|
245..
Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
Mây Tần khóa kín song the,
250.. Bụi hồng
lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
255.. Mành Tương
phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Vì chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260.. Nhớ nơi
kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu
!
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.
265.. Nghề riêng nhớ ít
tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim
xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270.. Con oanh học nói trên
cành mỉa mai.
Mấy lần cửa đóng then cài,
đầy thềm hoa rụng, biết người
ở đâu ?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
275.. Là nhà Ngô Việt thương
gia,
Buồng không để đó người xa chưa
về.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Có cây, có đá sẵn sàng,
280.. Có hiên Lãm thúy, nét vàng
chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng
trông
285.. Tấc gang đồng
tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
290.. Dưới đào
dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà
vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
295.. Giơ tay với
lấy về nhà:
Này trong khuê các đâu mà đến đây ?
Ngẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm !
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300.. Hãy còn thoang thoảng hương
trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm
lòng:
310.Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
Sinh rằng: Lân lý ra vào,
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi,
Kể đà thiểu não lòng người bấy
nay!
315. Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc khǎn là một vuông.
Bậc mây rón bước ngọn tường,
320. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng
nhe?
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu.
Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau
Thầm trông trộm nghĩ bấy lâu đã
chồn.
 
325. Sương mai tính đã rũ mòn,
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
Tháng tròn như gởi cung mây,
Trần trần một phận ấp cây đã
liều!
Tiện đây xin một hai điều,
330. Đài gương soi đến dấu bèo cho
chǎng?
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà bǎng tuyết chất hằng phỉ
phong,
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chǎng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335. Nặng lò xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
Sinh rằng: Rày gió mai mưa,
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
Dù chǎng xét tấm tình si,
340. Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
345. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm
ru!
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.
Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,
350. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung.
Được lời như cởi tấm lòng,
Giờ kim hoàn với khǎn hồng trao tay.
355. Rằng: Trǎm nǎm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này làm ghi.
Sẵn tay khǎn gâm quạt quỳ,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
Một lời vừa gắn tất giao,
360. Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách nàng dời lầu trang.
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ.
365. Sông Tương một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ bên chờ suối kia.
Một tường tuyết trở sương che.
Tin xuân đâu dễ đi về cho nǎng.
Lần lần ngày gió đêm trǎng,
370. Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân
qua.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường dưới nữa là hai em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
375. Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Thời trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoǎn thoắt dạo ngay mái tường.
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng
trông:
Trách lòng hờ hững với lòng,
Lửa hương chốc để lạnh lùng
bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu
hoa râm.
385. Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!
Lần theo núi giả đi vòng,
390. Cuối tường dường có nẻo thông
mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.
395. Sánh vai về chốn thư hiên,
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.
Trên yên bút giá thi đồng,
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.
Phong sương được vẻ thiên nhiên,
400. Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
405.Khen: Tài nhả ngọc phun
châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này !
Kiếp tu xưa ví chưa dày,
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang !
Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
410.Chẳng sân bội ngọc
cũng phường kim môn .
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay ?
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay
một lời:
415.Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa .
Trông người lại ngẫm đến ta,
Một dầy một mỏng biết là có nên ?'
Sinh rằng: Giải cấu là duyên
420.Xưa nay nhân định
thắng nhiên cũng nhiều .
Ví dù giải kết đến điều,
Thì đem vàng đá mà liều với thân !
đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
425.Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài .
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa .
đến nhà vừa thấy tin nhà,
430.Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một
mình.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh
hắt hiu .
435.Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như
mê .
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
440.Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ
màng.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa .
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?
445.Vội mừng làm lễ rước vào,
đài sen nối sáp song đào thêm hương .
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi .
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
450.đinh ninh hai mặt một lời song song
.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng
đến xương .
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng
lồng.
455.Sinh rằng: Gió mát trăng trong,
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam .
Chày sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng ?
Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng,
460.Một lời cũng đã tiếng
rằng tương tri .
đừng điều nguyệt nọ hoa kia .
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai .
Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,
 
Nước non luống những lắng tai Chung
Kỳ.
465.Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,
đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng
.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
470.Làm chi cho bận lòng này lắm thân !
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương .
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau .
475.Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng !
Kê Khang này khúc Quảng lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân .
Qua quan này khúc Chiêu Quân,
480.Nửa phần luyến chúa nửa phần
tư gia .
Trong như tiếng hạc bay qua,
đục như tiếng suối mới sa nửa
vời .
