|
Viết về văn trẻ hôm nay là một cám
dỗ. Cám dỗ của ḷng tự kiêu ngấm
ngầm: được là một người viết
trẻ viết về những người viết
trẻ. Cám dỗ của những lời kêu gọi
đồng hội đồng thuyền, cám dỗ
của niềm vui được viết về
những cái mới.
Viết về văn trẻ hôm nay là một thử thách.
Thử thách khi được yêu cầu phải
lựa chọn thái độ: một người
viết trẻ phải đứng cạnh những người
viết trẻ, phải có đôi mắt xanh để
ca ngợi những khám phá mới, khẳng định
những con đường mới của họ.
Thử thách khi lúng túng t́m định nghĩa:
thế nào là văn trẻ? Nếu tính theo tuổi th́
đúng rồi. Vi Thuỳ Linh mới hai mươi
tuổi. Phan Nhiên Hạo, Văn Cầm Hải,
Nguyễn Hữu Hồng Minh và Phan Huyền Thư cùng
độ tuổi ba mươi. Không trẻ được
như các nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng
nếu so sánh "mặt bằng" th́ quả là
trẻ. Có điều Octavio Paz nói "các nhà thơ
không có tiểu sử. Tác phẩm của họ là
tiểu sử của họ đấy" Nếu
vậy, một nhà văn trẻ phải là một nhà
văn có tác phẩm "trẻ", hay nói cho chính xác
hơn, phải có những tác phẩm
"mới". Nếu xếp theo tiêu chí này, Bùi
Hoằng Vị, Nguyễn B́nh Phương, Nguyễn
Quốc Chánh, Đinh Linh và Ngô Tự Lập sẽ là
những nhà văn trẻ, tuy tuổi đời
của họ rơ ràng khó có thể xếp chung với
các nhà văn của lứa tuổi hai mươi, ba mươi.
Viết về văn trẻ hôm nay là một nỗi lo
âu. Lo âu khi so sánh họ với hai cây cổ thụ trên
văn đàn mười năm trước: Nguyễn
Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Bảo Ninh,
Nguyễn Quang Lập cũng là những "cây cao bóng
cả", nhưng là những cây cao bóng cả
của một thời đă qua, do họ chỉ ch́m
đắm trong những ám ảnh của quá khứ
" bởi v́ là một nỗi đau nên quá khứ
c̣n sống măi. Và bởi nỗi đau quá khứ c̣n
sống măi nên về sau ta mới có một quăng đời
êm lặng, một nếp sống b́nh yên, một tư
duy thong thả, một tấm ḷng khoan thứ và
một cảm giác có hậu cùng con người cùng
số phận". Viết về cái hiện tại
bằng một bút pháp hiện đại thành công hơn
cả, chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Phạm
Thị Hoài, hai người, buồn thay, hay may thay cho các
nhà văn trẻ, những năm gần đây
hầu như không tái xuất trên văn đàn.
Viết về văn trẻ hôm nay là một niềm
hạnh phúc. Hạnh phúc bởi cảm giác rùng ḿnh
sung sướng khi ghé vào với Tầng trệt thiên
đường của Bùi Hoằng Vị, khi bắt
gặp một Phan Nhiên Hạo hiện đại,
một Phan Huyền Thư trăn trở âu lo, một
Ngô Tự Lập bí ẩn mà trong sáng. Hạnh phúc nh́n
thấy một thế hệ những người
viết trẻ đang sáng tạo và đập
vỡ, đang thành công và thất vọng, đang khao
khát học hỏi và cũng đang cười
nhạo những cú xoa đầu kẻ cả của
những người đi trước.
