1. Ngu Thuấn
Vua Thuấn họ Diêu, tên hiệu là
Thuấn, quốc hiệu là Đại-Ngu, cha là
Cổ Tẩu, (có mắt cũng như mù, vì không
biết kẻ hay người dở, người
đời bấy giờ mới tặng cho tên là
Cổ Tẩu ), mẹ đẻ mất sớm,
mẹ kế là người ương gàn, em (cùng
cha khác mẹ) là Tượng tính lại hỗn xược,
cha và mẹ kế cùng em ngày ngày chỉ kiếm cách
để giết ngài đi; nhưng ngài vẫn
một lòng trên hiếu với cha mẹ, dưới
hòa cùng em, lòng hiếu cảm động đến
trời, như khi cha ngài bắt ngài cày ruộng
một mình ở núi Lịch-sơn, thì voi về cày
ruộng, chim về nhặt cỏ. Khi sai ngài dánh cá
ở hồ Lôi-trạch thì gió lặng sóng yên .Vua
Nghiêu nghe tiếng, gọi gả 2 con gái cho ngài và
truyền ngôi cho ngài. Khi ngài làm vua, trong 18 năm
chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam-phong mà thiên-hạ
rất thái-bình thịnh-trị.
|
Thơ
Đội đội canh điền tượng,
Phân phân vân thảo cầm.
Phụ Nghiêu đăng báo vị,
Hiếu cảm-động thiên-tâm.
Giải nghĩa đen
Hà ng đàn voi về cày ruộng,
Hà ng bầy chim đến nhặt cỏ
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Lòng hiếu-thảo động đến trời.
Dịch nôm
Voi về cày ruộng hàng bày,
Chim về nhặt cỏ hàng ngàn không ngơi.
Giúp vua Nghiêu, nối ngôi trời,
Cho hay hiếu cảm-động vời cao xanh.
Vua Văn-đế nhà Hán, tên là
Hằng, con thứ vua Hán Cao-tổ, em vua Huệ-đế,
mẹ là Bạc-hậu (vợ lẽ vua Hán
Cao-tổ), trước phong là Đại-vương,
tức là thân-vương ở đất Đại
bên ngoài, tính rất hiếu, sau Huệ-đế
chết không có con nối nghiệp, các quan trong
triều đón ngài về làm vua. Khi ngài đã làm
vua rồi, Bạc-hậu bị ốm trong 3 năm
trời, ngài lúc nào cũng đóng mũ-áo đai-cân
đứng hầu mẹ, thức suốt đêm không
dám ngủ, thuốc thang dâng đến, ngài tự
nếm trước rồi mới dâng cho mẹ xơi,
vì sợ có thuốc độc. Dân-gian thấy ngài
hiếu-thảo như thế, ai cũng bắt-chước,
mọi người đều hiếu-thảo
cả, thiên-hạ rất thịnh-trị, không kém
gì đời tam-đại (nhà Hạ, nhà Thương
và nhà Chu) ngày xưa.
|
Thơ
Nhân-hiếu lâm thiên-hạ,
Nguy nguy quán bách vương,
Hán-dình sự hiền-mẫu,
Thang được tất tiên thường.
Giải nghĩa đen
Lấy đạo nhân-hiếu dạy-bảo thiên-hạ,
Công cao hơn cả trăm vua khác,
Phụng-dưỡng mẹ hiền ở công-dình nhà Hán,
Thuốc-thang phải tự nếm trước.
Dịch nôm
Đem lòng nhân-hiếu dạy dân,
So trăm vua khác có phần lại hơn,
Khi hầu mẹ ốm thuốc-thang,
Tự mình nếm trước, dưới màn mới dâng
Tăng-Tử tên là Sâm, tự là Tử
Dư, người ấp Vũ-thành nước
Lỗ, sinh vào thời Xuân-thu, là học-trò vào
bậc giỏi của đức Khổng-Tử,
sau được liệt vào bậc tứ-phối
(bốn ông phối hưởng với đức
Khổng-tử). Ông thờ cha mẹ rất
hiếu, bữa ăn nào cũng có rượu
thịt. Khi cha mẹ ăn xong, còn thừa lại món
ăn, ông hỏi cha mẹ bảo để cho ai,
thì ông vâng theo lời mà cho người ấy.