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ
mưa .
485.Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ
ngẩn sầu .
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày .
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ
ngẩn sầu .
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày .
Rằng: Hay thì thật là hay,
490.Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế
nào !
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người ?
Rằng: Quen mất nết đi rồi,
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao !
495.Lời vàng âm lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được
không .
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu
.
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
500.Xem trong âu yếm có chiều lả lơi .
Thưa rằng: đừng lấy làm chơi,
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao !
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh .
505.đã cho vào bậc bố kinh,
đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi !
Phải điều ăn xổi ở thì,
510.Tiết trăm năm nỡ bỏ đi
một ngày !
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương
.
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh .
505.Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên .
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
520.để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai
?
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi !
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân .
525.Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,
Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào .
Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sinh thì dạo gót sân đào bước ra .
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
530.Gia đồng vào gởi thư nhà mới
sang.
đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề
huề.
Liêu dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ
tang.
535.Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
540.Duyên đâu chưa kịp một lời
trao tơ,
Trăng thề còn đó trơ trơ,
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy !
545.Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời .
Tai nghe ruột rối bời bời,
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước
sau:
ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550.Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi !
Cùng nhau trót đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ !
Quản bao tháng đợi năm chờ,
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót
thầm.
555.đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
.
Còn non còn nước còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
!
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
560.Vầng đông trông đã đứng ngay
nóc nhà.
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường
chia hai .
565.Buồn trông phong cảnh quê người,
đầu cành quyên nhặt cuối trời
nhạn thưa .
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày
.
Nàng còn đứng tựa hiên tây,
570.. Chín hồi vấn vít như vầy
mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.
|
|
245.
Thư song: Chỗ cửa sổ phòng đọc
sách.
246. Biếng khuây: Không
khuây, không khuây.
247. Sầu đong càng
lắc càng đầy: ý nói mối sầu tương
tư, càng ngày càng chồng chất lên mãi.
249. Câu này ý nói: Mây
che kín cửa sổ phòng Kiều.
251. Tuần trăng
khuyết: Khuyết hết cả một
tuần trăng (cứ mỗi kì trăng tròn,
gọi là một tuần trăng). Chỉ thời
gian suốt cả tháng.
Đĩa dầu hao:
Đĩa dầu hao cạn (vì đèn bị
thắp khuya).
254. ý cả câu: Bút
để lâu không viết đến ngọn
bị khô đi, đàn để lâu không gẩy
đến dây bị chùng lại. ý nói Kim Trọng
buồn trong tương tư, bỏ cả việc
học hành và gẩy đàn.
255. Mạch Tương:
Mành làm bằng trúc núi Tương.
257. Ba sinh: Do chữ Tam
sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển: "Quá
khứ", "hiện tại" và "vị
lai" của con người.
260. Kỳ ngộ:
Sự gặp gỡ kì lạ.
264. Vĩ lô: Cây lau, cây
sậy.
266. Lam Kiều: Vùng
đất thuộc Lam Điền, tỉnh Thiểm
Tây (Trung Quốc). Bùi Hàng, đời Đường,
khi thi hỏng về, gặp Vân Kiều tặng bài
thơ, có câu:"Lam Kiều tiện thị
thần tiên quật, hà tất khi (kì) khu thướng
ngọc kinh" (cầu Lam là cái tổ tiên đó,
hà tất phải vất vả lên đế đô
để thi cử làm gì). Về sau, Hàng đi qua
một nơi, gọi là Lam Kiều, khát nước,
vào xin nước một nhà bà lão gần đấy
thấy Vân Anh, (em Vân Kiều), cháu gái bà, người
tuyệt đẹp, Hàng ngỏ ý cầu hôn, bà lão
bảo: Bà cân dùng cối ngọc và chày ngọc
để giã thuốc huyền sương (thứ
thuốc tiên), nếu có những thứ ấy làm
sính lễ sẽ gả con cho. Hàng về tìm
được cối và chày ngọc đưa
đến, lại ở đấy giã thuốc cho
bà lão một trăm ngày, rồi lấy Vân Anh và
sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên. ở đây,
Lam Kiều chỉ chỗ nhà ở của Kiều
268. Lá thắm: Do
chữ Hồng diệp. vu Hựu, đời
Đường, một hôm đi chơi, bắt
được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước
từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một
bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ
vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả
nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung
vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá
đỏ khi trước, lại bắt được
lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ
dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy
được Hàn thì.
