...Tôi
gửi đến
Bạn bài viết về một cái Tết,
chuyện ngày xưa nhưng mỗi lần
Tết đến,
tôi lại nhớ đến
chuyện ấy để...
buồn buồn! Tựa đề là :
Huế, ngày
nào đó!
Bạn
tùy nghi.
Hẹn gặp lại ở
đây vào
Ngày Ðưa
Ông Táo.
Thân (MB)
Chúng tôi định
đăng trong ba ngày đầu Xuân, thì
đêm mùng Hai Tết, được tin Ông
đã âm thầm ra đi vĩnh viễn.
Chúng tôi lặng người. Ông mới
vừa điện thoại nói chuyện vui
vẻ, mà giờ đây tới một thế giới
xa lạ, để lại người vợ mà Ông
yêu quý vô cùng đã từ chối
không theo con mà ở lại một mình
trong căn nhà cũ đầy kỷ niệm để
Bà vẫn thấy Ông luôn ở bên Bà...
Cuộc đời chỉ là một cuộc họp mặt.
Vietsciences
Một niềm
vui nhỏ
Phỏng vấn nhạc sĩ, nhà văn, nhà
giáo Mạnh Bích
-Mệ (1) ngồi
trên mép bộ ván ngựa. Trước mặt
mệ có cái tráp trầu để mở. Tôi
chỉ được ngồi bên cạnh. Tôi đòi
ngồi trong lòng bà như mọi khi,
để được tự do táy máy nhìn ngắm
mấy miếng trầu do mẹ tôi vừa têm
cho bà, nhưng ôn (2) nhìn mệ lắc
đầu. Mệ dịu dàng nói:
- Mi ngồi đó được rồi. Không thì
con Cúc lại khóc chừ.
O-Em cũng vừa từ dưới chái đi
lên. O (3) bỏ guốc ra, đến trao
ấm nước vừa đun sôi cho ôn. O
cũng nói :
- Cháu ngồi im chơi, đừng làm
rộn mệ ..., mà cháu lo xuống
nhà-dưới để mẹ thử áo cho chơ.
Ôn đỡ ấm nước sôi trong tay
người con gái góa bụa nay thực
sự trở về sống với gia đình, sau
thời gian chịu nhiều khốn khổ để
mưu sinh cho ba mẹ con. Ôn châm
thêm nước vào bình trà, rót một
tách, đưa mời mệ. Rồi ôn ngẩng
lên, nói với O-Em:
- Thôi con để đó được rồi.
Ôn tự rót cho mình một tách,
nhưng chưa uống. Ôn đưa chiếc ấm
đất lên, hướng về phía mệ. Hiểu
ý ôn tôi muốn hỏi bà muốn uống
nữa không, mệ nói ‘dạ thôi’. Ôn
lại đặt cái ấm xuống rồi quay
sang phía tôi, nghiêm giọng:
- Còn cháu, cháu phải nhớ là
mình đi học rồi đó. Đừng làm
vậy, các em thấy, chúng nó cười
cho... Cháu xuống với mẹ cháu,
đừng để cho mẹ cháu chờ.
Tôi nhìn mệ. Mệ đưa tay nhẹ
nhàng vuốt tóc tôi và nói:
- Tóc dài quá rồi đó. Lát nữa có
chú Xoáy đến hớt cho cha, nhớ
hớt luôn nghe.
Biết là mệ không can thiệp, tôi
‘dạ’ rồi tụt xuống sập, định
chạy xuống nhà dưới, nhưng O-Em
chặn lại:
- Guốc. Lại quên ôn dặn rồi.
Tôi quay lại, miễn cưỡng xó chân
vào guốc. Tôi mới ‘bị’ đi guốc
mấy tháng nay, từ ngày tôi đi
học ở trường Vạn-xuân của thầy
Liễu-đình-Ngô. Chú Khải muốn tôi
đi học sớm nên đem lại giao cho
bạn của chú làm ‘ông-đốc’ trường
tư này. Trước kia, tôi được
tự-do hơn. Chạy nhảy chân không
cả ngày trên nền nhà nhẵn thín
mát rượi, ngoài sân lát gạch bát
tràng hồng tái, thật không có gì
sướng bằng. Còn tối lại, trước
khi đi ngủ, có O-Em đem đi rửa
chân, kỳ cọ từng ngón, rồi bồng
thẳng lên giường của mệ nghe kể
chuyện đời xưa. Cực hình đi guốc
chắc hôm nay sẽ càng khắc khe
hơn vì chỉ còn một tuần nữa là
Tết. Cha mẹ tôi và Liên (em gái
tôi) đã về kịp để đưa Ông Táo,
còn chú Khải tôi cũng sẽ về nay
mai.
