm nghỉ
một lát rồi An lại nhập bọn với lũ trẻ và như thế là ngày mồng Hai
nhẹ nhàng trôi qua. Mồng Ba cũng vậy. Ngày mồng Bốn cúng tiễn ông
bà. Giấy tiền, giấy vàng bạc chất đầy nia to, chú Ba vừa đốt vừa
nheo mắt tránh khói khiến cái miệng méo xệch. Chú lấy một xấp giấy
vàng bạc phết hồ lên lưng từng tờ đem dán vào cái cối xay, cái cối
giã, mấy cái chày, cái thúng, cái giếng, cái ngõ, cây mít… không
biết có qui chế nào ghi rõ món nào phải dán không nhưng cứ xem vẻ
mặt của chú khi cầm tờ giấy vàng bạc dính đầy hồ đứng lưỡng lự trước
chuồng heo và cây ổi là An đâm nghi. Hình như chú phải kiếm cho ra
món để dán kỳ hết xấp giấy vàng bạc. Được tờ giấy vàng bạc dán lên
mình, mấy đồ vật tầm thường như có thêm linh hồn và đang dự vào một
cuộc sống huyền bí. Trong lễ cúng tiễn, bao nhiêu pháo còn lại đều
đốt hết. Bảy, tám đòn bánh tét cũng đem chất đầy ghế. An nhìn ánh
lửa thiêu vàng mà bùi ngùi. Phải một năm sau mới gặp trở lại, một
năm trọn vẹn vì cuộc hành trình mới vừa khởi đầu. An thấy buồn chán
nản.
Tuy vậy, tháng ngày cứ nhẫn nại và lặng lẽ đi
qua, như một lũ nhỏ cầm tay nhau đi vòng, đi mãi rồi thế nào cũng
gặp lại chỗ cũ. An lớn lên dần và cái thôn Quảng Đức cũng già nua
dần đi. Những ngày Tết nối tiếp nhau theo cái tốc độ chậm chạp của
nó nhưng khi ngoái nhìn trở lại trong dĩ vãng, tính nhẩm số tuổi thì
An lại thấy chúng đi mau. Mỗi lần Tết đến hoa cúc vạn thọ lại nở
trước sân nhà, tiếng đồng tiền xóc dĩa lại rủng rẻng khắp ngõ xóm.
Ngồi lần lại ký ức, An thấy yêu mến hết sức cái Tết năm đó An theo
cha xuống thăm nhà ông Cửu Nghiệp. Ông Cửu Nghiệp là hình ảnh của sự
sung túc, của cuộc đời an nhàn lý tưởng trong những ngày bé thơ của
An. Sau đó chừng mười năm khi An lớn lên và phải đi học xa. An sống
xa dần cái khung cảnh êm đềm ngày xưa và những người quen thuộc cũ.
Một lần đột nhiên hỏi về ông Cửu Nghiệp, An nghe cha nói một cách
bùi ngùi:
- Ông Cửu về ở trên Đồng Tranh từ năm kia. Nghe
nói bây giờ túng lắm. Bà Cửu phải làm hàng xáo.
An tự xét:
- Ông Cửu giàu như vậy mà sao lại nghèo mau vậy?
- Vì mấy vụ kiện vẩn vơ, chuyện tranh giành ruộng
hương hỏa tuyệt tự đáng lẽ có thể thu xếp ổn thỏa nhưng vì tức khí
lại bị hương lý và lũ nha lại xui nguyên giục bị nên cứ theo kiện mà
sạt nghiệp.
- Còn cái nhà lầu?
- Sở vườn đem thục để chạy kiện rồi đoạn mãi
luôn. Cái nhà lầu bán cho chú khách Lê ở Hàng Dao. Ông Cửu phải về ở
trên Đồng Tranh là quê của bà Cửu.
An buồn như nghe tin chẳng lành xảy đến cho người
thân thích của mình.
Ngày chiến tranh bùng nổ, cái nhà lầu của ông Cửu
Nghiệp bị phá hoại. Vôi gạch đổ xuống từng đống. Nền xi măng chú
khách Lê cho người ta gặt nhờ để đạp lúa. Mỗi ngày gặt, được một giạ
lúa cho thuê sân. An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời ấu thơ êm
đềm nay không còn nữa, có còn chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề
bộn của chàng thôi. Lâu lâu khi có dịp, An ra đầu xóm đứng nhìn về
chân núi Một. Chòm lá chuối lá cau xanh ngắt của vườn ông Cửu Nghiệp
còn đó. Những thân cau vẫn một màu trắng mốc đứng vươn lên từng hàng
song song. An tưởng tượng thấy ở nơi cái vườn sum sê hoa lá ấy những
con chim sẻ vẫn say mê mổ thóc rụng, những con chích chòe vẫn nhí
nhảnh chuyền trên cành lá lục lọi tìm sâu, những con chiền chiện vẫn
mải miết tước lá cau lấy sợi về làm tổ. Ở dưới các con mương nhỏ mọc
đầy khoai môn khoai sáp, lũ cá sặt cá rô vẫn tinh nghịch đớp mồi và
lũ châu chấu cào cào vẫn xòe cánh mỏng màu lúa non mà bay sè sè
trong nắng. Sự sinh hoạt của cảnh vật vẫn bình thản êm đềm, nhưng
còn đâu nữa ông Cửu hào hoa và ngôi nhà lộng lẫy?
|