Lục Vân Tiên

Nguyễn Đ́nh Chiểu (1822 - 1888)

 

 

Câu 1200 - 1399.

Dứt t́nh họ Lục, mến t́nh họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng
Thể Loan hớn hở ḷng càng thêm vui
Ngày ngày trang điểm phấn giồi
Pḥng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê


Xẩy đâu Tử Trực vừa về
Vào nhà họ Vơ thăm bề Vân Tiên
Công rằng: Chớ hỏi thêm phiền
Trước đà lâm bệnh huỳnh tuyền xa chơi 
Thương chàng phận bạc ở đời

Cũng v́ Nguyệt Lăo xe lơi mối hồng
Nghe qua Tử Trực chạnh ḷng
Hai hàng nước mắt ṛng ṛng như mưa
Than rằng: Chạnh nhớ linh xưa
Nghĩa đà kết nghĩa, t́nh chưa phỉ t́nh

Trời sao nỡ phụ tài lành
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đă ṃn
Cùng nhau chưa đặng vuông tṛn
Người đà sớm thác ta c̣n làm chi
Trong đời mấy bậc cố tri

Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm
Công rằng: Lăo cũng thương thầm
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang
Thôi thôi khuyên chớ thở than
Lăo đà tính đặng một đàng rất hay


Tới đây th́ ở lại đây
Cùng con gái lăo sum vầy thất gia
Pḥng khi hôm sớm vào ra
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên
Trực rằng: Ng̣i viết đĩa nghiên

1230.Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau
Vợ Tiên là Trực chị dâu
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi ngh́
Chẳng hay người học sách chi
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe

Hay là học thói nước Tề
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công
Hay là học thói Đường cung
Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân
Người nay nào phải người Tần

Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm
Nói sao chẳng biết hổ thầm
Người ta há phải là cầm thú sao
Vơ công hổ thẹn biết bao
Ngồi trân khôn căi lẽ nào cho qua


Thể Loan trong trướng bước ra
Miệng cháo: Thày Cử tân khoa mới về
Thiếp đà chẳng trọn lời thề
Lỡ bề sửa tráp lỗi bề nâng khăn
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng

Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy
Chẳng ưng th́ cũng làm khuây
Nỡ buông lời nói chẳng v́, chẳng kiêng
Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên
Ḥng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi

Mồ chồng ngọn cỏ c̣n tươi
Ḷng nào mà lỡ buông lời nguyệt hoa
Hổ hang vậy cũng người ta
So loài cầm thú vậy mà khác chi
Vân Tiên anh hỡi cố tri

Suối vàng có biết sự ni chăng là
Tay lau nước mắt trở ra
Về nhà sắm sửa t́m qua Đông thành
Vơ công hổ thẹn trong ḿnh
Năm ngày nhuốm bệnh thất t́nh chết oan


Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà
Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga
Hà khê phủ ấy theo cha học hành
Kiều công lên chức Thái khanh

Chỉ sai ra quận Đông thành chăn dân
Ra tờ khắp hết xa gần
Hỏi thăm họ Lục t́m lần đến nơi
Khiến quân đem bức thư mời
Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền

Kiều công hỏi truyện Vân Tiên
Lục ông nhớ đến bỗng liền khóc than
Thưa rằng: Nghe tiếng đồn vang
Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây
Biệt tin từ ấy nhẫn nay

Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang
Kiều công trong dạ bàng hoàng
Trở vào thuật lại cùng nàng Nguyệt Nga
Lục ông người nói cùng cha
Duyên con rày đă trôi hoa dạt bào


Riêng than chút phận tơ điều
Hán giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi
Nàng rằng quả thiệt như lời
Xin cha sai kẻ mời người vào trong
Nguyệt Nga đứng dựa bên pḥng

Tay ôm bức tượng khóc ṛng như mưa
Công rằng: Nào bức tượng xưa
Nguyệt Nga con khá đem đưa người nh́n
Lục ông một buổi ngồi nh́n
Tay chân mặt mũi giống y con ḿnh

Nguyệt Nga lạy gửi phân minh
Lục ông khi ấy sự t́nh mới hay
Thương con phận bạc lắm thay
Nguyền xưa c̣n đó, con rày đi đâu
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu

Lục ông thấy vậy càng đau gan vàng
Kiếm lời khuyên giải với nàng
Giải cơn phiền năo kẻo mang lấy sầu
Người đời như bóng phù du
Sớm c̣n tối mất công phu lỡ làng


Cũng như đống tịch đồng sàng
Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà
Cũng như cửa sổ ngựa qua
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền
Nàng rằng: Trước đă trọn nguyền

