.

Kiều thăm mộ Đạm Tiên 

Nguyễn Du (1766-1820)

.
1..Trăm năm trong cơi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn ḷng.


5.. Lạ ǵ bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong t́nh có lục c̣n truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,


10.. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt ḷng,
Vương Quan là chữ, nối ḍng nho gia.


15.. Đầu ḷng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,


20.. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.


25.. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đ̣i một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,


30.. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng năo nhân.


35.. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Ngày xuân con én đưa thoi,


40.. Thiều quang chín chục đă ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.


45.. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập d́u tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang g̣ đống kéo lên,


50.. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.


55.. Nao nao ḍng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: Sao trong tiết thanh minh,


60.. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một th́,
Xôn xao ngoài cửa hiếm ǵ yến anh.


65.. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt găy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng t́m chơi.
Thuyền t́nh vừa ghé tới nơi,


70.. Th́ đà trâm gẫy b́nh rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đă rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự t́nh,
Khéo vô duyên ấy là ḿnh với ta.


75.. Đă không duyên trước chăng mà,
Th́ chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,


80.. ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Ḷng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đă đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.


85.. Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh ṃn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,


90.. Nào người tích lục tham hồng là ai ?
đă không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.


95.. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,


100.. Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài


105.. Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,


110.. Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đă ngả dậm về c̣n xa.


115.. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, c̣n là tinh anh,
Dễ hay t́nh lại gặp t́nh,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,


120..Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
ào ào đổ lộc rung cây,
ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.


125.. Mắt nh́n ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu t́nh ta lại gặp ta,
Chớ nều hiển mới là chị em.
Đă ḷng hiển hiện cho xem,. 

Tạ ḷng nàng lại nối thêm vài lời.


130..Ḷng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đă tiếng nghe gần gần.


135.. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu gịn,


140.. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự t́nh.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.


145.. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,


150..Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhă, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.


155..Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc ṃng.
May thay giải cấu tương phùng,


160..Gặp tuần đố lá thoả ḷng t́m hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
T́nh trong như đă, mặt ngoài c̣n e.


165.. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người c̣n nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,


170..Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch ḍm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.


175..Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một ḿnh lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
Người mà đến thế th́ thôi,


180..Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên ǵ hay không?
Ngổn ngang trăm mối bên ḷng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính t́nh.


185..Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một ḿnh thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,


190.. Sen vàng lăng đăng như gần như xa.
Chào mừng đón hỏi ḍ la:
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ?
Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đă quên.


195..Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới ḍng nước chảy bên trên có cầu.
Mấy ḷng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng tŕnh hội chủ xem tường,


200.. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.


205.. Kiều vâng lĩnh ư đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào tập đoạn Trường


210.. Th́ treo giải nhất chi nhường cho ai.
Thềm hoa khách đă trở hài,
Nàng c̣n cầm lại một hai tự t́nh.
Gió đâu xịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng ḿnh chiêm bao.


215..Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hăy ra vào đâu đây.
Một ḿnh lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đă đành,

 


220.. Biết duyên ḿnh, biết phận ḿnh thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đ̣i cơn lại sụt sùi đ̣i cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ ǵ ?


225..Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hăy dầm dề giọt mưa ?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả đạm Tiên,


230.. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra ǵ mai sau !

 


235.. Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu,
Bỗng không mua năo chuốc sầu nghĩ nao.
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đă dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

 


240.. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một ḿnh.
Cho hay là thói hữu t́nh,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.

 

2. Người có tài th́ thường gặp mệnh bạc, h́nh như Tài, mệnh ghét nhau, xung khắc với nhau, hễ được hơn cái này th́ phải kém cái kia.

3. Bể dâu: Trong văn chương cổ của chúng ta thường dùng thành ngữ "băi bể nương dâu", hoặc nói tắt là "bể dâu" để chỉ những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời.

5. Bỉ sắc tư phong: Cái kia kém th́ cái này hơn, nghĩa là: Được hơn điều này th́ bị kém điều kia.

6. (Tạo hoá ghen với người đàn bà đẹp). ư nói: Người đàn bà đẹp thường gặp cảnh ngộ không hay.