Một hôm ông đi vào rừng kiếm củi
vắng, ở nhà có khách đến chơi, mẹ
ông không biết làm thế nào cho ông về ngay, bèn
cắn ngón tay mình, để cho động lòng
con, quả-nhiên ông ở trong rừng thấy
quặn đau trong dạ, ông vội gánh củi
về ngay |
Mẫu chỉ tài phương
khiết,
Nhi tâm thống bất căm,
Phụ tận quy vị vãn,
Cốt-nhục chí tình thâm.
Dịch Nghĩa:
Mẹ vừa cắn ngón tay,
Con thấy đau trong dạ,
Vội vàng đội củi về,
Tình cốt-nhục cảm-ứng chóng như
thế.
Dịch Thơ:
Mong con vừa cắn ngón tay,
Trong rừng con bỗng dạ này quặn đau.
Vội-vàng đội củi về mau,
Cho hay cốt-nhục tình sâu lạ nhường. |
Tên chữ là Tổn, sinh vào đời
Xuân-thu, học-trò đức Khổng-tử,
mẹ ông mất sớm, cha ông lấy người
vợ sau (tức là mẹ kế) sinh được
2 con. Mẹ kế đối với ông rất cay
nghiệt, nhưng ông vẫn thờ cha và thờ
mẹ kế rất hiếu . Mùa rét, mẹ kế
cho hai con mình mặc áo bông dày, cho ông mặc áo
bằng hoa lau, chứ không có bông. Ông tuy thấy không
đủ ấm, nhưng kgông hề nói gì. Một
hôm ông đẩy xe cho cha đi chơi, vì rét quá cóng
tay, rời tay xe ra. Cha ông suy-xét mãi mới biết
là ông bị mẹ kế để cho mặc rét,
cha ông tức lắm định đuổi ngay người
vợ kế đi, ông khóc và cố kêu van với
cha, xin đừng đuổi mẹ kế, vì
rằng: có mẹ kế thì chỉ một mình ông
bị rét thôi, nếu đuổi mẹ kế
đi thì cả ba anh em ông cùng phải
khổ-sở cả. Cha ông nghe lời ông không
bỏ người vợ kế nữa. Người
mẹ kế nghe biết chuyện, về sau đối-đãi
với ông rất tốt, thành ra một người
mẹ hiền.
|
Mẫn thị hữu
hiền lang,
Hà tằng óan vãn nương,
Đường tiền lưu mẫu tại,
Tam tử miễ phong sương.
Dịch Nghĩa:
Nhà họ Mẫn có người con hiền,
Không bao giờ oán-trách mẹ sau,
Trước mặt bố xin cho mẹ sau ở
lại,
Để ba con khỏi phải khổ sở.
Dịch Thơ:
Tử-Khiên hiếu-thảo tình sâu,
Không hề oán trách mẹ sau nồng-nàn.
Xin cha chớ dứt dây loan,
Cho con khỏi phải cơ-hàn cả ba. |
Tử Lộ tên là Trọng Do, người
ấp Biện, nước Lỗ, sinh vào đời
Xuân-thu, là học-trò đức Khổng-tử.
Thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, thường
phải đi đội gạo đường xa
trăm dặm về nuôi cha mẹ; bữa ăn không
có thức ăn, phải ra vườn hái rau
dền rau muống về nấu canh cho cha mẹ
ăn. Sau cha mẹ ông chết cả, ông mới
đi sang nước Sở, được vua nước
Sở dùng, cho làm quan sang, bổng-lộc nhiều.
Nghĩ đến công cha mẹ, ông lấy làm
đau tủi, muốn lại được đi
đội gạo và nấu canh rau để
phụng-dưỡng cha mẹ, thì không được
nữa.
|
Phụ mễ cung cam
chỉ,
Ninh từ bách lý lao,
Thân hoàn thân dĩ một,
Do niệm cựu cù-lao.
Dịch Nghĩa:
Đội gạo để cung-cấp cha mẹ
miếng ngọt miếng bùi,
Không nề-hà đường xa trăm dặm,
Đến lúc được sung-sướng thì
cha mẹ chết rồi,
Vẫn nhớ đến công khó nhọc của cha
mẹ.
Dịch Thơ:
Dốc lòng phụng-dưỡng mẹ cha,
Đường đi đội gạo dù xa cũng
gần.
