|
Những
vui rượu sớm cờ trưa,
Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy
niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
1480. Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
Nghĩ ra thật cũng nên đường,
Tǎm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
ở vào khuôn phép nói ra mối đường.
1485. E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một nǎm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được
nàọ
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
1490. Hoặc là trong có làm sao chǎng là?
Xin chàng kíp liệu lại nhà,
Trước người đẹp ý sau ta biết
tình.
Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
Rạng ra gửi đến xuân đường,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Tiễn đưa một chén quan hà,
1500. Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.
Sông Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.
Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
1505. Nàng rằng: Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
1510. Đến nhà trước liệu nói sòng cho
minh.
Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
Lại mang những việc tày trời đến
sau.
1515. Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Nǎm chầy cũng chẳng đi đâu mà
chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngày này nǎm sau!
Người lên ngựa kẻ chia bào,
1520. Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu
xanh.
Người về chiếc bóng nǎm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525. Vầng trǎng ai xẻ làm -dôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà:
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530. Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
ở ǎn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trǎng hoa:
Ví bằng thú thật cùng ta,
1540. Cũng dung kẻ dưới mới là lượng
trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550. Làm cho đầy đọa cất đầu
chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thǎm ván bán thuyền biết tay.
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai,
1560. Điều này hẳn miệng những người
thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ
rǎng.
Trong ngoài kín mít như bưng.
Nào ai còn dám nói nǎng một lời!
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống
yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570. Chữ tình càng mặn chữ duyên càng
nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình đã xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
1580. Rút dây sợ nữa động rừng
lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu
đâu.
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585. Khen cho những chuyện dông dài,
Bướm ong lại đặt những lời
nọ kia.
Thiếp dù bụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590. Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ
đòn.
Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trǎng tròn sánh vai.
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trǎng.
Tình riêng chưa dám rỉ rǎng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng
nhủ qua:
Cách nǎm mây bạc xa xa,
1600. Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu chẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường
quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,
1610. Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
Lâm Tri đường bộ tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thì
gần.
1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người,
1620. Sau cho để một trò cười về
sau.
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển ưng lại chọn một bầy côn
quang.
1625. Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang bến
Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối
sầu.
Bóng đâu đã xế ngang đầu,
1630. Biết đâu ấm lạnh biết đâu
ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chǎng?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trǎng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Phật đài,
1640. Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã rưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650. Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng
rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao
xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm
quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Tình ngay ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
1665. Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người
nết na.
Di hài nhặt gói về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
1670. Lục trình chàng cũng đến nơi
bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy
gan!
Gieo mình vật vã khóc than:
Con người thế ấy thác oan thế này.
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680. Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
1685. Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!
1695. Mệnh cung đang mắc nạn to,
Một nǎm nữa mới thǎm dò được
tin.
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Điều đâu nói lạ dường này,
1700. Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi
trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
1705. Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới
thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
1710. Đè chừng huyện Tích bǎng miền vượt
sang.
Dỡ đò lên trước sảnh đường,
Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay
lên hầu.
A hoàn trên dưới giục mau,
1720. Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên
một bà.
1725. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên
thân!
Con này chẳng phải thiện nhân,
1730. Chẳng phường trốn chúa thì quân
lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735. Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
A hoàn trên dưới dạ ran,
Dẫu rằng trǎm miệng không phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập vào,
1740. Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen.
Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
1745. Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
1750. Đem lời phương tiện mở
đường hiếu sinh.
Dạy rằng: May rủi đã đành,
Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là oan nghiệp chi đây,
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755. Ở đây tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn
chi.
Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
Con ong cái kiến kêu gì được oan?
Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760. Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm
tây:
Phong trần kiếp chịu đã đầy,
Lầm than lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khǎng khǎng buộc mãi lấy người
hồng nhan.
1765. Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,
1770. Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đàng là
đâu.
1775. Sớm khuya khǎn mắt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi
ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
1780. Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm ngơ ngẩn bóng đêm nǎn nỉ lòng.
1785. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng
kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua,
1790. Nỗi gần nào biết đường xa
thế này.
Lâm Tri từ thuở uyên bay,
Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc
thân.
Mày ai trǎng mới in ngần,
Phần thừa hương cũ bội phần xót
xa.