Chim xanh: Người
ta thường gọi sứ giả đưa tin là
"chim xanh" (thanh điểu). Câu này ý nói: Khó
thông tin tức mối manh với Thuý Kiều.
257. Ngô Việt thương
gia: Nhà đi buôn ở nước Ngô, nước
Việt (đi buôn xa, nay Ngô, mai Việt).
279. Đá: Đây
chỉ núi giả (ta thường gọi là núi non
bộ) do những tảng đá xếp thành.
280. Lâm Thuý: tên cái hiên
của nhà Ngô Việt thương gia. Vì có chữ
Thuý trùng với một chữ trong tên Kiều nên
Kim Trọng mới mừng thầm là có duyên
số tiên định.
281. Bài: Bày ra, xếp
đặt sẵn, do chữ "an bài".
283. Song hồ: Cửa
sổ dán giấy. Cành mây: Cánh cửa
sổ.
285-286. ý nói: Cửa
động bị khoá, cửa nguồn bị ngăn,
cho nên tuy nhà Kiều gần có ganh tấc, mà
vẫn là xa xôi cách trở.
287. Nhẫn từ:
Kể từ khi (tiếng cổ).
293. Tường gấm:
Do chữ cẩm tường, bức tường
gạch có vẽ hoa như gấm (một cách tô
điểm văn hoa).
294. Kim thoa: Cái thoa gài
tóc bằng vàng.
296. Khuê các: Buồng
lầu, nơi ở của con gái nhà sang trọng.
305. Hư không:
Bỗng không, tự nhiên.
306. Hợp phố: Tên
một quận, trước thuộc Giao châu, nay
thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Theo
Hán sử: Nguyên xưa, ven bể quận Hợp
Phố có loại trai sinh ra một loại ngọc
quý, nhưng vì bọn quan tước tham nhũng,
bắt nhân dân đi mò ngọc cho chúng, dân tình
khổ cực, nên ngọc trai biến đi nơi
khác hết. Về sau, có vị quan thanh liêm là
Mạnh Thường đến nhận chức,
cải cách, chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì
ngọc trai lại dần dần trở về. Do
đó, người ta thường nói "Châu
về Hợp Phố" (Hợp Phố châu hoàn),
để chỉ những trường hợp
vật báu đã bị mất lại trở
về với chủ cũ.
311. Lân lí: Nguyên nghĩa
là xóm và làng, đây dùng như nhgiã bà con láng
giềng.
316. Niềm tây:
Nỗi lòng, chút tâm sự riêng.
319. Thang mây: Do chữ
vân thê, nguyên là một khí cụ của quân
đội thời dùng để trèo vào thành bên
địch (thanh cao, tưởng có thể bắc
tới mây được).
320. Người hâm
nọ: Người gặp gỡ hôm đi thanh
minh.
Chăng nhe: (từ
cổ) phải chăng là.
322. Kẻ: Chỉ Kim
Trọng. Người: Chỉ Kiều, Kim Trọng
nhìn tỏ mặt Kiều, mà Kiều thì e thẹn
cúi đầu.
323. Ngẫu nhĩ: Tình
cờ, cũng như "ngẫu nhiên".
324. Chồn: Mệt
mỏi, ý nói sốt ruột lắm.
325. Xương mai: Xương
vóc gầy. Cây mai, thân và cành nhỏ bé, nên người
ta thường gọi những người xương
vóc gầy là mai cốt (xương mai).
Rũ mòn: Gầy mòn,
ý nói tương tư mà gầy mòn đi.
327-328: ý nói
suốt tháng tâm thần như gửi ở cung trăng.
330. Đài gương:
Giá cao,, trên mặt chiếc gương lớn và
hộp đựng đồ trang sức của
phụ nữ. Trong văn cổ, thường mượn
chữ đài gương để chỉ người
phụ nữ.
Dấu bèo:
ý nói thân phận hèn mọn như cánh bèo trôi
nổi mặt nước. ở đây là lời
Kim Trọng tự nói khiêm.
332. Băng
tuyết: ý nói trong sạch, thanh bạch. Chất
hằng: Một thể chất lúc nào cũng như
thế.
Phỉ phong:
Hai thứ rau, người ta dùng lá và củ
nấu canh hoặc muối dưa làm món ăn hàng
ngày. ý cả câu: Gia đình vốn thanh bạch, mà
tư chất thì cũng bình thường, không có
tài sắc gì, lời Kiều tự khiêm (Bốn
chữ trên nói gia đình, bốn chữ dưới
nói bản thân).