Đến khi nhẹ bước thanh-vân,
Muốn mong báo-đáp, hai thân đâu còn ? |
Diễm tử sinh vào đời nhà Chu,
thờ cha mẹ rất hiếu; cha mẹ tuổi
già, mắt lòa, thèm uống sữa hươu,
Diễm tử lấy da hươu khô là áo
mặc, giả làm hươu con, vào rừng lân-la
đến gần những con hươu mẹ
để vắt lấy sữa. Một hôm gặp
bọn người đi săn, tưởng là hươu
con, dương cung toan bắn, Diễm tử
vội bỏ lốt hươu con ra và bày-tỏ
cho người đi săn biết, người
ấy mới thôi không bắn nữa. |
Thân lão tư lộc nhũ,
Thân phi lộc bì y,
Nhược bất cao thanh ngữ,
Sơn trung đới tiến quy.
Dịch Nghĩa:
Cha mẹ già thèm uống sữa hươu,
Mình mặc áo da hươu,
Nếu không vội kêu to lên,
Thì bị trúng phải tên bắn ở trong núi.
Dịch Thơ:
Sữa hươu tuổi-tác ước-ao,
Da hươu đội lốt lần vào rừng
xanh.
Gặp người nếu chẳng kêu nhanh,
Ắt là gặp sự chẳng lành xảy ra. |
Lão Lai-tử người nước
Sở, sinh vào đời Xuân-thu, đã 70 tuổi hãy
còn cha mẹ. Ông thờ cha mẹ rất hiếu.
Không muốn để cho cha mẹ thấy ông
đã già mà lo-buồn, ông thường mặc áo
sặc-sỡ, nhởn-nhơ múa hát trước
mặt cha mẹ, lại có khi ông bưng nước
hầu cha mẹ, ông giả cách ngã, rồi khóc oa
oa, làm như đứa trẻ lên 7 lên 3 vậy. Ý
ông là cốt để làm cho cha mẹ lúc nào cũng
vui-vẻ trong lòng.
|
Hý vũ học kiều sy,
Xuân phong động thái y,
Song thân khai khẩu tiếu,
Hỷ sắc mã đình-vi.
Dịch Nghĩa:
Chơi đùa như thể trẻ em,
Gió xuân lay động áo hoa sặc-sỡ,
Hai cha mẹ cùng mở miệng cười,
Cảnh vui đầy cả cửa nhà.
Dịch Thơ:
Chơi đùa học lối trẻ-thơ,
Thấp cao điệu múa, phất-phơ áo mùi,
Hai thân cùng nở nụ cười
Gió xuân đầm-ấm, cảnh vui đầy nhà. |
Đổng Vĩnh sinh vào đời
Hậu-Hán, nhà nghèo, tính rất hiếu, cha
chết không có tiền chôn cất, phải đến
một nhà giàu ở làng khác, vay tiền công
dệt non, hẹn sau sẽ dệt trả 300
tấm lụa. Khi vay được tiền về
chôn cất cha xong rồi, định đi đến
nhà giàu để dệt trả lụa, đi
được nửa đường, thì gặp
một người con gái xin kết làm vợ
chồng, nhưng giao hẹn hãy cùng đi đến
nhà giàu kia dệt lụa trả nợ đã,
rồi mới về ăn-ở cùng nhau. Khi đã
dệt đủ 300 tấm lụa, trả nợ
xong rồi, hai người cùng về, đến
chỗ gặp nhau khi trước, thì người
con gái ấy biến mất . Vì Đổng Vĩnh
có lòng hiếu-thảo cảm động đến
trời. nên Trời sai tiên-nữ xuống giúp. |
Táng phụ thải
khổng phương,
Tiên-cô lộ thượng phùng,
Chức khiêm thường trái chủ,
Hiếu cảm-động phương-khung.
Dịch Nghĩa:
Vay tiền để chôn cất cha,
Giữa đường gặp nàng tiên,
Dệt lụa trả chủ nợ,
Lòng hiếu cảm-động đến trời.