1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thǎm
quê.
Tiểu thư đón cửa giãi giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy
mừng.
1805. Bước ra một bước một
dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Phải chǎng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Bây giờ tình mới rõ tình,
1810. Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Chước đâu có chước lạ đời?
Người đâu mà lại có người tinh ma?
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ǎn làm sao nói làm sao bây giờ?
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
1820. Ruột tằm đòi đoạn như tơ
rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn siêu:
Thương ơi chẳng phải nàng Kiều
ở đây?
1825. Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
Không ngǎn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830. Mới về có việc chi mà động dong?
Sinh rằng hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiền
đêm thu.
1835. Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
1840. Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén
vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
1845. Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
1850. Bản đàn thử dạo một bài chàng
nghe.
Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người
trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt
Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
1860. Cuộc vui gảy khúc đoạn trường
ấy chi\?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười
cho qua.
1865. Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
Sinh thì gan héo ruột đầy,
1870. Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
Bây giờ mới rõ tǎm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
1875. Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được
ai.
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời
thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như chì,
1880. Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Một mình âm ỉ đêm chày,
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy
nǎm canh.
1885. Sớm trưa hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
1890. Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa đường
hỏi tra.
1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc Sinh,
1900. Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chǎng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
1905. Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào
vay!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Tiểu thư rằng: ý trong tờ,
1910. Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa
Không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Sẵn Quan âm các vườn ta,
Có cây trǎm thước, có hoa bốn mùa.
1915. Có cổ thụ, có sơn hồ,
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
Tàng tàng trời mới bình minh,
Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước Phật
đường,
1920. Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
1925. Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa
bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng
thì thôi.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930. Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường
trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu thiền,
Sân thu trǎng đã vài phen đứng đầu,
1935. Cửa thiền, then nhặt, lưới mau,
Nói lời trước mặt, rời châu vắng
người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
Những là ngậm thở nuốt than,
1940. Tiểu thư phải buổi vấn an về
nhà.
Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
Xǎm xǎm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh:
1945. Đã cam chịu bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,
1950. Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời
xuân xanh!
Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường chút chửa cam lòng,
Nghiến rǎng bẻ một chữ đồng làm
hai.
1955. Thẹn mình đá nát vàng phai,
Trǎm thân dễ chuộc một lời được
sao?
Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
Chút thân quằn quại vũng lầy,
1960. Sống thừa còn tưởng đến rày
nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
Xót vì cầm đã bén dây,
Chẳng trǎm nǎm cũng một ngày duyên ta.
1965. Liệu bài mở cửa cho ra,
ấy là tình nặng ấy là ân sâu!
Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
Nữa khi giông tố phũ phàng,
1970. Thiệt riêng đó cũng lại càng cực
đây.
Liệu mà xa chạy cao bay,
ái ân ta có ngần này mà thôi!
Bâu giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước
non?
1975. Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Con tằm đến thác cũng còn vướng tơ!
Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết
lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
1980. Hoa tì đã động tiếng người
nẻo xa.
Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
Cười cười, nói nói ngọt ngào,
Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
1985. Dối quanh Sinh mới liệu lời:
Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan đình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
1990. Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!
Thiền trà cạn chén hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
1995. Hoa rằng: Bà đã đến lâu,
Rón chân đứng nép độ đâu nữa
giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
2000. Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
Ngǎn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
2005. ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này,
2010. Máu ghen ai cũng chau mày nghiến rǎng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói nǎng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường
hiểm sâu!
2015. Thân ta ta phải lo âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
Ví chǎng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
Phận bèo bao quản nước sa,
2020. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
2025. Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trǎng tà về tây.
|
|
1473. Mảng: Tiếng cổ có
ý nói mải mê về một việc gì mà quên
đi. ở đây là nghĩa này.
1474. ý nói hết mùa xuân và bắt đầu
sang mùa hạ
.
.
1478. Chim én (mùa xuân) chim nhạn (mùa thu), đổi
thay nhau, ý nói từ mùa nọ sang mùa kia.
ở đây ý nói thời gian trôi thấm
thoắt gần được một nǎm.