1-Thơ trẻ- một khao khát
thay đổi chưa mấy thành công
Trong một bài tiểu luận viết cách đây
gần năm năm, tôi có đề cập đến
những nhà văn của một thế hệ mà tôi
tạm gọi là thế hệ hoài nghi: Phạm
Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Trung Chính,
Bảo Ninh.... Đó là một thế hệ biết hoài
nghi những giá trị đă được định
giá trong xă hội và cố gắng t́m kiếm
những ǵ người ta che dấu sau lớp sơn
phết của cái gọi là hiện thực. Lớp
người viết trẻ ngày hôm nay thuộc về
một thế hệ khác, một thế hệ đă
không c̣n lệ thuộc vào quá khứ vàng son của
những nhà văn lớp trước. Họ không c̣n
hoài nghi, mà đă biết gạt bỏ. Nhưng
loại bỏ có đồng nghĩa với đánh
mất? Một nhà phê b́nh tên tuổi cho rằng,
vốn văn hóa của các cây bút trẻ quá mỏng
để có thể tạo nên những tác phẩm có
giá trị. Sự thực chưa hẳn đă ở
chỗ đó. Sự thực là hành trang văn hóa
của hai thế hệ đă khác nhau, và do không t́m
được tiếng nói chung để dung ḥa hai hành
trang văn hóa đó, thế hệ đi trước
thường cảm thấy thất vọng khi di
sản văn hóa mà họ có h́nh như không t́m
tới được với những nhà văn
lớp sau. Nếu như trước đây, người
ta hay trích dẫn Tolstoi, Dostoievski, th́ hiện nay,
những người đỡ đầu về tư
tưởng cho các tác giả trẻ lại là Henry
Miller, Nietzsche, Maria Rilke, Sartre, Kafka hay Borges. Một nhân
vật của Nguyễn Hữu Hồng Minh trong
truyện ngắn Tháo đáy, cảm thấy đau xót
nhất khi phải bán những "Người dưng,
Dịch hạch của Albert Camus, LaNausee, Bức tường
của Sartre, các sách của KoboAbe, Maria Rilke, Shopenhauer,
Faulkner". Không phải ngẫu nhiên mà các tác
giả trên không chỉ là những đại văn hào
mà c̣n là những triết gia vĩ đại. Sự
khao khát nắm bắt những vấn đề
triết học, t́m ra những câu trả lời có
thể quân b́nh tâm thế đang bất ổn v́
thiếu niềm tin đă thu hút các nhà văn trẻ
tới với các nhà văn-triết gia đó.
Tuy vậy, ảnh hưởng đến muộn
của triết học hiện sinh đối với các
nhà văn trẻ, tiềm ẩn một nguy cơ
tụt hậu. Bởi v́, những tác giả nêu trên
đă, hoặc thành danh ở thế kỷ trước,
hoặc đă được trao giải Nobel cách
đây có....bốn năm chục năm ǵ đó! Ba
chục năm trước, Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện, ở lứa tuổi của các nhà văn
trẻ hiện giờ, cũng đă từng "say mê
đến đứng ngồi không yên" triết
học hiện sinh. Hiếm có nhà văn trẻ nào
hiện nay, từ một triết học hiện sinh lư
thuyết lại chuyển hóa được thành
một triết lư sống của ḿnh, một tư
thế dấn thân, nhập cuộc cho tác phẩm
của ḿnh. Càng hiếm hơn những tác giả
trẻ theo kịp với ḍng chảy của văn
học và triết học thế giới
đương đại, với những Kundera, Salman
Rushdie, Gao Xingjiang, S.Hawkin, Richard Dawkin, Brian Goodwin....Chính
v́ thế, chúng ta không khỏi bực ḿnh khi hay
bắt gặp trong câu chuyện của các tác giả
trẻ những đoạn triết lư ngoại đề
cũ kỹ rất "hiện sinh" cho sang
trọng.
Một trong những khao khát mănh liệt nhất
của những nhà văn trẻ là cố gắng thay
đổi nghệ thuật viết, một nghệ
thuật mới sẽ thay thế sự tŕ kéo của
chủ nghĩa hiện thực đơn giản. Chính
v́ vậy, những từ ngữ như siêu hiện
thực, hiện thực huyền ảo, hậu
hiện đại.., có sức cám dỗ như
một thỏi nam châm cực mạnh đối
với họ. Những người mạnh mẽ
nhất trong những thử nghiệm là các nhà thơ
(Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh,
Nguyễn Quốc Chánh, Phan Huyền Thư). Họ sáng
tác thơ văn xuôi, cố gắng triệt tiêu
vần trong thơ, viết không dấu, làm t́nh làm
tội các câu thơ bằng những cú hẫng
xuống ḍng đột ngột, bằng những
biểu tượng và liên tưởng thơ hết
sức mới lạ:
"Trong mắt tôi không điểm
danh sự hiện diện của cây của thú
của người và của cả đường chân
trời hách dịch
Trong mắt tôi chỉ những khoảng cách những
tầng lệch những góc tối những hộp
đen những loèng quèng những
ám"
(Nguyễn Quốc Chánh- Khí hậu đồ
vật-NXB Trẻ- tr.17)
Những thử nghiệm như vậy có thể
gặp ở bất cứ tập thơ nào của các
cây bút thơ trẻ đă nói tới ở trên.