Trong nhà, tôi chỉ “ngại’’ có
mỗi ông chú dạy học này. Ông
cũng nghiêm từ như ông nội và
cha tôi nhưng có lối hay trừng
mắt mỗi khi tôi làm điều gì mà
ông cho là sai. Ông không dám la
mắng sợ làm trái ý ông-nội của
tôi nhưng hay cằn nhằn O-Em và
Mệ, cho rằng nuông chiều tôi quá
mức. Mệ thì vẫn quen không nói
gì dù không đồng ý với người con
trai nhiễm nhiều tây-học, nhưng
O-Em thì vừa thút-thít vừa bảo,
trước sự bực bội của chú tôi:
‘Cậu đừng la rầy hắn. Không phải
hắn là đích-tôn của ôn mà tui
binh hắn nhưng mà hắn không có
cậu mợ ở đây ... Hắn không sướng
bằng cả con Hồng, con Cúc, tụi
nó có tui bên cạnh’. Nể lời bà
chị goá bụa, không binh con mà
lại binh cháu, ông chú của tôi
không còn bao giờ quát mắng tôi
như đối với các cháu khác, như
đối với chị Khánh-Yên, anh Điệu
vân vân chẳng hạn, những người
học trò của chú tôi thỉnh thoảng
được đưa từ trường Vạn-giả về
Huế nghỉ hè.
Tuy vậy, tôi vẫn rất ‘ngán’
những lúc chú xẳng giọng hay lừ
mắt. Tôi mơ hồ thấy ‘bất ổn’ mỗi
lần có chú tôi về nghỉ hè.
Không-khí trong nhà có một cái
gì đấy không thoải mái, tự nhiên
nữa. Sự yêu thương không được
bộc lộ tự do nữa. Những ánh mắt,
những vuốt ve thiếu sự trìu mến
ngày thường. Mệ và O-Em giữ gìn
hơn, hạn chế trong sự săn sóc
chúng tôi.
Đối với tôi, ông thường nói:
‘Phải công bằng hơn. Bảy tám
tuổi rồi. Hai cẳng hắn dài
thoòng rồi’. Nói vậy thôi chứ
tôi vẫn yêu quí ông vì tôi cảm
thấy chú tôi có một lối thương
yêu tôi riêng biệt. Ông là người
chăm lo chuyện học hành của tôi
nhiều nhất. Có lẽ trong đầu ông
chỉ có một ý nghĩ mà ông cho là
hợp lý, quan trọng : ‘Thằng Hà
nó là cháu ruột của tôi, tất
nhiên hắn phải giỏi. Mà như vậy
thì phải nghiêm, không được
buông thả quá với hắn’.
Nhưng ‘hắn’ được sống bên cạnh
ông bà nội của ‘hắn’. Và cả O-Em
của ‘hắn’ nữa.
*
Cha tôi và chú Khải, tuy đã có
chức phận trong chính phủ bảo-hộ
nhưng ông bà nội của tôi vừa dọn
từ Cầu-hai về đây mới hai tháng
nên chúng tôi chỉ có căn nhà nhỏ
bé này để ở. Ông bà ngoại tôi,
sợ con gái phải lang bạt xa Huế,
nên cố tìm một miếng đất cũng
nằm trong Thành-Nội để ‘hai ông
bà su-gia’ dọn về ở cho tiện bề
lui tới. Bà-nội tôi rất cảm động
trước lòng ưu ái quí hóa của
‘cụ-giáo’ - ông ngoại tôi làm
giáo sư trường Bách-Công (école
pratique) - còn ông nội tôi thì
đã thấm mệt vì vận xui đeo đuổi
mãi từ khi Bà-Cố của tôi mất, vả
lại, thấy được ở gần ông Ngự Đạt
- cũng là lương-y cho Triều-Đình
- là chỗ quen biết nên nhận lời.
Thế là chúng tôi kéo nhau về ở
nơi gần hồ Tịnh-tâm này để kịp
ăn Tết. Ông bà nội của tôi muốn
kéo tất cả mọi người về: O Quản
và O-Em - hai người con gái góa
chồng - và các anh Kha, Nghĩa,
các chị Hồng, chị Cúc. Tất nhiên
là mẹ tôi và hai anh em tôi nữa.
Nhưng O Quản không bằng lòng,
lấy cớ ‘để ôn mệ ở cho rộng
rãi’.