333. Lá
thắm: đã giảng ở câu 268.
Chỉ
hồng: Do chữ xích thằng (sợi dây
đỏ) theo sách Tục U quái lục: Vì
Cố, người đời Đường,
đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp
một ông già ngồi dưới bóng trăng,
mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi
Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là
sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng
đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng
để buộc chân đôi vợ chồng. Do
điển này mà có những danh từ:
"chỉ hồng", "tơ hồng"
để chỉ việc nhân duyên vợ chồng,
và "Nguyệt lão" (ông già dưới trăng),
"Trăng già", "ông Tơ", để
chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi
cưới vợ, thường làm lễ Tơ
hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây
đỏ đó.
339. Dù chăng:
Dù chẳng, nếu không.
343. Khuôn thiêng:
Khuôn tạo hóa, chỉ trời. Khuôn do chữ quân,
tức là cái khuôn dùng để nặn đồ
gốm. Người xưa ví tạo hoá đúc
nặn ra muôn vật như cái khuôn nặn ra các
đồ gốm, nên gọi Tạo hoá là Hồng
quân, Thiên quân, (khuôn trời).
Tấc thành:
Tấc lòng chân thành, thành thực.
345. Lượng
xuân: Nguyên nghĩa là tấm lòng tốt đẹp
như mùa xuân. Còn có thể giải là tấm lòng
của người phụ nữ trẻ tuổi,
xinh đẹp.
348. Chiều
xuân: Như nói tứ xuân (Xuân tứ).
Nét thu: Nét
thu ba, nét sóng thu, tức con mắt.
352. Đá vàng:
Do chữ kim thạch. Kim đây là loài đồng,
chỉ chuông đồng, vạc đồng; thạch
là đá, chỉ bia đá. Thời xưa, những
việc lớn, những công đức hay châm ngôn,
thường được người ta khắc
vào chuông đồng, bia đá, để lưu
truyền thiên cổ. Do đó, người ta thường
dùng danh từ kim thạch để chỉ cái
gì có tính cách vĩnh cửu bền vững, không
thay đổi được, như ghi tạc vào
vàng đá. Đây nói: Kiều nhận lời
gắn bó với Kim Trọng, và xin ghi tạc
lời đó, như ghi tạc vào vàng đá.
357. Bả:
Bản Trương Vĩnh Ký chú Bả là
cầm.
Quạt hoa quì:
Chiếc quạt bằng lá quì vẽ hoa.
359. Tất
giao: Sơn và keo, chỉ tình nghĩa gắn bó
bền chặt với nhau như hai chất keo và sơn.
362. Lầu
trang: Lầu trang điểm, chỉ dùng lầu
ở của phụ nữ.
363. Đá
biết tuổi vàng: Muốn xem vàng bao nhiêu
tuổi, xấu tốt thế nào, người ta thường
dùng thứ đá cuội đen để thử,
gọi là hòn đá thử vàng. Qua sự trao đổi,
Kim-Kiều đã hiểu biết và yêu nhau, như
đá biết rõ tuổi vàng.
365. Sông thương:
Hai câu này lấy ý ở bài thơ trong Tình
sử:
"
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ,
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thuỷ"
Dịch
nghĩa:
Chàng
ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương,
Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau,
Cùng uống nước sông Tương.
367. Tuyết
trở sương che: ý nói bức tường
của nhà Kiều với nhà Kim Trọng như có
tuyết sương ngăn trở, che khuất
khiến cho hai người gặp gỡ trao đổi
tin tức.
370. Thư
hồng rầm lục: Màu đỏ ít đi, màu
xanh rậm thêm, tức là mùa xuân sắp qua, mùa
hạ sắp tới.
372. Hai
đường: Do chữ song đường
(xuân đường và huyền đường)
chỉ cha mẹ.
375. Nhà lan: Do
chữ lan thất.
377. Thì trân:
Những thức ăn quý đương mùa. Thuý
Kiều mang sang để tiếp Kim Trọng. Chú ý,
"sẵn bày" ở đây không phải là bày
biện ra bàn ở nhà Kiều.
382. Lửa hương:
Hai chữ này thường dùng để chỉ tình
duyên vợ chồng.
384. Hoa râm:
Hoa cây râm, sắc trắng, ví mái tóc lốm đốm
bạc trông như những chẫm hoa râm.