Một mặt, chúng ta phải thông cảm và hoan nghênh
những "viên đá lát đường",
những người đă dám đi tiên phong trong
những thử nghiệm không thành công để
tạo đà cho những sáng tạo khác của tương
lai. Mặt khác, chúng ta cũng nên nhận thấy
những thử nghiệm như vậy nhiều
phần đi vào ngơ cụt, mà cái chính, là do thái
độ cực đoan khiến họ hiểu chưa
thấu đáo nghĩa của chữ hiện đại.
Trong diễn từ nhận giải Nobel của ḿnh,
Octavio Paz đă viết rất hay về chủ nghĩa
hiện đại của ông: "Nhiều lần tôi
đánh mất ḿnh và lại t́m thấy ḿnh trong
cuộc phiêu du đi t́m cái Hiện Đại. Tôi
trở về cội nguồn của ḿnh và tôi
thấy rằng cái hiện tại không ở ngoài mà
ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng
thời là thời đại cổ nhất, nó là ngày
mai và là ngày bắt đầu của thế giới,
nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào
đời. Thời hiện tại mới tinh khôi.
Vừa mới được đào lên khỏi ḷng
đất, giũ đi bụi bặm nhiều thế
kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua
của sổ nó biến mất. Thời hiện
tại là sự đồng thời cùng một lúc
của các thời đại, của các sự
hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá
khứ tức thời chỉ là để giữ
lại một quá khứ ngàn năm".
Khi nào cái "quá khứ ngàn năm" kết
hợp được với một "hiện
tại tức thời", các nhà thơ trẻ
sẽ cho ra đời được những câu thơ
hay và trong trẻo:
"Tôi chỉ là chim sâu
nhỏ nhoi giọng hát giữ dân tộc hay hát
tự thuyết minh cho đồng lúa, rừng hoang, người
thổ dân vui ca hành tŕnh
vượt qua giai đoạn thành kiến
nhớ buổi sinh tiền
cơn hát gió
con số không vô t́nh thời đại đeo ngón tay
áp út
níu ngọn nắng xanh hơn khi về với đất
cái nh́n nguyên thể
gọi miền phủ định
bông hoa cỡi trần cánh
tặng tôi hương ảo giác đỏ hồng nhũ
hoa
bầy mưa thôi nôi, âm thanh kêu xé hai hàm răng thanh
lịch
thời không cần nhạc đệm em vẫn sinh ra
trữ t́nh như không
tôi trở thành siêu sao
đá mắt trời vào gôn hư vô
bắt gặp câu hát lạ
vận nâu sồng viếng chùa!"
(Giọng hát của gió- Văn Cầm Hải)
Nỗ lực đổi mới của thơ trẻ,
mặt khác, cũng chưa ra khỏi ảnh hưởng
của những sáng tác mở đường của
Đặng Đ́nh Hương, Dương Tường,
Lê Đạt, Hoàng Hưng...những người cũng
không mấy thành công trong khao khát đổi mới thơ.