Tôi là người sung sướng nhất
trong cái số gần mười người ấy
được quây quần tại đây. Căn nhà
tuy nhỏ - một căn, một chái -
nhưng hình như ai cũng có chỗ
ngủ nghê tương đối tốt cả. Tốt
đối với riêng tôi vì tôi được
ngủ chung với ông tôi, trên bộ
ván ngựa gồm ba mảnh gỗ mít ghép
lại. Cạnh đấy có một cái tủ có
nhiều hộc (ngăn kéo) đựng đầy
thuốc bắc thơm phưng phức. Trước
khi ngủ, lúc đã nằm cạnh ông
tôi, tôi thường đuợc cho phép
lấy một quả táo tầu để ăn. Thật
là tiện lợi cho nên ngon vô
cùng. ‘Mấy người kia’ ngủ ở đâu
không biết, nhưng không nghe ai
tìm chỗ hay tranh giành gì cả.
Tiện lợi ấy sẽ mất đi khi tôi
thi đậu tiểu học - bằng cơ thủy,
còn được gọi là ‘ri-me’ - và cha
tôi phụ với chú Khải sửa lớn nhà
này thành ba căn hai chái.
*
Tết năm ấy là cái Tết quan trọng
nhất đời tôi. Chúng tôi rộn rịp,
náo nức tổ chức ăn cái Tết đầu
tiên trong cảnh sum họp hoàn
toàn, có đủ con cháu nội ngoại.
O-Em được quyền tự do lấy tiền
‘măng-đa’ ra để làm không biết
bao nhiêu là... bánh. Mẹ tôi may
cho tôi thêm rất nhiều áo quần.
Mọi năm, nhân dịp Tết, tôi chỉ
được có một bộ áo quần kiểu
hải-quân, một loại ‘soọt’ trắng
viền xanh; trái lại năm nay, tôi
được những ba bộ, kiểu khác
nhau. Ngoài ra còn có ba bốn cái
quần đùi và một bộ áo quần dài
ta, vải quyến. Mẹ tôi nói là để
đi học cho oai.
Tôi
không thắc mắc gì vì trong đầu,
trong mắt tôi, chỉ biết có các
thứ bánh là điều đáng yêu thích
mà thôi: bánh măng, bánh mận,
bánh mè, bánh su-sê, bánh thuẫn,
bánh tô-châu v.v. và nhất là
bánh in. Có đủ loại bánh in:
phục linh, đậu xanh, bột nếp...
(O-Em rất giỏi về bánh in).
Bánh phục linh thì ngon tuyệt,
mịn nhuyễn, tan ngấm vào tận các
khe hóc trong mồm, thơm lừng mùi
bột ướp bông sói,
nhưng không phải vì vậy mà tôi
thích. Tôi thích vì, sau khi chờ
O-Em cho bột vào khuôn, lấy cái
nắp có quai ấn bột xuống cho
chặt, tôi được phép chà đi chà
lại trên mặt cai khay lớn bằng
đồng rồi ấn cho miếng bánh lọt
ra, nhẵn nhụi và không vỡ. ‘Giỏi
thiệt. Chỉ có thằng Hà làm được
thôi. Con trai có khác’. Chị
Hồng chờ bên cạnh để đòi làm thử
mà O-Em không cho, xì một tiếng
rồi bỏ đi.
Suốt một tuần, từ hôm ba mươi
cho đến mồng năm, tôi được tự do
ăn đủ thứ bánh trái và các thức
ăn do O-Em làm. Mệ và mẹ tôi chỉ
làm một ít mứt lấy khéo thôi.
Không hiểu vì sao O-Em không làm
theo điều cấm kỵ lớn nhất của
ông tôi ‘không được rớ vào bất
cứ một thứ gì trước khi đem lên
cúng’. Mỗi khi tôi lảng vảng
xuống nhà-dưới, O viện cớ cho
tôi nếm thử để cho tôi một miếng
bánh tét chiên
giòn rụm, dính răng nhưng
thơm lừng hay một cái bánh thuẫn
vàng rộm mới làm.
Cho đến tối hôm ấy - hôm sau cha
mẹ tôi phải trở về Qui-nhơn -
trong khi cha và chú tôi ngồi
nói chuyện gì đấy bên bộ trường
kỷ, mẹ tôi gọi tôi ở ngoài sân
vào. Mẹ ôm tôi vào lòng, trước
mặt ôn. Tôi lấy làm lạ là ôn tôi
không nói gì, trái với mọi khi,
mẹ tôi không được nựng nịu, âu
yếm tôi thái quá. Mệ thì không
nhìn tôi và cúi đầu xoáy rất lâu
một miếng trầu đã nhuyễn. Một
lúc sau, thấy tôi ngơ ngác nhìn
qua nhìn lại, mẹ tôi nói: ‘Hà
ơi! Ngày mai, mẹ đi Qui-nhơn với
cha còn con thì ...’. Nói đến
đấy, mẹ tôi lặng im, không nói
được nữa. Miệng bà méo xệch đi
trông rất tội nghiệp. Chưa bao
giờ trông mặt mẹ tôi lại khổ sở
như vậy. Nước mắt mẹ tuôn ràn
rụa lên má, lên môi, ướt luôn cả
má của tôi. Mẹ ôm chặt lấy tôi.