1480. Tào khang: bã rượu cám. Người
vự cùng ǎn bã, ǎn cám với nhau,
tức là - người vợ cả lấy
từ lúc còn hàn vi. Vua Quang Vũ nhà Hán
muốn đem người chị gái mới
goá là công chúa Hồ Dương gả cho
Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có
vợ. Vua hỏi ý Hoằng, Hoằng thưa:
Tào khang chi thê, bất hạ đường,
nghĩa là người vợ lấy trong lúc
ǎn tấm, ǎn cám, không thể để
xuống dưới nhà, ý nói không thể
khinh rẻ, phụ bạc. Vua biết ý
vậy, liền thôi.
1485. Phi thường: khác với người
thường, ý nói người sâu sắc,
hiểm độc.
1496. Hồi trang: Về quê.
1498. Ninh gia: Về thǎm nhà.
1499. Quan hà: Quan cửa ải, hà là sông. Chén
quan hà: Chén rượu tiễn biệt.
1500. Xuân đình: Có thể hiểu là nơi
xum họp, vui vẻ.Cao đình: Cổ thi: Cao
đình tương biệt xứ, chỗ
biệt nhau ở Cao đình.
1501. Sông Tần: Sông ở đất Tần
Xuyên, mạn tỉnh Cam Túc. Theo Tản Đà
thì sông Tần là sông Tần Hoài, thuộc
tỉnh Giang Tồ, quê Thúc Sinh (Vô Tích).
1502. Dương quan: Tên một cửa ải
ở biên giới tỉnh Thiểm Tây,
mạn tây bắc Trung Quốc.1507. Yến
thắm trôn kim: Chưa thực rõ nghĩa.
Đại ý câu này nói: Kiều cho rằng
việc hai người lấy nhau là việc
không thể dấu kín được.
.
.
1508. Bưng mắt bắt chim: Bưng mắt
lại thì không thể nào bắt được
chim. ý nói không thể nào che giấu nổi
việc có vợ lẽ.
1509. Đèo bòng: Có nghĩa là vương vít
tình duyên.1510. Nói sòng: Tức nói thẳng, nói
trắng ra, không quanh co giấu giếm.
.
.
.
1519. Bào: áo. Thường thường trong khi
ly biệt người ta hhay nắm lấy áo
nhau, tỏ tình quyến luyến. Chia bào
tức là buông áo.
1520. Phong: Một loại cây ở Trung
Quốc, lá chia ra nhiều cành, gần
giống lá cây thầu dầu ở bên ta,
đến mùa thu thì sắc lá hoá đỏ.
Quan san: Quan ải, núi non, thường
được dùng để chỉ sự xa
xôi cách trở.1521. Dặm hồng: Dặm
đường đi giữa bụi hồng.
Chinh là đi đường xa, an là yên
ngựa. Người ta thường dùng hai
chữ chinh an để chỉ việc đi
đường xa.
1528. Buồng trong: Chỉ vào người
vợ. Cây này đại ý nói: Bây giờ hãy
nói đến người vợ Thúc sinh làm
chủ gia đình ở quê nhà.
1530. Lại bộ: Bộ lại, tức là
quan trọng nhất trong sáu bộ của
triều đình phong kiến.
1531. Duyên Đằng: Cổ thi: Thời lai
phong tống Đằng vương các
(Thời vận đến, gí đưa
lại gác Đằng Vương). ý nói
gặp cơ hội may mắn.
1534. Ràng buộc: Có nghĩa là thắt
buộc, cho người khác vào khuôn, vào phép
của mình.
1535. Vườn mới thêm hoa: ý nói Thúc sinh
có thêm vợ lẽ.
1538. Đen bạc: Cùng nghĩa như bạc
bẽo, phụ bạc.Trǎng hoa: Do chữ
hoa nguyệt mà ra, ý chỉ sự chơi
bời trai gái.
.
.
1541. Nền: Nền nếp của người
trên, tư thế của mình là người
bề trên.
.
.
.
.
1551. Nhãn tiền: Trước mắt.
1552. Tục ngữ: Chưa thǎm ván đã bán
thuyền. ở đây chỉ Thúc sinh là người
mới nới cũ.
.
.
.