Dịch Thơ:
Vay tiền lo-liệu tang cha,
Giũa đường gặp ả tiên-nga giúp cùng,
Dệt lụa đủ, trả nợ xong,
Cho hay hiếu-thảo động lòng trời xanh. |
Quách Cự sinh vào đời nhà Hán,
cửa nhà sa-sút, thờ mẹ rất hiếu. Hai
vợ chồng mới sinh được một
đứa con lên 3 tuổi, ông thường
thấy bữa ăn mẹ ông không dám ăn no,
cứ bớt lại để phần cho con mình
ăn, vợ chồng bàn nhau rằng : vợ
chồng mình đương-thì sinh-đẻ,
mẹ già chỉ có một lần, đã chẳng
phụng-dưỡng mẹ được sung-túc,
lại để cho con mình xẻ ngọt chia bùi
của mẹ, thì không phải đạo. Bèn bàn
nhau đào hố đem chôn đứa con đi;
vợ cũng nghe theo lời ông. Khi đào hố
mới được đâu độ 3 thước,
thì thấy có một hũ vàng, trên có chữ
đề là; "hiếu-tử Quách Cự, hoàng
kim nhất hũ, dụng dĩ tứ nhữ "
Nghia là; "người con hiếu là Quách Cự,
một hũ vàng đây để cho mày ". Hai
vợ chồng lại đem con về.
|
Quách Cự tư cung
cấp,
Mai nhi nguyện mẫu tồn.
Hoàng kim thiên sở tứ,
Quang thái chiếu hàn-môn.
Dịch Nghĩa:
Quách Cự chỉ nghĩ việc phụng-dưỡng
mẹ,
Chôn con đi mong cho mẹ sống,
Trời cho được hũ vàng.
Đương nghèo được nên giàu có.
Dịch Thơ:
Nhà nghèo hiếu-thảo dốc lòng,
Chôn con nuôi mẹ vợ chồng bàn nhau.
Hũ vàng dành dưới hố sâu,
Trời cho phút chốc nên giàu lạ thay. |
Khương Thi sinh vào đời nhà Hán,
vợ là Bàng-thị; hai vợ chồng đều
hiếu-thảo cả. Mẹ chồng muốn
uống nước sông, Bàng thị hàng ngày đi
gánh nước ở sông xa về. Trời rét,
mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ
chồng cố đi tìm kiếm cho được
đủ thứ đem về. Lại sợ mẹ
có một mình buồn, thường thường
mời các bà già ở hàng xóm sang chơi với
mẹ cho vui. Sau tự nhiên ở bên cạnh nhà có
suối nước ngọt chảy ra, đúng như
vị nước sông và ở suối ấy hàng
ngày lại có hai con cá chép, đủ dùng là
gỏi ghém. Từ đấy vợ chồng không
phải đi quảy nước sông và đi
kiếm cá nữa. |
Á trắc cam-tuyền
xuất,
Thất triêu song lý-ngư,
Tử năng tri sự mẫu,
Phụ cánh hiếu ư cô.
Dịch Thơ:
Bên nhà có suối nước ngọt chảy ra,
Mỗi ngày có hai con cá chép,
Con trai đã biết đạo thờ mẹ,
Nàng dâu lại hiếu với mẹ chồng.
Dịch Thơ:
Bỗng đâu suối chảy bên nhà,
Ngày đôi cá chép nhảy ra lệ thường.
Chồng mà lấy hiếu làm cương,
Ắt là vợ phải noi gương theo chồng. |
Thái-Thuận sinh vào đời nhà Hán,
nhà nghèo, mồ côi cha từ thuở bé, thờ
mẹ rất có hiếu. Bị năm loạn
lạc kém đói, phải đi vào rừng tìm
kiếm những quả dâu chín đem về ăn
cho đỡ đói. Tìm được quả nào
chín đem để ra một bên. Gặp người
tướng giặc Xích-my đi qua, trông thấy
hỏi: "Vì cớ gì để làm hai nơi như
thế ?" Ông trả lời: "Quả nào chín
đen thì ngọt, để riêng để
biếu mẹ tôi, còn quả nào đỏ thì chua,
để riêng tôi ăn." Người tướng
giặc khen là có hiếu, bèn truyền quân lấy
ra một thúng gạo và một cái đùi trâu
để tặng ông.
|
Hắc thầm phụng huyên
vy,
Đề cơ lệ mãn y,
Xích-My tri hiếu thuận,
Đẩu mễ tặng quân quy.
Dịch Nghĩa:
Quả dâu chín đen để biếu mẹ,
Bụng đói nước mắt chảy thấm
cả áo.
Giặc Xích-my biết là người có hiếu,
Tặng cho thúng gạo mang về.