386. TRI âm:
Hiểu biết tiếng đàn. Đời Xuân Thu,
Bá Nha, một người giỏi đàn, Chung
Tử Kỳ, một người giỏi nghe đàn,
đều nổi tiếng, cùng làm bạn với
nhau. Tử Kỳ hiểu được tâm hồn
bạn trong tiếng đàn, khi Bá Nha gẩy đàn,
như núi Thái - Sơn", khi Bá Nha nghĩ đến
dòng chảy (lưu thuỷ), thì Tử Kỳ khen:
"Tiếng đàn cuồn cuộn như sông
Giang, sông Hà". Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha
đứt dây, đập đàn ra, và than rằng:
"Trong thiên hạ không còn ai là tri âm (người
hiểu biết tiếng đàn của mình)
nữa". Về sau, tri âm dùng để
chỉ bạn thân, tri kỷ, hoặc bạn tình.
389. Núi
giả: Chữ Hán là giả sơn, tức
là núi non bộ.
391. Động
đào: Tức động Đào nguyên.
392. Thiên thai: Tên
một núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc,
Tương truyền đời Hán, Lưu Thần
và Nguyễn Triệu lên núi Thiên Thai hái thuốc
gặp tiên nữ rồi cùng nhau kết duyên ở
đấy.
394. Vạn phúc:
Lời chào hỏi chúc mừng khi gặp nhau. Hàn
thuyên: lạnh ấm, lời hỏi thăm
sức khỏe.
396. Phong
nguyệt: Lời thơ trăng gió vui chơi. Non
sông: Lấy núi sông mà nguyền ước (sông
cạn, núi mòn, lời thề cũng không thay đổi).
397. Yên: Bàn
sách, Bút giá: Cái giá để gác bút. Thi đồng:
Cái ống đựng thơ.
398. Đạm
thanh: Màu xanh nhạt, chỉ màu bức tranh cây
thông của Kim Trọng.
399. Phong sương:
Gió và sương. Bức tranh cây thông vẽ
rất tự nhiên như có đượm cả
phong sương.
402. Phẩm
đề: Đề lợi vịnh bức
tranh. Thêm hoa: Thêm vẻ đẹp. ý nói
bức tranh mới vẽ xong, xin đề mấy
vần thơ cho tăng thêm vẻ đẹp.
403. Tay tiên:
Bàn tay người đẹp, người tiên.
405. Nhả
ngọc phun châu: Tài xuất khẩu thành thơ
hay, như nhả ra ngọc, phun ra châu.
406. Nàng Ban: Nàng
Ban Chiêu, đời Đông Hán. Nàng học rộng
tài cao, được vua Hán vời đến giúp
soạn sách.
ả Tạ:
Nàng Tạ Đạo Uẩn, đời Tấn, là
người thông minh, có học thức.
410. Ngọc
bội: Đồ đeo bằng ngọc.
Chữ dùng chỉ chung người ta đã
hiển đạt và có quan chức.
Kim môn: Tức
Kim mã môn nói tắt, tên cửa cung Vị
ương của vua nhà Hán (cửa cung có để
tượng ngựa đồng nên gọi là Kim mã).
Đời Hán Vũ Đế, thường cho
những người có văn tài đến đợi
ở đây, để chờ nhà vua hỏi han
về chính sự. Kiều muốn nói Kim Trọng
không là nhà quan cũng là người học cao.
412. Khuôn xanh: Cũng
như khuôn thiêng, sự sắp đặt của
trời.
414. Tướng
sĩ: Thày xem tướng.
415. Anh hoa:
Những cái tinh hoa tốt đẹp.
419. Giải
cấu: Cuộc gặp gỡ tình cờ.
420. Nhân định
thắng thiên: ý nói: Người ta cũng có
thể làm thay đổi được cả
số trời.
421. Giải
kết: Giải là cởi, kết là
mối buộc. ý nói, chúng ta đã ràng buộc
với nhau, nếu có sự chia rẽ thì quyết
liều thân để giữ lời vàng đá.
423. Trung khúc:
Những sự uỷ khúc ở trong lòng, như nói
tâm tình, tâm sự.
424. Tàng tàng:
Say say, ngà ngà.
425. Giang:
ý nói ngày ngắn lắm.
428. Song sa:
Cửa sổ có che vải sa, cũng như song
the, chỉ phòng ở của Kiều.