Dẫu thay mái tóc phải nh́n mối tơ
Công rằng: Ơn trước ngăi xưa
Liền đem vàng bạc tạ đưa cho người
Lục ông cáo tạ xin lui
Tôi đâu dám chịu của người làm chi

Ngỡ là con trẻ mất đi
Hay đâu cốt cách c̣n ghi tượng này
Bây giờ con lại thấy đây
Tấm ḷng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
Ngửa than: Đất rộng trời cao

Tre c̣n măng mất, lẽ nào cho cân
Lục ông tạ từ lui chân
Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang
Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than
Năm canh lụy ngọc, xốn xang ḷng vàng


Nhớ khi thề thốt giữa đàng
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu
Công đà chờ đợi bấy lâu
Thà không cho gặp buổi đầu th́ thôi
Biết nhau chưa đặng mấy hồi

Kẻ c̣n người mất trời ơi là trời
Thề xưa tạc dạ ghi lời
Thương người quân tử biết đời nào phai
Tiếc thay một bậc anh tài
Nghề văn, nghệp vơ nào ai dám b́

Thương v́ đèn sách ḷng ghi
Uổng công nào thấy tiếng là ǵ đâu
Thương v́ hai tám trên đầu
Người đời như bóng phù du lỡ làng
Thương v́ chưa đặng hiển vang

Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh
Thương v́ đôi lứa chẳng thành
Vùa hương, bát nước ai dành ngày sau
Năm canh chẳng ngớt giọt châu
Mặt nh́n bức tượng ruột đau như dần


Dương gian nay chẳng đặng gần
Âm cung biết có thành thân chăng là
Kiều công thức dậy bước ra
Nghe con than khóc, xót xa ḷng vàng
Khuyên rằng: Con chớ cưu mang

Gẫm trong c̣n mất là đường xưa nay
Đàn cầm ai nỡ dứt dây
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường
Nàng rằng: Khôn xiết nỗi thương
Khi không gẫy gánh giữa đường chẳng hay

1Nay đà loan phụng rẽ bầy
Nêm nghiêng, gối chính phận này đă cam
Trăm năm thề chẳng ḷng phàm
Sông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước người
Thân con c̣n đứng giữa trời

Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi
Kiều công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả, ngôi cao
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong


Nghe đồn con gái Kiều công
Tuổi vừa hai tám, tơ hồng chưa xăng
Thái sư dùng lễ vật sang
Mượn người mai chước kết đàng sui gia
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga

Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư
Thái sư chẳng biết rộng suy
Đem điều oán giận sớm ghi vào ḷng
Xẩy đâu giặc mọi làm hung
Ô-qua quốc hiệu, binh nhung dấy loàn

Đánh vào tới cửa Đồng-Quan
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần
Sao cho vững nước an dân
Các quan ai biết mưu thần bày ra
Thái sư sẵn có cừu nhà

Vội vàng quỳ gối tâu qua ngai vàng
Thuở xưa giặc mọi dấy loàn
Cũng v́ tham sắc phá tàn Trung Hoa
Muốn cho an giặc Ô-qua
Đưa con gái tốt giao ḥa th́ xong


.Nguyệt Nga là gái Kiều công
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh
Nàng đă sắc khuynh thành
Lại thêm rất bậc tài t́nh hào hoa
Đưa nàng về nước Ô-qua

Phiên vương ưng dạ ắt là băi binh
Sở vương nghe tấu thuận t́nh
Châu phê khiến sứ ra dinh Đông-thành
Sắc phong Kiều Lăo Thái Khanh
Việc trong nhà nước, trẫm đành cậy ngươi

Nguyệt Nga nàng ấy nên người
Lựa ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ
Kiều công vâng lệnh nhà vua
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào
Nguyệt Nga trong dạ như bào

Chú thích:


1.Huỳnh tuyền (hoàng tuyền): suối vàng, cơi chết. Nói Vân Tiên đă bị bệnh chết rồi

2.Xe lơi: xe lỡ, xe dở dang.

3.Linh: tiếng dùng để chỉ người đă chết rồi.

4.Đồng đạo: cùng theo một đạo lư. Đồng tâm: cùng chung một ḷng .

5.Thất gia: nhà cửa (như nói gia đ́nh), tức vợ chồng

6.Ng̣i viết, đĩa nghiên: bút nghiên, h́nh tượng này được dùng để chỉ t́nh bằng hữu thân thiết trong việc học hành.

7.Vợ Tiên là Trực chị dâu: Trực chị dâu tức là chị dâu Trực, tác giả theo cú pháp chữ Hán. Người Trung-quốc thường coi người bạn thân hơn tuổi như anh ruột, và coi vợ bạn như chị dâu.