Tự nhiên, tôi cũng khóc theo.
Tôi nhìn sang mệ. Mệ bỗng dưng
đặt cái xoáy trầu xuống và tụt
xuống bộ ván, vừa kéo vạt áo lau
nước mắt vừa đi xuống nhà-dưới.
Ôn lúc ấy mới hắng giọng nói:
- Hà! Cháu đừng khóc, nghe ôn
nói. Chị Cả (chỉ mẹ tôi) cũng
đừng khóc nữa, để ôn nói chuyện
với hắn cho.
Qua làn nước mắt ào ạt tràn tới,
qua tiếng khóc tấm tức của mẹ
tôi, tôi nghe ôn giảng cho tôi
hiểu là tôi không được theo cha
mẹ tôi đi Qui-nhơn mà phải ở lại
Huế với ôn và mệ để đi học.
Tối hôm ấy tôi không chịu ngủ
chung với ôn và chen vào ngủ
chung giường với mẹ tôi và em
Liên. Sáng hôm sau, tôi thức
giấc thì thấy mình đang ngủ ở
giường của mệ. Tôi vùng giậy và
hiểu ngay là cha mẹ tôi, em Liên
và chú Khải đều đã đi hết rồi.
Tôi nhảy xuống giường, vụt ra
ngõ, bặm miệng chạy thật nhanh
về phía đầu đường Đoàn-thị Điểm.
Mệ la lên ... O-Em và chị Hồng
đuổi theo. Chị bắt được tôi.
O-Em bồng tôi về, vừa đi vừa
khóc.. Tôi oà lên khóc rất lớn;
tôi vùng, tôi dẫy hết cả sức lực
của tôi.
Gần đến trước nhà thì O ngã quị
xuống đường. Bà Tiềm ở đâu không
biết chạy lại đỡ O và tôi lên,
dìu vào nhà. Mệ khóc nức nở trên
bộ ván. Ôn nhặt vội cái khăn lau
chén trà đưa lên chụi mắt. Trong
khi O-Em đặt tôi ngồi trên bộ
ván, bên cạnh mệ, ôn đến trước
bàn thờ, thắp nhang rồi quì
xuống. Không thấy ôn lạy. Không
nghe ông tôi khấn. Ôn quì rất
lâu, mắt nhìn đăm đăm trước mặt,
hướng về phía cái bài vị phủ
nhiễu đỏ trên bàn thờ. Và lần
đầu tiên, tôi thấy từ mắt ôn hai
giọt nước mắt ứa ra, long lanh
rất lâu rồi vỡ thành hai giòng
nước nhỏ chảy xuống gò má để
chen vào ria mép của ông tôi.
Tôi sửng sốt, nín khóc.
Tôi bỏ ăn mấy ngày. Ôn biểu mệ
đem tôi vào ngủ với mệ, còn chị
Cúc thì phải chen vào nằm chung
với O-Em và chị Hồng. Trẻ thơ
quên buồn khá nhanh, nhất là khi
thiếu vắng tình mẹ lại có tình
thương nồng nàn của những người
thân khác bù đắp chứa chan vào.
Những người thân ấy, trước hết
là bà-nội của tôi.
Tình thương của mệ không phải
‘như nước trong nguồn chảy ra’,
mà là trời, là biển, rộng lớn
sâu đậm vô cùng tận, là một thứ
hơi ấm tỏa ra từ con người bé
nhỏ của mệ, trùm bọc lấy tôi,
trọn vẹn, không lúc nào vơi nhẹ,
chắc còn hơn cả lúc có mẹ tôi
bên cạnh. Hình như mệ cố hết sức
phụ với ôn bù đắp một cái gì đấy
cho tôi. Còn O-Em, người góa phụ
chỉ có hai mụn con gái, rất sung
sướng được thương yêu ‘thằng Hà
con cậu mợ’ như con trai của
mình. Và chị Hồng, chị Cúc, thấy
mẹ mình yêu chiều đứa em cô cậu
của mình, cũng thương yêu ‘em Hà
vì em không có mợ bên cạnh như
tụi mình’.
*
Quãng đời ấu thơ cứ vậy mà trôi
đi, trầm lặng, êm đềm. Tôi lớn
lên, được bao bọc bởi một không
khí gia đình hiền hoà, êm-ả.
O-Em thích thú chia xẻ tình
thương yêu của mệ ban cho tôi.