430. Hai
thận: Cha mẹ, do chữ song thân,
tức thân phụ (cha) và thân mẫu (mẹ).
433. Nhặt thưa:
Mau và thưa, chỉ ánh trăng. ánh trăng
giọi bóng cành lá cây xuống làm cho mặt đất
chỗ sáng, chỗ tối.
434. Trướng
huỳnh: Trường là cái màn, huỳnh là con
đom đóm. Đời Tấn, Xa Dận ham
học, nhà nghèo, đêm khôn có đèn, phải
bắt con đom đóm đựng vào túi lụa
thưa để mà đọc sách. Chỉ phòng
học của Kim Trọng.
437. Tiếng
sen: Bước chân của người đẹp.
Giấc hoè: Theo sách Nam kha ký: Thuần
Vu Phần đời Đường, ngày sinh
nhật, uống rượu say nằm ngủ dưới
gốc cay hoè già ở phía nam nhà ông, liền
mộng thấy đến một nước
gọi là "Đại Hoè An", được
vua nước ấy gả công chúa, và cho làm quan
Thái thú quận Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi
năm. Khi tỉnh dậy, chỉ thấy dưới
gốc hoè một tổ kiến lớn, trong có con
kiến chúa, mới hiểu đó là nước và
vua Hoè An (gốc hoè yên ổn), còn Nam kha tức là
cành hoè phía nam nhằm thẳng xuống tổ
kiến. Do đó, người ta nói "giấc Nam
kha" hay "giấc hoè" để chỉ
cuộc phú quý hư ảo.
438. Đây nói,
Kim Trọng sực tỉnh thấy ánh trăng
đưa bóng hoa lê tới gần.
439. Đỉnh
Giáp: Đỉnh núi Vu Giáp (hay Vu Sơn). Vua
Sở Hoài Vương đi chơi quán Cao
Đường, mộng thấy một người
đàn bà đẹp, và tự xưng là thần núi
Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Do tích
này, người ta thường dùng chữ "mây
mưa" để chỉ việc ân ái giữa
trai gái.
Non thần:
núi Thần nữ chỗ ở của nàng tiên
gặp vua Sở nói trên.
446. Đài
sen: Cái để thắp nên làm hình hoa sen.
Song đào:
Chỗ cửa sổ có trồng cây đào.
447. Tiên
thề: Giấy hoa tiên (giấy viết thư
từ có vẽ hoa ghi chép lời thề).
452. Đồng:
Đồng tâm, cùng một lòng với nhau. Người
xưa, thường tặng nhau dây lưng gấm,
kết thành vòng hồi văn, ngụ ý thân yêu
quấn quýt, gọi là cái "đồng tâm
kết".
453. Hà: Ráng
mặt trời. Chén hà do chữ hà bôi
thứ chén bằng ngọc màu ráng đỏ, đây
dùng nói chén quý.
Quỳnh tương:
nước ngọt, ví thứ rượu ngon quý.
454. ý nói
Kiều với Kim Trọng, ngồi kề nhau, mùi hương
quần áo như là hoà lộn với nhau, mà trong
binh gương, bóng hai người cũng như
lồng đôi với nhau.
457. Chày sương,
cầu Lam: đã chú ở câu 266.
458. Sàm sỡ:
Lả lơi không đứng đắn.
459. Hồng
điệp, xích thằng: xen câu 268 và 238.
460. Tương
tri: Biết lòng nhau, thông cảm nhau.
461. Nguyệt
nọ, hoa kia: Chuyện trai gái bất chính.
463. Cầm
đài: Cái đài ngồi gẩy đàn
của Tư Mã Tương Như, một nhà
giỏi đàn đời Tây Hán.
464. Nước
non: Do chữ lưu thuỷ, cao sơn (nước
chảy, non cao), những tiếng đàn của Bá
Nha mà Chung Tử Kỳ nghe và phân biệt được.
Đây Kim Trọng đề cao Kiều lên ngang tài
với Bá Nha, và tự cho mình là Chung Kỳ.
465. Tiện
Kỹ: Nghề mọn, lời nói nhún.
467. Cầm trăng:
Tức nguyệt cầm, ta gọi là đàn
nguyệt.
468. Tây nâng
ngang mày: Thái độ tỏ ý trân trọng.
470. Bận lòng:
khó nghĩ. Lắm thân: tiếng cổ, có
nghĩa là "lẵm thay".
471. Vũ, văn:
Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ.
472. Cung thương:
xem câu 31.