Dịch Thơ:
Quả dâu đen, dành mẹ xơi,
Lòng cam chịu đói, lệ rơi thấm bào,
Xích-my giặc ấy cũng hào,
Tặng cho gạo trắng một bao đem về. |
Đinh Lan sinh vào đời nhà Hán,
mồ côi cha mẹ từ lúc bé, đến khi
lớn lên, nhớ ơn cha mẹ thuê thợ
tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để
phụng-thờ, ngày thì dâng hai bữa cơm,
tối thì sửa-soạn chăn-gối,
hầu-hạ chăm nom như lúc cha mẹ còn
sống vậy. Phụng-thờ như thế
hằng mấy mươi năm, sau người
vợ ông sinh ra nản lòng, có một hôm người
vợ lấy kim châm vào kẽ tay tượng
gỗ, tức thì có máu tươi chảy ra. Đến
bữa cơm, ông bưng cơm vào cúng, thấy tượng
gỗ rớm-rớm nước mắt, ông xét
kỹ mới biết là vì vợ ông châm kim vào tay
tượng gỗ, ông tức thì đuổi
bỏ ngay người vợ ấy đi.
|
Khắc mộc vi phụ
mẫu,
Hình dưng tại nhật thần,
Ký ngôn chư tứ điệt,
Các yếu hiếu song thân.
Dịch Nghĩa:
Tạc gỗ làm tượng cha mẹ,
Thờ-phượng giống như lúc còn sống.
Nhắn bảo các con cháu,
Ai ai cũng nên hiếu với cha mẹ cả.
Dịch Thơ:
Tạc hình cha mẹ như y,
Đem ngày thờ-phụng tựa khi sinh thời,
Nhắn khuyên con trẻ mấy lời,
Làm con phải hiếu, ai ơi ghi lòng. |
Lục Tích sinh vào đời Đông-Hán,
mới lên 6 tuổi, đã biết
hiếu-thảo. Có một hôm theo cha sang quận
Cửu-giang với Viên Thuật; Thuật làm
tiệc thết đãi. Tích thấy trong tiệc có
quít ngon, bèn lấy giấu 2 quả bỏ vào tay áo,
khi ra về cúi chào Viên Thuật không may quít ở
trong tay áo rơi ra, Thuật nói đùa: "Sao
lấy quít giấu như thế ? Tích trả
lời: "Vì mẹ tôi thích ăn quít, nhân
thấy quít ngon, giấu đi vài quả đem
về biếu mẹ tôi". Thuật khen là người
có hiếu |
Hiếu đễ giai thiên
tính,
Nhân-gian lục tuế nhi,
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.
Dịch Nghĩa:
Lòng hiếu đễ do trời phú tính cho,
Đứa trẻ con lên 6 tuổi trong thế gian này,
Giấu quít vào trong tay áo,
Đem về biếu mẹ cũng đáng lấy làm
lạ.
Dịch Thơ:
Cho hay phú giữ thiên chân,
Lên sáu tuổi, biết hiếu thân mới kỳ,
Quít ngon mấy quả giấu đi,
Đem về biếu mẹ, những thì ước-ao. |
Giang Cách sinh vào đời nhà Hán,
mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất
hiếu, nhà nghèo, gặp buổi loạn-lạc, cõng
mẹ đi lánh nạn, giữa đường
gặp bọn giặc toan bắt ông đi, Ông khóc
van với giặc nói là ông còn mẹ già, chỉ có
2 mẹ con nương-tựa nhau, nay bị bắt
đi, thì không có ai nuôi mẹ già. Bọn giặc
nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi
nữa, Ông cõng mẹ chạy về Hạ-bì,
rồi ông cố sức làm thuê làm mướn, cũng
nuôi mẹ được no đủ qua cơn
loạn-lạc.
|
Phụ mẫu đào nguy
gian,
Trung đồ tặc phạm tần,
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.
Dịch Nghĩa:
Cõng mẹ đi tránh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn
luôn,
Kêu van đều được tha,
Cố sức làm thuê để nuôi mẹ.