7. Cảo thơm hay Kiểu thơm: do chữ phương cảo, nghĩa là pho sách thơm pho sách hay.

8. Phong t́nh: Chỉ những chuyện ái t́nh trai gái.

Sử xanh: Thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc, cật trúc màu xanh, nên gọi là thanh sử.

9. Gia-tĩnh: Niên hiệu vua Thế Tông, nhà Minh (1522-1566).

10. Hai kinh: Tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc).

11. Viên ngoại: Một chức quan giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục-triều. Về sau, "Viên ngoại" dần dần trở thành một hư hàm. Chữ "Viên ngoại" ở đây được dùng theo nghĩa này.

14. Chữ: Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào cũng có "danh" là tên chính, và "tự" là tên chữ ("Danh" đặt từ khi sinh ra, c̣n "tụ" th́ đến khi hai mươi tuổi mới dựa theo "danh" mà đặt ra).

15. Tố Nga: Chỉ người con gái đẹp.

17. Thuư Kiều và Thuư Vân, mỗi người có một vẻ riêng ví như mai có "cốt cách" của mai, tuyết có "tinh thần" của tuyết.

20. Khuông trăng: Khuôn mặt đầy đặn, tṛn trĩnh, xinh xắn như mặt trăng. Nét ngài: nét lông mày.

21. Thốt: Tiếng cổ có nghĩa là nói.

Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.

25. Thu thuỷ: Nước mùa thu, Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu noi này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.

27. Bài ca của Lư Diên Niên, đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mĩ nhân có câu:

Nhất cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc

Nghĩa là:

Quay lại nh́n một lần th́ làm nghiêng thành người
Quay lại nh́n lần nữa th́ làm nghiêng nước người.

Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ.

Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ nhất cố, tái cố ở trên.

28. Câu này có nghĩa là về "sắc" th́ chỉ có một ḿnh Kiều là nhất, về "tài" th́ họa may ra th́ c̣n có người thứ hai nữa.

31. Cung, thương: Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương giốc, truỷ, vũ.

Lầu bậc: Làu thông cung bậc.

32. Hồ cầm: Một loại đàn tỳ bà.

Hồ cầm một trương: Một cây đàn hồ cầm.

34. Bạc mệnh: Tên bản đàn do Thuư Kiều sáng tác. "Bạc mệnh" nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh.

Năo nhân: Làm cho người ta nghe mà năo ḷng.

35. Hồng quần: Cái quân màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.

36. Cặp kê: Đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cài trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến th́ hứa gả chồng cho nên bắt đầu búi tóc cài trâm.

38. Tường đông: Bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ "tường đông" để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.

39. Con én đưa thoi: Chim én bay đi bay lại như chiếc thoi đưa.

40. Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đă ngoài 60, tức là đă bước sang tháng ba.

43. Thanh minh: Là tiết đầu của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.

44. Tảo mộ: Quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên.

Đạp thanh: Dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.

45. Yến anh: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. Đây ví với cảnh những đoàn người rộng ràng đi chơi xuân.

48. Ngựa đi như nước: Ngựa xe qua lại như nước chảy, hết lớp này đến lớp khác.

áo quần như nêm: ư nói người đông đúc, chen chúc.

49. Ngổn ngang g̣ đống kéo lên: Những đoàn người ngổn ngang kéo nhau lên nơi g̣ đống.

50. Vàng - vó: Một loại vàng giấy, dùng trong việc đưa ma hoặc lễ hội.

53. Tiểu khê: Ng̣i nước nhỏ.

62. Ca nhi: Con hát.

65. Hồng nhan: Má hồng, chỉ người đẹp.

66. Cành thiên hương: Cành hoa thơm của trời, ví với người đẹp.

70. Trâm găy b́nh rơi: ư nói người đẹp đă chết.

72. Dấu xe ngựa: Dấu vết xe ngựa của những khách đến chơi bời trước đấy.

74. Bấy: Biết bao nhiêu.

77. Nếp tử, xe châu: Quan tài bằng gỗ tử và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. ư nói người khách mua quan tài và thuê xe tang chông cất Đạm Tiên một cách chu đáo.