473. Hán sở
chiến trường: Bãi chiến trường
giữa đời Hán, và nước Sở.
Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao tổ)
và Hạng Vũ (Sở Bá vương) đánh nhau
nhiều trận kịch liệt.
474. Tiếng
sắt, tiếng vàng: Tiếng khí giới
bằng sắt, bằng kim loại va chạm xô xát
nhau.
475. Tư mã
phượng cầu: Tư mã Tương Như
người đời Hán, có văn tài, ở
đất Lâm Cùng, Trác Vương Tôn, có con gái là
Văn Quân, người đẹp mà mới goá
chồng. Tương Như gẩy khúc đàn
"Phượng cầu hoàng" để tỏ
tình với Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm
ấy, bỏ nhà trốn theo Tương Như.
477. Kê Khang,
Quảng Lăng: Kê Khang, đời Tam quốc,
đêm gẩy đàn cầm ở đình Hoa Dương,
bỗng có người khách lạ tới dạy
cho khúc "Quảng Lăng tán", âm điệu
tuyệt hay.
478. Lưu
thuỷ, hành vân: Nước chảy, mây bay. ý
nói khúc đàn thanh thoát lưu loát.
479. Quá quan:
Đi qua cửa ải. Chiêu Quân: Tên chữ
của Vương Tường, một cung nữ
đời Hán Nguyên đế, bị gả cho chúa
Hung nô, khi qua cửa ải, vào đất Hung nô,
Chiêu Quân thường gảy khúc đàn tỳ bà
để tỏ nỗi lòng nhớ nhà, nhớ nước.
482. Tiếng
suối: Tiếng đàn nghe đục như
tiếng ầm ì của dòng suối dội ở lưng
chừng núi xuống.
488. Chín khúc:
Chỉ các khúc ruột chứ không nhất
thiết phải đúng chín khúc ruột.
491. Tiêu tao:
Chính nghĩa là tiêu điều, thê hương,
đây dùng chỉ tiếng đàn buồn rầu,
sầu não.
492. Dột: ủ
dột.
Nao nao: Xao
xuyến, đau xót.
495. Lời vàng:
Lời khuyên quí giá.
497. Hoa hương:
Hoá có hương thơm. Thức hồng: vẻ
hồng. Càng đàn, càng thơ, nàng Kiều càng
đẹp, tình ý đôi bên càng nồng nàn.
501. Làm chơi:
Xem vấn đề là thường, không quan
trọng.
503. Yêu đào:
Cây đào non, lấy chữ ở thơ "Đào
yêu", Kinh thi: Đào chi yêu yêu (cây đào
non mơn mởn) ví với người con gái
trẻ mà đẹp, đã đến tuổi
đi lấy chồng.
505. Bố
kinh: Bố là vải, kinh là cây
kinh, một loại cây mọc thành cụm, hoa màu tía
nhạt, cành và thân cứng rắn, thời xưa,
những phụ nữ nghèo thường dùng cành nó
làm trâm cài tóc.
ở đây, ý
Kiều nói: Đã cho vào hang người vợ chính
thức như hạng bố kính thời xưa (không
phải là nhân tình, nhân ngãi).
506. Tòng phu: Theo
chồng, chí cái đạo làm vợ, theo quan
niệm Nho giáo xưa.
507. Trên
Bộc, trong dâu: Trong bãi dâu, trên sông Bộc. Xưa
ở nước Vệ, đời Xuân Thu, có
tục trai gái hẹn hò, tụ hội nhau ở bãi
dâu trên sông Bộc để hát hổng, đùa
bỡn, làm việc dâm đãng.
511. Kỳ
ngộ: Cuộc gặp gỡ kỳ lạ,
chỉ cuộc nhân duyên tốt đẹp của
đôi tài tử giai nhân.
514. Thôi, Trương:
Theo Tây sương ký: Thôi Oanh và Trương
Cung, tên tự là Quân Thuỵ, đời Đường,
là đôi trai tài, gái sắc, đẹp đôi,
vừa lứa, đã gặp gỡ và yêu nhau ở
chái tây chùa Phổ Cứu, đất Bổ Đông,
nhưng vì đã đi lại ăn nằm với
nhau, nên về sau chán nhau mà bỏ nhau.
Đá vàng: Đây
chỉ tình vợ chồng chung thuỷ, đoan chính.
514. Yến
anh: Đây ví với cặp trai gái.