Dịch Thơ:
Tránh nàn cõng mẹ gian-truân,
Giũa đường gặp giặc toan phần
bắt đi,
Giãi tình van lạy nằn-nì,
Thoát vòng loạn-lạc, tới khi yên-lành. |
Hoàng Hương sinh vào đời Đông-Hán,
năm lên chín tuổi mẹ chết, thương
khóc thảm-thiết, trong làng ai cũng khen là người
có hiếu. Ở với cha, sớm khuya
hầu-hạ, không lúc nào rời, mùa đông thì
nằm ủ vào chăn-chiếu của cha để
lấy hơi nóng của mình vào chăn-chiếu
cho cha khỏi lạnh, mùa hè thì lấy quạt
quạt màn gối của cha cho hết hơi nóng,
vì thế cha lúc nào cũng được
vui-vẻ, quanh năm không biết có mùa đông mùa
hè. Quan thái-thú quận ấy thấy Hương là
người hiếu-thảo, làm sớ tâu lên vua Hán
ban cho Hương tấm biển chữ vàng là người
con hiếu-hạnh.
|
Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương,
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương.
Dịch Nghĩa:
Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối,
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Nghìn xưa chỉ có một Hoàng Hương mà thôi.
Dịch Thơ:
Đông thì ủ ấm chiếu-chăn,
Hè thì quạt mát mọi phần nồng-oi,
Trẻ thơ đã biết hiếu rồi,
Nghìn thu chỉ có một người không hai. |
Vương Thôi người nước
Ngụy (đời Tam-quốc) cha ông làm quan
triều Ngụy, sau Tây-Tấn diệt Ngụy,
thống nhất thiên-hạ, cha ông bị Tây-Tấn
giết hại, ông thương xót quá, phục
ở bên mộ mà khóc mãi, đến nỗi nước
mắt của ông chảy ra thấm xuống
gốc cây trắc bên mồ tươi lại.
Cả đời ông không bao giờ ngồi
ngảnh mặt về hướng tây (vì Tây-Tấn
ở về phương tây ), để tỏ ý ông
không làm tôi nhà Tây-Tấn. Mẹ ông lúc sinh
thời hay sợ sấm, nên khi mẹ ông chết
rồi, hễ khi nào mưa có sấm, ông lại ra
áp mồ và khấn rằng: " có con ở đây
rồi", để cho vong hồn mẹ khỏi
sợ. Ông là người tài giỏi, vua nhà Tây-Tấn
thường mời ra làm quan, ông nhất định
không chịu ra, ở nhà mở trường
dạy học, mỗi khi ông giảng sách cho
học-trò, đến thiên Lục-nga trong Kinh Thi có
câu rằng : phụ hề sinh ngã thì ông lại thương
cha chảy nước mắt khóc. Vì thế,
học-trò cũng cảm-động, bỏ thiên
Lục-Nga không dám đọc đến nữa.
|
Từ mẫu phạ văn
lôi,
Băng hồn túc dạ đài,
Át hương thời nhất chấn,
Đáo mộ nhiễu thiên hồi,
Dịch Nghĩa:
Mẹ hiền sợ nghe sấm
Hồn thơm nằm dưới suối vàng,
Khi thấy có tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ di quanh nghìn lần.
Dịch Thơ:
Mẹ xưa tính sợ sấm vang,
Hồn thơm ở dưuới suối vàng
những lo.
Mỗi khi mưa gió sấm to,
Thân ra ấp mộ quanh-co nghìn vàng. |
Ngô Mãnh sinh vào đời nhà Tấn, lên
8 tuổi, thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo,
mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, ông
sợ cha mẹ bị muỗi đốt không
ngủ được, ông cởi trần nằm
cho muỗi đốt, không dám xua, sợ rằng
nếu mình xua đi thì muỗi lại đến
đốt cha mẹ chăng ?
|
Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy,
Tứ cừ bão cao huyết,
Miễn sử nhập thân vi.
Dịch Nghĩa:
Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua,
Cho nó đốt no máu của mình,
Để nó khỏi đến chỗ cha mẹ
nằm.
Dịch Thơ:
Đêm hè lắm muỗi không màn,
Tha hồ muỗi đến hàng đàn vo ve,
Trần mình cho muỗi no-nê,
Hai thân được ổn giấc hòe là hơn. |
Vương Tường sinh vào đời
nhà Tấn, mẹ chết sớm, ở với cha,
bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xúi-giục,
làm cho cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn
dốc lòng hiếu-thảo với cha và mẹ
kế. Mùa đông nước đóng váng, mẹ
kế muốn ăn cá tươi, ông cởi
trần nằm trên váng nước, để tìm cá,
bỗng tự nhiên váng nước nứt đôi
ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông đem về cho
mẹ kế xơi. Thấy ông hiếu-thảo như
thế, sau cha và mẹ kế ông cảm-động,
lại yêu-quý ông lắm.
|
Kế mẫu nhân-gian
hữu
Vương Tường thiên-hạ vô,
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô.