1560. Thị phi: Có nghĩa là việc phải
thì nói thành trái, việc trái thì nói thành
phải, thêu dệt phải trái làm cho người
nghe mắc lầm.
.
.
.
1568. Lầu hồng: Do chữ hồng lâu, nhà
ở bọn quyền quý, cũng dùng để
chỉ chỗ ở của hạng phụ
nữ giàu sang.
.
1571. Tẩy trần: Rửa bụi. Tục xưa,
khi có người đi xa về thì đặt
tiệc "tẩy trần", ý nói rửa
sạch bụi bặm trong lúc đi đường.
1578. Khảo: Tra khảo.
1580. Rút dây động rừng: Tục
ngữ, ý nói rút một sợi dây làm rung
chuyển đến cả một khu rừng.
Câu này ý nói: Thúc sinh sợ nói lộ câu
chuyện lấy Kiều ra sẽ gây nên sóng
gió trong gia đình.
1583-1584: Đại ý nói ngọc hay đã, vàng
hay thau đôi ta đều đã biết phân
biệt rạch ròi, không thể nào lầm
lẫn được.
.
.
.
.
.
.
1593. Thuần: là một thứ rau, hức là
một thứ cá. Trương Hàn đời
nhà Tấn, đang lúc làm quan ở xa,
thấy cơn gió thu, sực nhớ đến
canh rau thuần và chả cá hức ở quê
nhà, bèn bỏ quan mà về. Vì thế, người
ta thường dùng hai chữ thuần hức
để chỉ thú vui chơi nơi quê nhà.
1594. Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp
lạc, thiên hạ cọng tri thu: (chỉ
một lá ngô đồng rụng mà ai cũng
biết là thu sang). Câu này đại ý nói: Thúc
sinh ở quê nhà vừa bén mùi rau cá thì
trời đã bắt đầu sang thu.1596.
Quan tái: cũng như quan ải, chỉ nơi
núi non bờ cõi.1599.
Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra. Định
Nhân Kiệt đời Đường đi
làm quan xa, thường chỉ đám mây trên
núi Thái Hàng mà nói: "Nhà cha mẹ ta ở
đây". ở đây dùng để nói Thúc
sinh có cha ở xa.
.
.
.
.
.
1606. Xe hương: Do chữ Hương xa,
chỉ xe của phụ nữ.Quy ninh là
về hỏi thǎm sức khoẻ của
cha mẹ.
1609. Thành ngữ: Ngứa ghẻ hờn ghen ý
nói hai điều khó chịu nhất.
.
.
1614. Hải đạo: Đường
biển.1621. Mầu: Mầu nhiệm: Mẹ
Hoạn thư khen cái mưu ấy rất
điệu rất hay.
.
.
.
.
1623. Buồm: Lá buồm. Lèo: dây treo buồm.
1624. Khuyển: chó, Ưng: chim cắt, hai loài
vật dùng để đi sǎn. ở đây
dùng để đặt tên cho bọn tôi
tớ trung thành của họ Hoạn.
Côn quang: Cũng như côn đồ, dùng
để chỉ bọn vô lại.
1626. Thuận phong: Thuận gió. Một lá:
Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang
ở Lâm Tri, Lâm Tri nguyên là kinh đô nước
Tề xưa, nên gọi là bến Tề.1630.
ấm lạnh: Do chữ Ôn sảnh (Đông
ôn hạ sảnh), ngọt bùi do chữ cam
chỉ, ý nói làm con phải quạt nồng
ấm lạnh và phụng dưỡng
những thức ngon lành cho cha mẹ..
.
.
.
1632. Lời non nước: Lời chỉ non
thề biển. Lời sắt son: Lời trung
thành vững chắc như sắt như
son.1633. Sắn bìm: Do chữ cát đằng mà
ra. Xem chú thích 902.1636.
Cung Quảng: Cung Quảng hàn trong mặt trǎng,
ả Hằng tức ả Hằng Nga trong
cung. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ,
trộm thuốc trường sinh của
chồng rồi chạy lên ở một mình
trên cung trǎng; Câu này đại ý nói: Thôi
thì liều sống một mình như Hằng
Nga trong cung Quảng Hàn vậy.
.
.