515. Chắp cánh
liền cành: Nói khi ăn nằm ân ái với
nhau. Theo bài Trường hận ca của
Bạch Cư Dị, vua Đường Huyền tông
và Đường quý phi nguyện với nhau trong
đêm "thất tịch": Tại thiên
nguyện tác ti dực diểu, tại địa
nguyên vi liên lí chí (trên trời nguyện làm
đôi chim liền cánh, dưới đất
nguyện là hai cây liền cành).
517. Mái tây:
Do chữ tây sương, tức chái tây chùa
Phổ Cứu, nơi Thôi, Trương gặp
gỡ nhau.
Hương
nguyền: Nén hương để thề
nguyền.
519. Gieo thoi:
Các sách thường dẫn điển sau đây:
Tạ Côn đời Tấn, ghẹo người
con gái đang ngồi dệt cửi, bị cô ta
cần cái thoi ném vào mặt, gẫy mất hai cái
răng (theo Tấn thư).
524. Vì:
Nể, tiếng cổ, cũng có nghĩa là yêu (yêu
vì Nặng lòng xót liễu vì hoa).
525. Bóng
tầu: Bóng mái nhà (Tàu: Miếng gỗ dài
đặt dọc ở mái hiên, để đỡ
lấy mái nhà, gần chỗ giọt tranh).
Vẻ ngân: Vẻ
sáng như bạc, chỉ ánh trăng.
528. Sân đào:
Sân có trồng cây đào.
530. Gia đồng:
Người phục dịch công việc ở
trong nhà.
Thúc phụ:
Chú ruột.
Từ
đường: Từ bỏ nơi nhà ở,
tức là chết.
532. Lữ
thấn: Chết nhưng mà chưa chôn, quan tài
còn quàn tạm ở nơi đất khách.
533. Liêu dương:
Tên đất, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh (Trung
Quốc) nơi chủ ruột Kim Trọng chết.
Sơn khê: Núi
và khe ngòi.
534. Xuân
đường: Cha, Xuân là một loại cây
sống rất lâu. Người sau nhân gọi cha là
xuân hay Xuân đường (nhà xuân),
có ý mong cha được tuổi thọ như cây
ấy.
Hộ tang: Trông
coi việc tang.
535. Mảng:
Tiếng cổ.
Mảng tin:
Mới chợt nghe tin.
536. Đài
trang: Do chữ trang đài, nơi trang
điểm của phụ nữ.
537. Đinh
ninh: cẵn kẽ, đến nơi đến
chốn.
539. Đôi
hồi: Giãi bày, trò chuyện hết lời
với nhau.
540. Trao tơ:
Chỉ việc kết hôn. Theo sách Khai nguyên Thiên
bảo di sự: Trương Gia Trinh, tể tướng
nhà Đường, có năm con gái, muốn gả
một người cho Quách Nguyên Chấn, đô
đốc Lương Châu, người đẹp
mà có tài nghệ, bèn bảo năm con đứng
sau một bức màn, mỗi người cầm
một sợi dây tơ dài, dòng ra ngoài, và cho Nguyên
Chấn tuỳ ý kéo lấy một sợi, trúng
sợi nào thì lấy người cầm sợi
ấy. Nguyên Chấn được kéo sợi tơ
đỏ, lấy người con thứ ba, rất
đẹp.
543. Ba đông:
Ba năm để tang.
544. Chầy: Còn
chậm, còn lâu ngày.
545. Gìn vàng
giữ ngọc: Giữ thân thể cho được
khoẻ mạnh, và cũng ngụ ý giữ gìn
mối tình cho được thuỷ chung, trong
sạch.
556. Ôm cầm
thuyền ai: Ôm đàn sang thuyền của người
khác, tức là đi lấy chồng khác.
566. Quyên:
Chim đỗ quyên, tức chim quốc. Đây
tả cảnh cuối hè, sang thu. Tiếng quyên kêu
còn ra rả (nhặt) đầu cành và bóng
nhạn đã thấy bay loáng thoáng (thưa) ở
chân trời.
567. Cữ,
tuần: Người xưa thường tính
bảy ngày là một cữ, và mười ngày là
một tuần.
568. Tương
tư: Nguyên nghĩa là ở xa cách mà cùng
nhớ nhau, sau người ta mượn để
nói sự nhớ nhau của đôi trai gái yêu nhau.
570. Chín
hồi: Do chữ cửu hồi, ruột
chín lần bị đau quặn lại. |
|