Khi Phan Huyền Thư viết
"Chích choè lửa ngửa
cổ thơ
thơ không lửa
đốt giọng thành kẻ khác"
(Không thường)
"Con dế thất t́nh
vấp phải giọt sương
Chiến binh Thạch sùng tặc lưỡi uống
đêm"
( Men theo mùa hạ)
hay Văn Cầm Hải "gió chiêm bao leo lét mắt
tre" (Miền phù thủy) th́ những vần liên
tiếp của họ "lửa ngửa cổ thơ",
"leo lét mắt tre" không xa lạ bao nhiêu với
những
"Máy kéo gặm xứ đồng
tơ ơ cỏ
Nghé sắt buồn lưng sáo đá lon xon"
hay " bầy em én tin xuân tṛn mẩy áo" trong Sông
quê của Lê Đạt hoặc " giếng ngọc
ễng ương quát đêm tiền sử" hay
"Ta con chim cu
về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ
về sân đất trắng"
trong Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm
Cực đoan là đặc tính, vừa là ưu điểm
vừa là nhược điểm của những người
viết trẻ. Chính v́ thế mà t́nh dục, cái taboo
đối với những nhà văn lớp trước,
lại được các nhà văn lớp sau khai thác
triệt để. Sự khai thác thái quá của
họ, đôi khi, hàm nghĩa thách thức thế
hệ trước. Chính v́ mang sắc thái thách
thức như vậy, nên họ không tính đến tính
hiệu quả của những vú, những khỏa thân,
những ngực có thực cần thiết trong câu thơ
hay không. Do đó, những h́nh ảnh đấy không
c̣n là tiếng nói của cơ thể, của bản
năng, mà là tiếng nói của lư trí khoác bộ áo
choàng t́nh dục. Khi Vi Thùy Linh viết :
"Mẹ viết truyện cổ tích cho con khi đang
trên dàn lửa hiến tế ham muốn được
gần cha
Khi đôi môi cha chưa mọc trên mẹ, mẹ
vẫn ước có con vào mùa cha gặp mẹ
Chỉ có cha và con là thiêng liêng; kiến tạo
cuộc đời đàn bà của mẹ
(Những mặt trời đang phôi thai - Linh)
th́ "ham muốn được gần cha" là
thật, nhưng "dàn lửa hiến tế " là
khoa trương, hay "cha và con là thiêng liêng" th́
được (tuy không mới), nhưng "kiến
tạo cuộc đời đàn bà của mẹ"
th́ vừa không mới vừa đại ngôn; hay khi
Phan Huyền Thư viết :
"Thôi uống sương con
dế chẳng c̣n buồn
bầy sẻ cũ đă qua đời lặng lẽ
Buổi sáng, Tuấn Ngọc vào rất khẽ
Như là chẳng ra....
(Tuấn Ngọc buổi sáng)
th́ hay, nhưng cũng chính chị, viết
"Những con ve tâm thần gào xước mặt trưa
Hè đồng tính lang thang"
(Không thường)
th́ lại là làm chữ.
Thơ trẻ v́ vậy, mặc dù quẫy đạp
rất mạnh, nhưng hăy c̣n đang rất bối
rối. Những thao tác thuần túy kỹ thuật như
xếp cách danh từ trái nghĩa sát cạnh nhau,
đặt mới các tính từ, câu thơ dài thê thướt...không
giúp ích bao nhiêu cho việc đổi mới thơ,
cho dù người ta có quảng cáo cho nó bao nhiêu đi
nữa. Nếu đổi mới thơ chỉ là
sắp xếp ngược lại những giá trị
cũ th́ từ một sự đơn điệu
ở cực này, chúng ta lại tiến tới một
sự đơn điệu ở cực khác. Cái chính
là, một tinh thần thơ mới, chúng ta lại chưa
có.
2-Hiện đại hóa trong văn
xuôi
Tuyết Ngân, trên tờ Văn nghệ trẻ cho
rằng "do lười biếng hoặc thiếu
kinh nghiệm sống, một số tác giả trẻ
cứ lấy luôn cái tôi ra viết cho dễ...hầu
như các nhân vật trong truyện ngắn trẻ không
có tính cách riêng biệt.... đây cũng là lư do
tại sao các nhà văn trẻ không viết được
tiểu thuyết". Thực ra, đem cái tôi ra để
viết không phải do "lười biếng
hoặc thiếu kinh nghiệm sống", cũng như
không phải viết về cái tôi là không thể
viết được tiểu thuyết. Nam Cao đă
từng viết những truyện ngắn rất hay
về cuộc sống của bản thân, c̣n "Chí
tuyến Nam" của Henry Miller là một cuốn
tiểu thuyết- tự sự hay nhất mà tôi
từng được đọc. Karl Shapiro, trong
lời tựa cho cuốn sách, viết " mỗi
một từ ông viết ra là một từ của
tự truyện, nhưng chỉ trong cái nghĩa như
Lá cỏ cũng là tự truyện. Những kỳ tích
yêu đương của ông đôi lúc có thể
được đọc như của một chàng
Casanova ở Brooklyn hay một nam Fanny Hill, nhưng trong
đó không có một từ nào phóng đại
hoặc bịa đặt. Độc giả có
thể và không thể xây dựng lại cuộc đời
của Henry Miller từ những cuốn sách của ông,
bởi v́ Miller không bao giờ dừng lại ở
một chủ đề nào lâu hơn Lawrence từng làm".