Không bao giờ O vượt tranh tình
yêu thương yêu của mệ. Dường như
cả hai đều cảm thấy sung sướng
hơn khi sự triù mến của họ trở
nên hoàn toàn hơn khi cả hai
cùng chung nhau lại, phụ cho
nhau, săn sóc thật nhiều, cốt
làm cho tốt hơn.
Tình yêu thương của cả hai luôn
luôn thanh thản, thâm trầm, tạo
nên một thứ hạnh phúc dung dị,
an nhiên, và niềm hoà ái của họ
xoa dịu rất nhiều tình trạng gần
như côi cút của tôi. Tôi quen
với cái không khí êm đềm bình
thản ấy và sự trầm lặng lẳng
lặng đi vào hồn lúc nào tôi
không hay.
Thật ra O-Em thường bồng bột
hơn. Khi tôi bị ngã, bị đứt tay,
trầy chân - những chuyện thường
hay xảy ra lắm - người chạy lại
trước nhất là O. Và O tự động
chạy lên nhà-trên, mở một ngăn
kéo rất quen thuộc của O, lấy
thuốc đắp rịt cho tôi. Chị Hồng
cũng lăng xăng bôi thuốc cho
tôi, còn chị Cúc thì, quá quen
với cảnh tượng ấy, chẳng khi nào
để ý đến việc mẹ mình lo ‘dữ
tợn’ cho đứa em cô cậu của mình.
Mỗi lần thấy O hốt hoảng như
vậy, ôn thường bảo O ‘không nên
làm um xùm’, nhưng O làm ngơ,
làm như không nghe thấy gì cả.
Rốt cuộc tôi được cái hạnh phúc
là ‘hư’, không phải hư tại mẹ
tại bà, mà ‘hư tại cô’.
Trong gần ba năm, thế giới ấu
thơ của tôi là nơi đây. Nó là
một thiên đường mà thiên đường
ấy lại rất nhỏ bé, quá xứng hợp
với tầm vóc của tôi nên rất ấm
áp, an lành. Nó gồm có một gian
nhà chính, có bàn thờ tổ tiên
đặt trong cùng; bên phải là tủ
thuốc của ông tôi; bên trái là
bộ trường kỷ. Đối diện bàn thờ
là bộ ván ngựa của bác bộ Khuyến
chở từ dưới làng lên. Bộ trường
kỷ có chạm xa-cừ rất được ông bà
nội đặc biệt trân quí vì hình
như nó vẫn đi theo hai vợ chồng
nhà nho nghèo, ít may mắn này,
trên những nẻo đường định cư lập
nghiệp. Tôi không nhớ các chị
Hồng, chị Cúc chơi ở đâu - con
gái chơi riêng - còn tôi thì
được tự do chạy nhảy khắp nơi.
Mệ chỉ thích giữ tôi bên cạnh, ở
nhà-dưới (O-Em không thích gọi
nơi này là chái vì lẽ nền nhà
cũng bằng đất nện tráng xi-măng
như ở nhà-trên và cũng khá rộng,
đủ để dùng làm nơi nấu nướng và
chỗ ngủ cho đàn bà con gái) để
mệ đọc vè Kinh-thành thất thủ,
hay kể chuyện Thạch-Sanh,
Mạnh-lệ-Quân, Tiết-nhơn-Quí vân
vân.
Còn O-Em thì, mỗi chiều là lúc O
rảnh rang nhất, thích gọi tôi
đến để ôm chặt tôi vào lòng, để
hôn hít lên tóc của tôi và để
nói ‘gớm, hôi như chó, đi tắm
đi’. Thế là màn bi-hài-kịch lại
diễn ra: mệ không cho O-Em tắm
trần truồng cho tôi sợ tôi bị
‘nhiễm hàn’, và O-Em phải nhờ ôn
can thiệp để ‘tắm cho hắn đi,
cho hắn dạn gió dạn máy’.
Khi nào tôi lười thì tôi giả vờ
kêu lạnh để được mệ giằng khỏi
tay O-Em, đặt ngồi trên lòng cho
ăn kẹo cau, kẹo gừng và kể
chuyện tiếp. Ngược lại, tôi
không nói gì. Thế là O-Em đem
tôi ra ảng nước sau bếp để tắm
rửa rồi lấy bộ áo quần tây mẹ
tôi đã may, mặc cho tôi. O
âu-yếm vuốt ve tôi và nói ‘thằng
ni đẹp như tây’. Những khi ấy,
ôn thưởng cho một quả táo tầu vì
tôi không sợ nước lạnh.
Vấn đề chơi ngoài trời cũng vậy.