1638. Ba sao: Do chữ Kinh Thi: Tam tinh tại thiên
(ba sao ở trời). ở đây tác giả
chỉ mượn câu ấy để nói
đêm đó ngoài song gió thổi, giữa
trời có trǎng có sao v.v...
.
.
1642. Khốc quỷ kinh thần: Quỷ
thần khóc, thần phải sợ, ý nói
rất ghê sợ.
.
.
.
.
.
.
.
1667. Di hài: Hài cốt sót lại.
1668. Khâm liệm: Lễ mặc quần áo
mới và bọc vải lụa cho người
chết trước khi bỏ vào áo quan.
Tang trai: Lễ đưa ma và làm chay.
1670. Lục trình: Đi đường
bộ.
1673. Trung đường: Nhà chính
giữa.1674. Linh sàng: Giường thờ.
Bài vị: Mảnh gỗ viết tên người
chết để thờ.1680.
Vĩnh quyết: Cũng như vĩnh
biệt, từ biệt hẳn, không bao
giờ gặp nhau nữa.1684.
Phi phù trí quỷ: đốt bùa mà gọi
được quỷ đến.
Thông huyền: Thông cảm được
với cõi huyền bí, tức cõi quỷ
thần.
.
.
.
.
.
.
.
1685. Tam đảo: Ba đảo tiên: Bồng
lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Người
ta thường dùng để chỉ cõi thiêng
liêng hoặc cõi tiên.
Cửu tuyền: Chín suối, tức là âm
phủ.1689. Đạo nhân: cũng như
đạo sĩ, chỉ ông thấy pháp.
Tĩnh đàn: Đàn thờ thần thánh
của bọn thầy pháp.
1690. Xuất thần: Linh hồn thầy pháp
thoát ra ngoài thể xác để đi vào cõi
thần linh.
.
.
1695. Mệnh cung: Cung là bản mệnh,
một trong 12 cung của số Tử vi. Sách
số có câu: Cung mệnh mà có sao Bột
chiếu vào thì người ấy mắc
nạn. Câu này đại ý nói: Xem số Thuý
Kiều thì đang mắc nạn to.
1697. Chiền chiền: Tiếng cổ, có nghĩa
là rành rành, hoặc liền liền.
1701. Đồng cốt: Ông đồng, bà
cốt, những người làm nghề câu
đồng, câu bóng.
.
1709. Cảnh suyền: Cánh buồm đi nhanh.
1715. Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh
đời Đường đi thi gặp ông
già họ Lã cho mượn cái gối nằm
ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ,
làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 nǎm. Lúc
tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng
nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai
chữ hoàng lương để chỉ
giấc mơ.
Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái
trong rừng, cùng uống rượu, sáng
dậy thấy mình nằm dưới gốc
cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ
màng.
1719. ả hoàn: các đầy tớ gái
trẻ tuổi.
1722. Thiên quang trủng tể: Thiên quang là
loại quan đứng đầu sáu lại
quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể
tức là chức tể tướng.
1724. Thất bảo: Bảy sản vật quý
như vàng, bực, lưu ly, xà cừ, mã não,
san hô, trân châu. ở đây chỉ cái giường
có khảm các vật quý.
.
1731. Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống
ở mồ mả; gà hoang sống ở ngoài
đồng, người ta thường dùng
để ví với hạng người lông
bông, giang hồ.
1735. Gia pháp: Phép tắc trong nhà để
trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
1739. Trúc côn: Gậy tre.
.
.
1741. Đào lý: Cây đào, cây lý, thường
dùng để chỉ phụ nữ.
1744. Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà
quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban
và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là
phiên thị tỳ.
1745. Thanh ly: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà
giàu sang đời xưa đều mặc áo
xanh, nên gọi là thanh y.
1747. Quản gia: Trong gia đình quan lại
phong kiến đời xưa thường dùng
những người đàn bà đứng
tuổi trông coi việc nhà và cai quản
số hầu gái, gọi là quản gia.
1750. Phương tiện: ở đây có nghĩa
là đối đãi, xử trí mọi
việc.
Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh
cho người ta con đường khổ
sở chết chóc.
1752. Liễu và bồ là hai giống cây
mềm yếu thường được dùng
để chỉ phụ nữ.