Dịch Nghĩa:
Mẹ kế thì nhân-gian thường có.
Hiếu như Vương Tường thì thiên-hạ
không có ai,
Đến bây giờ ở trên sông
Chả có ai nằm trần mình trên váng nước
cả.
Dịch Thơ:
Nhân-gian mẹ kế là thường,
Lòng con hiếu tựa Vương Tường có
đâu !
Gẫm xem từ đấy về sau,
Nằm trên váng nước sâu mấy người. |
Dương Hương sinh vào đời
nhà Tấn, mới 14 tuổi, tính rất hiếu,
cha đi đâu cũng theo đi hầu. Có một
hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường
xa, giữa đường gặp con hổ nhảy
sổ đến định vồ cha ông, ông tay không,
quyết xông vào dánh nhau với hổ, hổ
phải bỏ chạy, cha con đều được
vô sự cả |
Thâm sơn phùng bạch
ngạch,
Nỗ lực bác tinh phong,
Phụ tử câu vô dang,
Thoát ly hổ khẩu trung.
Dịch Nghĩa:
Chốn rừng sâu gặp con hổ trắng má,
Cố sức đánh đuổi giống hôi-tanh,
Cha con đều vô sự cả,
Khỏi được tai-nạn bị hổ ăn
thịt.
Dịch Thơ:
Giữa rừng gặp cọp tay không,
Dù rằng thú dữ quyết xông đánh liền,
Cha con đều được bình-yên,
Miệng hầm đã thoát đoàn viên cùng về |
Mạnh Tông người ở
Giang-hạ, về đời Tam-quốc, mồ côi
cha, ở với mẹ, tính rất hiếu. Một
hôm mẹ bị ốm, thèm ăn canh măng, nhưng
vì khi ấy đương mùa đông, khó tìm
được măng, ông lần vào rừng tre,
một mình ngồi khóc, bỗng chốc có mấy
giò măng mọc ở dưới đất lên,
ông đem về nấu canh cho mẹ xơi, rồi
mẹ khỏi ốm.
|
Lệ khấp sóc phong hàn,
Tiêu tiêu trúc sổ can,
Tu du đông duẩn xuất,
Thiên ý báo bình an,
Dịch Nghĩa:
Ngồi khóc trong khi gió bấc rét nặng.
Lèo tèo có mấy cây tre,
Phút chốc măng mùa đông mọc ra.
Ý trời cho mẹ được khỏi bệnh.
Dịch Thơ:
Mùa đông gió bấc lạnh lùng,
Một mình sùi-sụt trong vùng rừng tre,
Bỗng đâu măng mọc đem về,
Mẹ xơi, bệnh đã mọi bề tiêu-tan. |
Kim Lâu người nước Tề, tính
rất hiếu, được bổ làm thái-thú
ở quận Bình-lăng, đến nhận
chức chưa dược 10 hôm, bỗng tự nhiên
thấy tâm thần bàng-hoàng, mồ hôi chảy ra
như tắm, ông biết là ở nhà có việc
chẳng lành, bèn từ chức về quê; khi
về đến nhà thì cha bị ốm đã 2 ngày,
ông thấy thầy thuốc nói rằng:
"những người ốm mà phân đắng
thì dễ chữa, không đáng lo ngại. Ông
lấy làm lo-ngại, cứ đêm đêm 3 lần
đốt hương hướng về sao
Bắc-đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha.
Sau nằm thấy có người cầm một
thẻ vàng có mấy chữ: "sắc trời
cho bình-an". Ngày hôm sau cha ông được qua
khỏi |
Đào huyện vị
tuần nhật,
Xuân-đình tao tật thâm,
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm.
Dịch Nghĩa:
Làm quan đến nhậm chức chưa được
10 ngày,
Cha ở nhà bị đau nặng.
Xin lấy mình chết thay cho cha,
Nếm phân sinh lòng lo-ngại.