Tôi chỉ được chạy nhảy ngoài sân
trong lúc có ôn đang săn sóc hòn
non bộ. Kể ra cả những lúc ấy,
tôi cũng chỉ được ra đến ranh
giới cổng nhà và đứng ôm gốc một
cây sầu đông, thèm thuồng nhìn
bọn Đằng, Hảo chơi đùa trước mặt
nhà họ, trong đám cỏ mọc hoang
ven đường. Cho nên, lúc nào mệ
ngủ trưa, tôi xin phép ôn ra
chơi sau vườn, có nghĩa là tôi
được phép leo lên cây khế-giành
hoặc cây mít nài trồng ven vườn,
ngăn nhà tôi với nhà bà goá phụ
của ông Chưởng-ấn Võ-Tiềm. Ngồi
vậy thôi. Để tự thấy mình là con
trai nên được leo trèo và mình
không đến nỗi ‘quá tệ’ như anh
Nghĩa thường chê tôi. Còn muốn
ăn những trái khế vàng rộm, nhai
nghe rào rạo và thỉnh thoảng bị
sặc vì nhiều nước và ngọt ‘dữ
tợn’ thì phải nhờ đến chị Hồng.
Chị ‘khoèo’ khế bằng cây sào tre
dài, đầu chẻ đan thành cái ngảo
nhỏ rất tài. Trái nào cũng rớt
gọn lõm trong ngảo cả.
Cả nhà đều tôn trọng lối sống mà
ôn đã lôi cuốn mệ vào, trong
suốt thời-gian ra-ở-riêng với
nhau. Dường như từ cái năm
Ất-Dậu ấy, thời vận suy vong đã
đến với đất nước của triều
Nguyễn và kéo luôn cả gia đình
ôn theo. Người nho sĩ
thất-cơ-lỡ-vận ấy đành chấp nhận
cuộc sống thanh bần, yên phận
với trách nhiệm lương-y do mình
chọn lựa, theo quan niệm bất-di
bất-dịch từ hàng mấy chục đời
rồi. Ôn chán thi cử, công danh
đã đành, còn những khoa thi
hương thi hội của triều-đình
cũng dần dần bị bãi bỏ!
‘Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
mười người đi học chín người
thôi. Mấy khoa hương-thí không
đâu cả ...’. Lời than thở của Tú
Xương làm cho những lần toan
tính theo các bà-con có tâm
huyết gia nhập phong trào
Cần-vương, Duy-Tân bất thành
trong tâm tưởng của ôn thêm ai
oán! Triều đình thì bấn loạn,
văn-thân cũng thúc thủ, nhà nho
đau buồn nhìn quốc thái đi dần
vào suy vong.
‘Trường tây’ đã mở ở nhiều nơi
trong nước. Trong gia đình bên
bà-tôi đã có nhiều người nhanh
chân chen vào vận-hội-mới. Sợi
giây tương ứng, nghĩa trọng giữa
ông bà nội và ông bà ngoại của
tôi cũng trở thành lỏng lẻo vì
ông ngoại tôi nhận lời ‘làm việc
với tây’. Mỗi lần mẹ tôi được
gọi về nhà để theo ông ngoại tôi
‘qua toà Khâm chơi’, ôn không
nói gì, chỉ buồn âm thầm, cũng
như ôn dành âm thầm sống bên lề
vận nước đang thay đổi nhanh
chóng.
Tôi thường nghe ông tôi đọc cho
ông Ngự Đạt, bác bộ Khuyến nghe,
giữa những lúc luận đàm về
y-thuật, mấy câu thơ của một
người bà con bị mất xác trong
lúc phò vua Hàm-nghi lánh nạn ra
Sơn-phòng (Quảng-trị) gửi về
khuyên can ông tôi. ‘Bất lương
tướng tắc lương y; tuế nguyệt du
nhàn, tứ hải tao phùng thanh
nhãn khách’ (4,5) và gì gì nữa,
tôi không nhớ hết. Tôi chỉ không
thể nào quên được, cứ mỗi lần
như vậy, cả ba ông lại chuốc
rượu cho nhau uống để tán thưởng
mấy chữ ‘thanh-nhãn-khách’.
Rồi ôn cũng bất-đắc-dĩ phải để
hai người con trai vuột khỏi
cương-hệ cổ-truyền, hội nhập với
xã-hội mới của Việt-nam bị Pháp
dần dần thống trị. Ôn buồn rầu
nhìn xã hội bị tân hóa rồi phân
hoá và lo cho những nguyên tắc
cổ truyền trong gia đình dần dà
theo biến chuyển của xã hội mà
trở thành mong manh lạc lõng. Ôn
nhắc nhở cha tôi phải luôn luôn
nhớ đến việc trau dồi hán học để
chu toàn bổn phận trưởng-nam.