8.Tử Củ: con Hi Công nước Tề. Hi Công chết anh Tử Củ là Tương Công lên kế ngôi, chính sự rối nát, bị bầy tôi là Vô Tri giết chết. Khi ấy Tử Củ chạy sang nước Lỗ, em là Tiểu Bạch chạy sang nước Cử. Sau Tiểu Bạch về nước trước, lên làm vua (tức là Hoàn công) sai người nói với vua Lỗ giắt Tử Củ và lại lấy vợ Tử Củ.

9.Đường cung: cung nha Đường (618-907)

10.Thế Dân: Lư Thắ Dân, tức Đường Thái Tông. Thế Dân giết em là Tiểu Lạc và lấy vợ em. Tích này trong Đường sử chép lại là Nguyên Cát, đây nói là Tiểu Lạc, có lẽ sai .

11.Bất Vi: Lă Bất Vi, người nước Tần, một lái buôn giàu có và xảo quyệt. Khi Bất Vi đến nước Triệu, thấy cháu vua Tần là Dị Nhân đang làm con tin ở đó, y nói: "Người này là món hàng quí có thể tích trữ đầu cơ được" (Kỳ hóa khả cư), rồi y mưu mô cho Dị Nhân được về nước lên kế ngôi làm vua, và y làm Tể Tướng. Bất Vi c̣n lấy một người thiếp rất đẹp, khi có thai, đem gán cho Dị Nhân, ít lâu sau sinh được người con trai, Dị Nhân vẫn tưởng là con ḿnh, nên được kế ngôi, tức Tần Thủy Hoàng . Sau Bất Vi v́ thông tinh với thái hậu (mẹ Thủy Hoàng, tức người thiếp của y trước), việc tiết lộ, bị đày vào Tứ-Xuyên, rồi y uống thuốc độc tự tử.

12. Dạ thỏ: ḷng con thỏ, Thể Loan ví với ḷng ḿnh. Người xưa bảo cung trăng có con thỏ, -lại bảo con thỏ trông bóng trăng mà chửa. Hai câu này: giải theo thuyết trên th́ nghĩa là: ôm nặng tấm ḷng, như con thỏ ngồi trong bóng trăng mà chờ đợi, hay theo thuyết dưới, th́... con thỏ trông lên bóng trăng mà chờ đợi, nhưng theo thuyết dưới thuận nghĩa hơn. Thể Loan nói có ḷng chờ đợi Tử Trực .

13.Lữ Phụng Tiên: Lă Phụng Tiên. Lữ Bố, một vơ tướng đời Tam quốc, con nuôi và chân tay của Đổng Trác. Trác mưu cướp ngôi nhà Hán. Vương Doăn, một trung thần nhà Hán, có người con gái hát trong nhà (ca cơ) tên là Điêu Thuyền, sắc đẹp, bàn dùng kế ly gián: trước hứa gả cho Lữ Bố, sau lại đem hiến cho Đổng Trác.

14.Thất t́nh: bị việc ǵ trái ḿnh mà uất ức phiền năo trong ḷng .

15.Cư tang: đạ tang, chịu tang

16.Thái khanh: một chức quan to

17.Chăn dân: do chữ Hán "mục dân": trị dân.

18.Dinh tiền: trước dinh.

19.Xốn xang: xôn xao, thổn thức, (tiắng miền Nam)

20.Hán giang: có bản chép là Hàn giang, xét ra không đúng nghĩa. Hàn giang tức là sông Hán (sông Ngân) trên trời; theo chữ Hán, sông này có nhiều tên: Thiên hà, Thiên hán, Ngân hà, Ngân hán, Vân hán, Hà hán.

21.Ô kiều: cầu Ô. Theo các sách Hoài Nam và Phong tục kư: Đêm thất tịnh (đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch) chim ô thước (quạ và vẹt) sắp hàng làm cầu bắc qua sông Ngân cho vợ chồng Ngâu gặp nhau. Câu này nói: Nguyệt Nga chưa được gặp Vân Tiên mà nhân duyên lỡ dở, cũng như vợ chồng Ngâu chưa được gặp nhau trên sông Ngân, mà nhịp cầu Ô đă long mất, rơi mất rồi .


22.Phù du: con vờ, một thứ trùng có cánh, hay bay trên mặt nước, sống một thời gian rất ngắn. nói đời ngước, sống một đời người ngắn ngủi .

23.Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu, chỉ vợ chồng.

24.Cửa sổ ngựa qua: nói đời người chóng qua như bóng ngựa chạy qua cửa sổ

25.Dẫu thay mái tóc phải nh́n qua mối tơ: dẫu tóc bạc tuổi già cũng phải giữ lấy mối tơ.

26.Cáo tạ: cũng như cáo từ, từ tạ với chủ nhân đạ xin về.