1753. Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng,
có ý nói có oan thù và tội lỗi từ
thời trước để lại.
1755. Tai vách mạch rừng: Do câu thành
ngữ: Rừng có mạch vách có tai.
1761. Phong trần: Nghĩa đen là gió
bụi, thường được dùng để
chỉ sự khổ sở mà người
đời phải chịu.
1765. Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù
từ kiếp trước để lại.
1774. Địa ngục, thiên đường:
Theo giáo lý đạo Phật thì những người
độc ác sau khi chết phải xuống
địa ngục để chịu tội,
còn hồn những người lương
thiện thì được lên thiên đường.
ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi
sung sướng.
1778. Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ
để làm dây đàn, trúc là tre để
làm ống sáo. Hai chữ này thường
được dùng để chỉ các
thứ âm nhạc nói chung.
1786. Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói:
Thuý Kiều nghĩ rằng tình nghĩa
giữa mình với Thúc Sinh muốn nối
lại thì hoạ chǎng chỉ ở
kiếp khác.
1782. ý nói: Thuý Kiều trông ra bốn bể
thì thấy đâu cũng man mác một màu mây
trắng mà không thấy quê nhà.
1788. Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước
cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương
(quê cũ).
1791. Uyên: do chữ uyên ương, giống
chim ở với nhau từng đôi, nên người
ta thường dùng để chỉ vợ
chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn
nữa (con chim uyên đã bay mất).
1793. Trǎng mới: Trǎng đầu tháng.
Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy
mặt trǎng lưỡi liềm đầu
tháng giống như lông mày người gái
đẹp mà tưởng nhớ đến
Kiều.
1794. Câu này đại ý nói: Thuý Kiều không
còn nữa. Thúc sinh trông thấy phấn hương
của nàng còn sót lại mà thương tâm.1
797. Cố nhận: Người quen biết cũ.
ở đây chỉ Thuý Kiều.
1799. Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà.
ở đây chỉ quê hương của Thúc
sinh ở huyện Vô Tích.1803. Nhà hương:
Do chữ Hương khuê.
1816. Thành ngữ: Giết người không
dao. ở đây chỉ mưu mẹo nham
hiểm.
1823. Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn
phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê
gớm.
1830. Động dong: Biến đổi
sắc mặt, ý nói động lòng.
1831. Hiếu phục: Tang trở cha mẹ.
ở đây chỉ Thúc sinh vừa hết
tang mẹ.
1832. Trắc dĩ: Kinh thi có câu Trắc
bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên
núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn
dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương
nhớ mẹ.
Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao
giờ quên.
1833. Hiếu tử: Người con có hiếu
với cha mẹ.
1834. Giải phiền: Làm cho khuây khoả
sự phiền não.
1835. Thù: Chén rượu do chủ nhà rót
mời khách.Tạc: Chén rượu do khách rót
cho người chủ để đáp
lại. ở đây nói vợ chồng Thúc
sinh uống rượu và mời mọc nhau.
1836. Trì hồ: Bưng bầu rượu. ý nói
bắt Kiều đứng hầu một bên
để rót rượu cho hai vợ
chồng Thúc sinh uống.
1846. Bồ hòn để ám chỉ người
có việc buồn khổ mà không nói ra
được. ở đây ý nói: chén rượu
Kiều đưa mời chàng thấy đắng
như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều
bị liên luỵ phải uống hết ngay.
1856. Người ngoài là người ngoài
cuộc, thi Hoạn thư: người trong là
người trong cuộc chỉ Thúc sinh và
Kiều.
1865. Giọt rồng: có nghĩa là thời
giờ, thời khắc.1866. Cam tậm:
Thoả lòng, hả dạ.1871. Loan phòng: Phòng
nằm của đôi vợ chồng;
1875. Thuý: Chim chả. Uyên: Chim uyên ương.
ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng
mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thuý
Kiều.1885. Đài dinh: Đài các, dinh
thự, chỉ chỗ ở của bọn
quyền quý. ở đây mượn để
chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.
1896. Thân cung: Cung khai, khai trình.1897. Diện
tiền: Trước mặt.