Cha tôi cũng bắt đầu phải học
thuốc với ôn và một ông bác
trong họ (ông này rất được ông
Ngự Đạt quí trọng và xem là một
đại lương-y). Điều này trở thành
mối ưu tư của ôn và một ray rứt
lương tâm cho cha tôi : làm sao
lo cho tròn được trách nhiệm ấy,
cho hợp với hiếu đạo khi cha tôi
phải bận công vụ ở xa và sự
truyền thụ y lý không được liên
tục, thường nhật?
Ngoài ra, mỗi lần chú Khải về
nghỉ hè là mỗi lần có tranh luận
về mới và cũ. Không khi nào ôn
có thể hoàn toàn hiểu được ‘cái
lối học kỳ cục của Tây’. Có một
lần chú tôi đang giảng về trời
sáng, trời tối cho chị Hồng, ông
tôi ngưng tay bốc thuốc để bảo:
‘Đó, thấy chưa? Tây nó mạnh, nó
hơn mình thì nó nói gì mình cũng
phải nghe, cũng đành chịu. Chứ
như nói rằng trái đất đã tròn mà
lại còn quay nữa thì làm sao
nghe lọt lỗ tai cho được?’. Chú
tôi bực mình vì chị Hồng lại
càng không hiểu chuyện chú giảng
nhưng không dám nói gì. Vả lại,
chú cũng không biết làm sao để
chứng minh được!
Nhưng giữa ông bà tôi và các con
các cháu có sẵn tình yêu thương
làm keo sơn, để sự hoà nthuận
trong gia đình mỗi ngày một vững
chắc. Cũng như nết hiền hoà của
mệ, đức hy sinh của O-Em làm
nguồn vui cho mọi người. O-Em,
ngoài việc chợ búa bếp núc, còn
làm thêm bánh ít đen, ít trắng,
bánh lá chả tôm đem bán ngoài
chợ Xép, gần ngã tư Âm-hồn để
kiếm thêm tiền chợ, đỡ bớt gánh
nặng cho cha mẹ mình.
Hai bàn tay của O càng ngày càng
sưng húp vì làm việc không lúc
nào ngừng. Tuy vậy, tấm lòng
phụng thờ cha mẹ,thương yêu
chúng tôi không lúc nào suy
giảm, làm cho nụ cười của O
không lúc nào thiếu trên môi.
Chưa lúc nào tôi nghe O thốt ra
một tiếng thở dài chứ đụng nói
là lời than thở.
Dựa trên lòng tin trời, yêu
người, chúng tôi sống trong cảnh
nghèo của ôn và mệ của chúng tôi
một cách bình thản. Ôn thường
nhắc nhở chú tôi: ‘Đừng quá lo
cho ôn mệ. Bần nhi vô xiểm, phú
nhi vô kiêu, (6) con thấy ôn mệ
lúc nào cũng vui không?’. Nhưng
cả cha lẫn chú tôi lúc nào cũng
cố chăm lo cho cha mẹ vì rất
thương xót mệ tôi. Mệ là mẫu
người nhân ái của tất cả bà con
nội ngoại của tôi.
Con cụ Tú Trần và em gái của Ông
Hồng-lô, mệ lẳng lặng quên nếp
sống sung túc nhàn hạ của gia
-đình khi trở thành vợ của một
nho sĩ bị thất-cơ-lỡ-vận. Luôn
luôn mệ tỏ ra kính yêu những cái
‘gàn’ của chồng. Bằng nụ cười,
ánh mắt hiền hoà, bằng lời nói
thiết-tha dịu dàng, mệ răn dạy
con cháu nết hiền thục, an nhiên
của mẫu người hiền phụ, hiền mẫu
được mọi người quí trọng trong
xã hội cổ truyền một cách ôn
nhu, trầm lặng. Ông tôi làm
thuốc với nguyên-tắc ‘ý giả ý
dã’ cho nên nhà không lúc nào
được sung túc, mặc dù thân chủ
rất đông, phần nhiều từ các làng
quê lặn lội đến, như những vùng
Cầu-hai, Nước-ngọt, Thanh-đàm,
Vân-cù, hay xa hơn nữa, từ các
tỉnh Bình-định, Tuy-hoà là những
nơi mà ôn đã được mời đến chữa
cho một đại-phú-gia nào ở đấy.
Lối làm thuốc cốt để cứu nhân độ
thế là một lối phụng sự xã hội
của những hàn nho này được chú
tôi xem là không mấy hợp lý
trong cái thời buổi kim tiền mới
mẻ này. Đa số thân chủ được miễn
phí, còn thông thường, ôn chỉ
nhận một con gà, mấy bao trà và
mấy câu cám ơn chân tình là đủ.
Vì vậy, mệ không lúc nào được dư
dật để tiêu pha. Mỗi đầu tháng,
mệ nhặt một ít tiền ăn mười, ăn
sáu - tất cả không quá một
‘giác’! - trong ngăn kéo đựng
tiền thù lao của bệnh nhân và
tiền ‘măng-đa’ của cha và chú
tôi gửi về để ra quán Mụ Sáu đầu
đường Mã-khái mua quà cho chúng
tôi.