27.Dám chịu: dám nhận

28.Tre c̣n măng mất: nói cha già th́ c̣n, con trẻ th́ đă chết .

29.Gia thần: người hầu hạ trong nhà quan.

30.Đèn sách ghi ḷng: kư chú việc đèn sách .

31.Vùa hương: b́nh hương

32.Dương gian: khoảng có mặt trời chiếu tức cơi sống .

33.Âm cung: âm phủ, chỗ toàn bóng tối, tức cơi chết.

34 Thành thân: nên vợ nên chồng, nói: sống không lấy được nhau, không biết chết xuống cơi âm có được thành vợ thành chồng không ?

35.Cưu mang: ôm ấp, bận bịu, lo ngại.

36.Loan phụng: hai chữ chim thường dùng để tượng trưng cho vợ chồng đôi lứa tốt đẹp

37.Gối chích: gối chếch (lệch). Nệm nghiêng gối chích: nói loan phụng phải rẽ nhau, t́nh cảm đổi xây đột ngột nệm gối như bị xô lộn mà nghiêng lệch đi. Chữ Hán cũng dùng: khi trầm (gối nghiêng).

38.Sông Ngân: xem chú thích ở câu 245, 246.

39.Cầu Lam: chữ Hán Lam kiều, tức cầu trên ng̣i Lam (Lam Khê) ở huyện Lam-Điền tỉnh Thiểm-Tây (Trung-quốc). Theo sách Thái-B́nh quảng kư. Bùi Hàng đời Đường gặp bà tiên Vân Kiều cho bài thơ, trong có chữ Lam Kiều, sau Hàng đến trạm Lam-kiều, khát nước, vào xin một bà lăo gần đấy, được Vân Anh, con gái bà đưa nước ngọc dịch (thứ nước tiên) cho uống. Hàng thấy Vân Tiên tuyệt đẹp, muốn lấy, bà lăo bảo: bà cần dùng cối ngọc và chầy ngọc để gia (luyện) thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên) nếu có những thứ ấy làm sính lễ th́ gả cho. Hàng về t́m được cối chầy ngọc đưa đến lại ở đấy giă thuốc tiên cho bà một trăm ngày, rồi Hàng lấy Vân Anh và hai vợ chồng cùng thành tiên (Truyện Kiều: "Chầy sương chưa nệm cầu Lam", sương tức thuốc huyền sương .

40.Tiết: xem chú thích ở câu 6 và câu 164

41.Thái sư: chức quan to nhất triều đ́nh

42.Xăng: xe chặt, gắn bó

43.Mai chước (mối chước): người làm mối trong việc lấy vợ, lấy chồng

44.Lễ nghi: các cuộc lễ có nghi thức chương tŕnh, cũng có nghĩa là các lễ vật. Đây là các lễ vật mà Thái sư đưa đến để  hỏi vợ cho con.

45.Ô-qua: Theo Gia định Thông chí th́ ở miền Châu-Đốc Hà-Tiên trước kia thường có giặc Qua Oa ở ngoài bể vào cướp phá. Quân Miến-Điện xưa, c̣n gọi là Ô-đỗ cũng hay đe dọa miền Hà-Tây, Châu-Đốc. Có thể là Nguyễn Đ́nh Chiểu đă nhớ lại những giặc xâm lược này mà đặt tên nước Ô-qua chăng.

46.Binh nhung: binh sĩ, cũng có nghĩa là khí giới. Đây chỉ binh sĩ. Dấy loàn: làm loạn. Nói nước Ô-qua đem quân quẫy nhiễu cơi biên.

47.Đồng-Quan: một cửa ải hiểm yếu ở biên giới Hán Hồ.

48.Lưỡng ban: hai ban văn vơ. Quân thần: bầy tôi trong một triều đ́nh

49.Cừu: thù hằn

50.Khuynh thành: nghiêng thành. Lư Diên Niên đời Hán có câu ca: "Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (có bản chép là "Nhất tiếu"... "tái tiếu"...), nghĩa là một cái nh́n làm nghiêng thành, hai cái nh́n làm nghiêng nước (hay một cái cười... hai cái cười...), nói: cái nh́n (hay cái cười) của người con gái đẹp khiến vua chúa phải say mê đến nỗi mất thành mất nước. Do đó, người ta thường dùng danh từ "khuynh thành" "khuynh quốc" để chỉ những người con gái có sắc đẹp .

51.Hào hoa: hào là khí phách khác người, hoa là văn vẻ tỏ dạng.

52.Châu phê: vua hạ bút son phê vào tờ chiếu chỉ (châu: son)

53.Cống Hồ: đem dâng cho nước Hồ (tức nước Hung-nô ở phía Bắc Trung-quốc, người Trung-quốc thường gọi là nước Hồ)

Xem Câu 1400-1699