78. Bụi hồng: do chữ hồng trần, nghiă là đám bụi đỏ.

Đây muốn ám chỉ nấm mộ nằm bên đường, một nấm mồ lưu lại trong cơi trần gió bụi.

79. Thỏ bạc, ác vàng: Người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giă thuốc, trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.

82. Châu: Hạt ngọc châu, đây chỉ nước mắt.

85. Hoá công: Thợ tạo hoá, tức là trời.

86. Phượng: Chim phượng trống. LoanI: Chim phượng mái. Trong văn cổ, loan phương dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm tiên, ngày trước.

90. Tiếc lục tham hồng: ư nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.

94. Suối vàng: Do chữ Hoàng tuyền ở dưới đất có mạch suối, mà đất thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.

97. áy: Vàng úa.

112. Vận vào: ư nói lời nào cũng như ám chỉ vào ḿnh.

113. ÂÂAm khí: Cái khí cơi âm, cơi chết, ở đây chỉ không khí băi tha ma.

116. Thể: Thể xác (hữu h́nh). Phách: Chỉ những cái ǵ vô h́nh chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.

118. Hiển linh: Tỏ sự linh thiêng cho mọi người biết.

126. Tinh thành: Ḷng thành thuần khiết, ḷng chí thành.

128. U hiển: U là tối, chỉ cơi chết. Hiển là sáng rơ, chỉ cơi sống. ư nói: chớ nề kẻ sống, người chết, kẻ cơi âm , người cơi dương.

136. Tay khấu: Tay càm cương ngựa. ư nói, buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả.

Dăm băng: Như nói dặm đường đi. Băng là lướt đi.

137. Lưng túi gió trăng: Tức là lưng túi thơ. Những nhà thơ thời xưa hay ngâm phong vịnh nguyệt, nên người ta gọi thơ là phong nguyệt (gió trăng).

139. Câu: con ngựa, non trẻ, xinh đẹp.

142. Tự t́nh: Chuyện tṛ, bày tỏ tâm t́nh.

143. Hài văn: Thứ giày thêu mà nho sĩ thời xưa thường dùng.

Dặm xanh: Dặm cỏ xanh.

144. Cây quỳnh, cành giao: Cây ngọc quỳnh và cây ngọc giao. ư nói vẻ khôi ngô tuấn tú của Kim Trọng như làm cho cả một vùng cũng hoá thành đẹp.

146. Hai Kiều: Hai người con gái xinh đẹp, tức hai chị em Thuư Kiều.

148. Trâm anh: Trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ của người sĩ tử, quan chức. Nhà trâm anh: Chỉ những nhà thế tộc phong kiến, có người đỗ đạt, làm quan.

149. Phú hậu: Giàu có.

150. Nết đất: Theo lối nhà, theo ḍng dơi trong nhà, mạch đất đó có truyền thống văn chương.

151. Phong tư: Dáng điệu.

Tài mạo: Tài hoa và dung mạo.

152. Phong nhă: Phong lưu nho nhă. Hào hoa: Sang trọng phong cách có vẻ quí phái. Vào trong là ở trong nhà, Ra ngoài là ra giao thiệp với đời.

154. Đồng thân: Bạn cùng học.

155. Hương lân: Làng xóm, ư nói: Vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.

156. Đồng tước: Đời tam quốc, Tào Tháo đào sông Chương Hà, bắt được đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở gần đó một toà lâu đài, đặt tên là đài Đồng Tước (sẻ đồng), và định hễ đánh thắng Đông Ngô th́ bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều (là vợ Tôn sách và vợ Chu Du) đem về đấy để vui thú cảnh già. Khoá xuân ở đây là khoá kín tuổi xuân, tức cấm cung, tác giả mượn điển cũ để nói lóng rằng: nhà họ Vương có hai cô gái đẹp cấm cung.