1910. Cửa không: Do chữ không môn. Vì đạo
Phật cho mọi vật trên thế gian đều
là "không" nên người ta gọi
đạo Phật là "Không môn".
1913. Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan
thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng
của nhà Hoạn Thư.1915. Cổ thụ: Cây
lâu nǎm.
Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra
để làm cảnh.
1917. Tàng tàng: Tang tảng sáng.
1918. Ngũ cúng: Nǎm vật cúng Phật,
tức hương, hoa, đǎng, trà,
quả.
1920. Tam quy: Ba lễ "qui y" tức quy y
phật, quy y pháp, quy y tǎng, nghĩa là
đem cả tâm và thân mà theo đạo
Phật.
Ngũ giới: Nǎm điều rǎn,
tức là rǎn sát sinh, rǎn ǎn rộm,
rǎn tà dâm, rǎn nói càn, rǎn uống rượu.
Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.
1921. áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc.Cà
sa: áo nhà sư mặc.
1922. Pháp danh: Tên đặt theo tập tục
tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do
Hoạn thư đặt cho Kiều.
.
.
1924. Xuân, thu: Tên hai người đầy
tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan
âm các ở với Kiều để giúp
việc hương đèn.
1926. Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm,
chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát.
Bụi hồng: Do chữ hồng trần,
tức cõi trần tục, cõi đời.
1927. Nhân duyên: Duyên vợ chồng. ở
đây chỉ duyên phận giữa Kiều và
Thúc sinh.
1930. Thủ tự: Chữ viết tay.
Tâm hương: Hương lòng. Nén hương
dân lên do tấm lòng thành kính.
1931. Giọt nước cành dương: Do
chữ dương chi thuỷ. Theo sách
Phật thì Phật Quan âm có cành dương
liễu và bình nước cam lộ, khi
muốn cứu ai thì lấy cành dương
liễu dúng nước trong bình mà rảy vào
người ấy. ở đây giọt nước
cành dương dùng để chỉ phép màu
nhiệm của Phật.
1932. Lửa lòng: do chữ tâm hoả, chỉ
mọi thứ dục vòng do lòng người
sinh ra.Trần duyên: Duyên nợ ở cõi
trần.
1937. Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ
chỗ ở của Kiều.
Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc
sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.
1940. Vấn an: Hỏi thǎm sức
khoẻ.1944. áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ
thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường
mặc.
1950. Cát lầm ngọc trắng: ý nói
Kiều như "ngọc trắng" mà
bị cát vùi dập.
1953. Tông đường: Nhà tổ tông.
ở đây dùng với nghĩa: "nối
dõi tông đường". ý nói Thúc sinh nghĩ
mình chưa có con trai để nối dõi tông
đường.
1957. Dông tố: Cơn mưa to gió lớn.
ở đây chỉ sự giận giữ ghê
gớm của Hoạn thư.
.
.
.
.
.
.
..
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
1987. Bút pháp: Phép viết chữ.
1988. Thiếp Lan - đình: Do chữ Lan-đình
thiếp là bản bút tích rất tốt
của nhà vǎn Vương Hy Chi, đời
Tần.
1991. Thiền trà: Nước trà của nhà chùa.Hông
mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm
nước uống, sắc nước đỏ
hồng, nên gọi là hồng mai.
1992. Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như
thư viện.2008.
Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt
hai chữ "bó tay" sau chữ "Thúc"
là một cách chơi chữ của tác
giả.
.
.
2011. Đãi đằng: ở đây lại có
nghĩa là nói nǎng, làm ầm ĩ lên.
.
2014. Cổ nhân có câu: Nộ giả thường
tình, tiếu giả bất khả t rắc,
nghĩa là: Giận dữ là thói thường,
cười thì không thể lường
được. Câu này dùng ý ấy.
2018. Câu này ý nói: Bị giam giữ ở
đây lâu, thế nào cũng có ngày mình
bị hành hạ điêu đứng hơn,
hoặc bị trừ khử.
2020. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân
phận của mình như cánh bèo trên mặt
nước, ở đâu thì cũng là lênh
đênh cả, không còn quản gì.
2024. Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ
thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng
bạc.
.
.
.
.
.
.
.
|
|
|
|