Bất cập lớn nhất đối với các cây
bút trẻ không phải ở chỗ các nhân vật
của họ không có cá tính riêng biệt, mà ở
chỗ họ ư thức được phải khai
tử cho cách viết truyền thống lấy nhân
vật làm trung tâm, nhưng lại chưa sáng tạo
được phong cách truyện ngắn (hay tiểu
thuyết) hiện đại. Những truyện
ngắn của họ vẫn được viết
theo cách cũ kỹ, có chuyện mà không có truyện,
nói theo cách nói của một nhà phê b́nh văn
học ở hải ngoại. Những ḍng chảy
một chiều đó, cộng với những
triết lư vụn vặt chưa được tiêu hóa
kỹ, thường là nguyên nhân chính cho thất
bại của những nhà văn trẻ.
Vậy thế nào là truyện ngắn (hay tiểu
thuyết) hiện đại? Ba thử nghiệm tôi
cho là thành công nhất của văn xuôi trẻ
thời kỳ qua, một là tập truyện ngắn
Tầng trệt thiên đường của Bùi
Hoằng Vị, một tập sách chỉ dày có 61
trang in trên giấy xấu, do nhà xuất bản
Trẻ ấn hành năm 1995 và hầu như ch́m trong
quên lăng. Thứ hai, là tập Mộng du của Ngô
Tự Lập được nhà xuất bản Văn
học in năm 1997 và thứ ba, đó là các tiểu
thuyết của Nguyễn B́nh Phương. Với sáu
truyện ngắn, Bùi Hoằng Vị đă tạo
dựng thành công một chuỗi những văn
bản đa chiều, đa nghĩa và đa h́nh tượng.
Chính v́ vậy, rất khó có thể tóm lược
hay kể lại các truyện ngắn của anh. Chúng
không thể giản lược, không thể tóm
gọn, cũng không có "nhân vật đặc trưng".
Mỗi một truyện ngắn của anh là một
bức tranh lập thể, một h́nh ảnh đă
bị biến dạng của hiện thực. Một
hiện thực bị nhốt trong "Pḥng bốn giường",
"một dạng tồn tại vô nghĩa kinh
khủng" của bốn cá thể: "Con hăy
mở mắt ra mà xem, ba cái giường kia ḱa, - ba người
đang nằm đấy. Họ là những con người,
thật như đáng gọi, con hăy nhớ thế,-
những vai chính diện hiếm hoi, mà hôm nay th́
nằm cả ở chỗ này. Đấy, cái giá người
ta phải trả cho một tṛ hề đấy...".
Rơ ràng, một truyện ngắn- suy tư đă
được h́nh thành từ những hỏi đáp
của hai mẹ con, chứ không phải của tác
giả. Dù mang tính trừu tượng, nhưng
những suy tư của họ lại rất giàu h́nh
tượng và mang giọng điệu rất riêng
của nhân vật- điều hiếm thấy ở các
tác giả trẻ. Một truyện ngắn khác
của anh, Cổ tích từ luyện ngục bà,
lại là một thứ phản cổ tích được
kể bằng một giọng nói đa âm, một
giọng tự sự kể chuyện cổ tích cho
bản thân: "Luyện ngục là nơi mà thời
gian rẻ mạt nhất cháu ạ. Rồi cháu sẽ
thấy, nếu cháu của bà đủ ngoan (nghĩa
là không hư quá, đến nỗi phải sa vào cái
nơi tồi tệ hơn cả, là Hoả ngục!)
Phải, bà nghĩ, cháu cũng khắc thấy thôi, chính
là ở cái Luyện Ngục này đây, chứ
chẳng đâu khác, mà thời gian được t́m
thấy rẻ mạt nhất (hay bảo, người
ta được t́m thấy giàu có thời gian
nhất, th́ cũng thế!)".