Tôi ngậm trong miệng rất lâu
những cục kẹo gừng cay thơm -
tôi quen với hương vị gừng có lẽ
từ độ ấy - hay nhâm nhi những
miếng kẹo đậu phụng béo ngọt của
mệ lén đưa cho, trong lúc tôi
chạy chơi ngoài sân. Lén vì mẹ
tôi không bằng lòng sợ tôi bị
‘siết răng’, còn ôn thì cấm
không cho ăn ngọt vặt sợ tôi bỏ
cơm.
Những sự lén lút đồng lõa ấy làm
tôi thấy thương yêu bà-nội của
tôi vô cùng.
*
Cuộc sống hiền hoà trôi êm với
những biến cố tự nhiên của nó.
Bên lề những đổi thay của đất
nước đã quen dần với sự có mặt
của ‘tụi Tây mạnh dễ sợ và quá
tài’ và mặc nhiên dần dà bị lôi
cuốn vào những lộn xộn của ‘tụi
nó’, ôn để cho tôi học chữ tây
nhưng không ngớt bắt tôi học chữ
nho để đừng quên phong cách nhà
nho. Đi học, ông tôi rất vui khi
thấy tôi cũng như chúng bạn cùng
trường mặc áo quần dài ta, đi
guốc. Những ngày nghỉ học và
riêng trong ba tháng hè, ôn để
tôi mặc ‘đồ tây’, nghĩa là quần
tây ngắn, áo sơ-mi cộc tay để đi
họp sói, họp hướng-đạo với thầy
Luận hay thầy Đơn.
Nhiều năm tháng trôi qua, không
hững hờ bi thương như trong tâm
tư của ôn nhưng mang vẻ lờ lững
mà vẫn đầy cẩn trọng như phong
thái của người sĩ phu thất thế.
Từ đứa bé bảy tuổi đến lúc đi
vào tuổi vị-thành-niên, tôi thơ
ngây hưởng cái êm đềm, an lành
của một không khí gia-đình tuy
bần bạch nhưng có thừa dịu hiền
và ưu ái. Tuy sẽ dần dần phải
trải qua những trăn trở do xã
hội đi vào sự đổi mới nhưng luôn
luôn có sự che chở tinh thần của
ôn.
Cuộc đời ấy sẽ xoay chiều hẳn
sau ngày ôn chết. Hôm ấy là một
ngày cuối năm, có cơn mưa giông
trái mùa, vào lúc vận nước đang
xoay chuyển thêm một lần nữa.
Năm 1944 ấy, cả hai người con
trai của ôn đều không có ý định
về Huế ăn Tết. Nhưng ôn chết êm
đềm sau một giấc ngủ bình
thường, không một lời trối trăn,
rất nhẹ nhàng, thanh thản, có lẽ
trong cái bình thản của một nho
sĩ yên lòng với mệnh trời. Tôi
buồn cho ôn đành mang theo ý
nguyện khắc khoải bảo trì nho
phong cho toàn họ Nguyễn chưa
đạt được trước mắt ôn.
Năm ấy tôi mười lăm tuổi. Tôi
thay mặt cha tôi giữ vai chủ lễ,
hàng trưởng nam trong đám táng.
Và, giữa một thời cuộc nhất
quyết đổi thay, tôi sẽ phải phụ
với cha tôi và chú tôi tiếp tục
giữ gìn giềng mối gia phong; tôi
cũng nguyện sẽ tiếp tục sống bên
cạnh bà-tôi và O-Em. Tâm tư của
một học sinh như tôi vào tuổi
ấy, thay vì chỉ thuần khiết dành
cho việc học, cho chuyện cười
vui với bạn bè, trái lại, lúc
nào cũng chĩu nặng với những kỷ
niệm lúc sống với ôn, với những
trách nhiệm tinh thần mà, một
cách thầm lặng, triền miên, ôn
đã ươm đắp tràn kín cả tâm hồn
tôi.
Chú giải: (1) Mệ = bà (nội
hoặc ngoại)
(2) O = cô
(3) Ôn = ông (nội hoặc ngoại) -
tiếng Huế đọc là ôôn, không nhấn
mạnh chữ n cuối
(4) Không là tướng giỏi, tất
nhiên là thầy thuốc hay;
(5) Năm tháng trôi qua nhàn nhã,
(để được) gặp gỡ khách mắt xanh
bốn bể
- Khách mắt xanh = bạn tri âm
tri kỷ
(6) Nghèo mà không hèn mọn, giàu
mà không đắc chí.