157. Buồng thêu: Buồng người con gái.

158. Chốc ṃng: Tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu, bấy nay.

159. Giải cấu tương phùng: Cuộc gặp gỡ t́nh cờ.

160. Đố lá: Hội đố lá, c̣n gọi là diệp hư, một tục chơi xuân có từ đời nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán việc may rủi. Đây là dịp để họ làm quen và t́m hiểu nhau.

161. Bóng hồng: Bóng người con gái. Phụ nữ Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ nên gọi là bóng hồng.

162. Xuân lan, thu cúc: Hai chị em Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, ngựi như lan mùa xuân, người như cúc mùa thu.

163. Quốc sắc: Sắc đẹp nhất nước, chỉ Thuư Kiều.

166. Chỉn: Tiếng cổ. Chin khôn: chẳng xong, không xong.

173. Gương nga: Theo truyền thuyết trong cung trăng có chị Hằng Nga, nên thường gọi trăng là "gương nga".

174. Vàng gieo ngấn nước: ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.

175. Đông lân: Xóm bên đông, nơi có con gái đẹp ở, cũng giống nghĩa chữ "tường đông" (xem chú thích 38).

Hải đường là ngọn đông lân: Cây hải đường ở xóm đông ngả ngọn xuống.

177. Bóng nga: Bóng trăng.

179. Người mà: Chỉ Đạm Tiên.

181. Người đâu: Chỉ Kim Trọng.

186. Triện: Lan can.

187. Tiểu Kiều: Xem chú thích 146.

188. Phong vận: Yểu điệu.

Thanh tân: Thanh tú tưới tắn.

189. ư nói mặt và thân h́nh người tiểu kiều đó như có sự và tuyết in phủ lấy.

190. Sen vàng: Chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn Hầu, đời Tề (Nam Bắc Triều), rất yêu quí phi họ Phan, từng đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sing liên hoa" (mỗi bước đi nở ra một hoa sen).

Lăng đăng: Tiếng cổ, có nghĩa là đi từ từ chậm chậm, chập chờn mờ tỏ.

192. Đào nguyên: Đời Tần có một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một ḍng suối đi măi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống tuyệt đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ "nguồn đào" hay "động đào" để chỉ cảnh tiên.

193. Thanh khí: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" (cùng một thứ tiếng th́ ứng với nhau, cùng một loại khí th́ t́m đến nhau).

195. Hàn gia: Hèn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng, lạnhlẽo, nói khiêm tốn.

Tây thiên: Phía trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.

197. Hạ cố: Trông xuống, chiếu cố đến nhau.

198. Hạ tứ: Ban xuống, ban cho. Cả câu: Hai bài thơ của Kiều lời đẹp ư hay, thật quư báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho những thỏi vàng vậy.

200. Đoạn trường: Đứt ruột, chỉ sự đau đớn bi thương. Số đoạn trường: Sổ ghi tên những người phụ nữ bạc mệnh.

201. Quả kiếp nhân duyên: Quả là kết quả. Nhân là nguyên nhân, ư nói duyên (tốt). hay kiếp (xấu) cũng là có nhân với quả cả.

208. Tú khẩu, cẩm tâm: Miệng thêu, ḷng gấm. ư nói thơ Kiều làm rất hay.

222. Đ̣i cơn: Nhiều cơn.

223. Trưởng loan: Màn có thêu chim loan.

224. Nhà huyên: chỉ vào bà mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo phiền.

226. Hoa lê: Ví với người đẹp, giọt mưa ví với giọt nước mắt.

228. Dưỡng sinh: Nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công ơn cha mẹ.

235. Mộng triệu: Điều thấy trong mộng.

238. MạchTương: Ḍng nước mắt. Tương là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) chảy vào hồ Động Đ́nh. Ngày xưa, vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi t́m, đến ngồi trên bờ sông Tương, khóc rất thảm thiết, nước mắt vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc đó hoá thành những điểm lốm đốm. Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch Tương, giọt Tương để chỉ nước mắt phụ nữ.

244. Tơ mành