Mộng du của Ngô Tự Lập cũng là một
thử nghiệm rất đạt. Cả tập
truyện ngắn là những câu chuyện lẫn
lộn giữa hoang đường và sự thật,
những câu chuyện nửa kỳ bí nửa hiện
đại, là những ghi chép đứt đoạn
của một con người sống trong một
thế giới tưởng tượng, một vùng Tùng
Quảng nào đó không hề có trên bản đồ
hàng hải, với những nhân vật thuộc
bộ tộc Ducomi, một bộ tộc chắc
hẳn cũng là sản phẩm của đầu óc
tưởng tượng của tác giả. Những
con người đó không hề xa lạ, họ cư
xử như thể họ là những người dân
của bất kỳ làng chài nào trên lănh thổ
Việt nam, nhưng cái hư ảo của địa
phương, của xuất xứ con người
họ cho phép tác giả được thoả
sức sáng tạo, trộn lẫn các chiều của
thời gian, các truyền thuyết. Là một cái tên
chết, bằng ng̣i bút của ḿnh, Ngô Tự Lập
đă khai sinh ra Tùng Quảng, một "lục địa
Sanhicov", một làng Macondo của văn học
Việt nam.
Cũng phá bỏ thời gian và không gian tuyến tính,
nhưng độ lớn của tiểu thuyết cho
phép Nguyễn B́nh Phương khai triển nó trên
một b́nh diện rộng hơn. Trong truyện
ngắn của Ngô Tự Lập, nhân vật thường
sống trong một góc tam giác của thời gian, và
khi anh ta tiệm cận cái góc đó, thời gian có
cảm giác như quay ngược lại làm anh ta hoang
mang, không hiểu điểm ḿnh tồn tại là
ở đâu trong ṿng tṛn khép kín của thời gian
luân chuyển. Trong khi đó, nhân vật của
Nguyễn B́nh Phương trong Những đứa
trẻ chết già, Người đi vắng thường
đối mặt với một thời gian nhiều
chiều, khi quá khứ, hiện tại và cả tương
lai nữa tồn tại cùng nhau trong một cảm giác
luân hồi. Các chiều của thời gian chen chúc
nhau trong không gian chật chội của nhân vật,
của một vùng đất Linh Nham vô h́nh của người,
linh hồn, hiện tại, lịch sử tồn
tại bên ngoài một địa danh Linh Nham có
thật.
Như vậy, văn xuôi trẻ hiện đại không
từ chối hiện thực, nhưng cũng không coi
hiện thực là chất liệu độc tôn cho sáng
tạo nghệ thuật. T́nh trạng bất ổn
của niềm tin, của cảm giác hư vô trong
tồn tại và sáng tạo, của thân phận con người-
khiến họ không thoả măn với những câu
trả lời của hiện thực và phải đi
t́m nó trong những thời gian và không gian khác. Không
quá chú trọng vào việc xây dựng "nhân
vật đặc trưng", họ sáng tạo ra
những không gian và thời gian đặc trưng và
dơi xem nhân vật của họ sẽ phản ứng
ra sao trong những không-thời gian đặc biệt
đó.
****
Paul Valery từng viết: " Nghệ thuật của
chúng ta, với những dạng thức và cách
thức nó được sử dụng, đă
được sáng tạo vào những thời gian hoàn
toàn khác với thời hiện tại, bởi
những con người mà quyền năng đối
với sự vật là không đáng kể so với
chúng ta ngày nay. Sự lớn mạnh kỳ diệu
của kỹ thuật cùng với khả năng thích
nghi và độ chính xác của nó, những ư tưởng
và thói quen mà nó tạo ra, khiến cho những thay
đổi cơ bản trong nghệ thuật cổ xưa
của cái Đẹp là không thể tránh
khỏi". Những thay đổi này cuốn hút
những người viết trẻ, những người
đang trong giai đoạn định h́nh và khát khao
t́m ra những con đường riêng, nhưng chưa
phải ai trong số họ cũng có thể hiểu
biết thấu đáo để khai thác triệt
để những thay đổi lớn lao ấy. Tuy
vậy, những thất bại của họ là
những thất bại trong thành công, hay là những
thất bại cần thiết cho một thành công
ở tương lai, khi họ ḥa hợp được
thời hiện tại với một "quá khứ
ngàn năm", ḥa hợp được kỹ
thuật mới với những tư tưởng
mới..
|