Dịch Thơ:
Tới huyện nha, chưa bao lâu,
Xuân-đường thoát bị bệnh đau
ở nhà,
Khấn trời xin chết thay cha,
Nếm phân thấy ngọt biết là bệnh nguy |
Đường-thị là vợ một
nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất
hiếu, mẹ chồng tuổi già răng móm, không
nhai được cơm. Đường-thị
cứ hàng ngày tắm-rửa sạch-sẽ,
rồi đến cho mẹ chồng bú; hằng
mấy năm mẹ chồng không phải ăn cơm
mà cũng no. Cảm ơn ấy mẹ chồng không
biết lấy gì đáp lại, khi mẹ chồng
sắp chết, có khấn nguyện với trời
xin cho con cháu dâu nhà họ Thôi ngày sau, ai ai cũng
được hiếu-thảo như Đường-thị
cả. Rồi sau các con-cháu dâu nhà họ Thôi
bắt chước nhau người nào cũng
hiếu-thuận. Vì thế, nhà họ Thôi
được hưng-thịnh.
|
Hiếu báo Thôi gia phụ,
Nhũ cơ thân quán sơ,
Thử ân vô dĩ báo,
Nguyện đắc tử tôn như.
Dịch Nghĩa:
Vợ họ Thôi ở có hiếu với mẹ
chồng.
Hành ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú,
Ơn ấy mẹ chồng không lấy gì báo
lại,
Khấn trời mong cho con cháu dâu của Đường-thị
lại hiếu-thảo với Đường-thị.
Dịch Thơ:
Dâu họ Thôi hiếu-thảo thay,
Cho mẹ chồng bú, hằng ngày tắm lau,
Giả ơn khấn nghuyện về sau,
Dâu nào cũng hiếu như dâu họ Đường. |
Chu Thọ Xương sinh vào đời
nhà họ Tống, ông là con vợ thứ, năm ông
lên 7 tuổi, thì mẹ đích ông đuổi
mẹ ông đi, sau ông được làm quan, nghĩ
đến công mẹ đẻ khó nhọc, nay mình
được sung-sướng,
để mẹ đẻ lưu-lạc trong lòng không
đang. Ông quyết từ quan đi tìm mẹ đẻ.
Trước khi đi, ông có thề rằng:
"nếu không tìm thấy mẹ, thì chết cũng
đành". Sau ngẫu nhiên đi đến Đồng-châu
thì mẹ con gặp nhau. Mẹ con xa cách nhau đã
50 năm nay lại được gặp nhau,
rất là vui-vẻ, ông bèn đem mẹ về
phụng-dưỡng.
|
Thất tuế sinh ly
mẫu,
Sâm Thương ngũ thập niên,
Nhất triêu tương kiến diện,
Hỷ khí động Hoàng Thiên.
Dịch Nghĩa:
Lên 7 tuổi bị lìa xa mẹ đẻ,
Như sao hôm sao mai đã 50 năm trời,
Một sớm được thấy mặt nhau,
Vui-mừng cảm-động đến trời.
Dịch Thơ:
Mẹ con chia rẽ đôi nơi,
Sâm Thương xa cách năm-mươi năm tròn,
Bỗng đâu mẹ lại gặp con,
Mừng này ai biết hãy còn hôm nay. |
Hoàng Đình Kiên sinh vào đời nhà
Đường, làm quan đến chức Thái-sử
(quan coi việc chép sử) thờ cha mẹ rất
hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy-tớ
hầu-hạ nhưng các đồ của cha
mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù
dơ-bẩn đến đâu, ông cũng tự
tay rửa lấy, không sai người nhà lau
rửa bao giờ cả.
|
Quý hiển văn thiên-hạ,
Bình sinh hiếu sự thân,
Thân thân địch niệu khí,
Bất dụng hoán gia-nhân.
Dịch Nghĩa:
Giàu-sang thiên-hạ ai cũng biết tiếng,
Ngày thường thờ cha mẹ rất hiếu,
Chính tay mình rửa đồ để đại
tiểu tiện của cha mẹ,
Không sai người nhà làm việc ấy bao
giờ cả.
Dịch Thơ:
Dù mình chức trọng quyền cao,
Tấm lòng hiếu-thảo khi nào dám sai,
Đồ thân dùng dẫu bẩn hôi,
Tay rửa lấy, chẳng sai ai bao giờ. |
 
|