|
I.
Dẫn Nhập
1. Văn
Tự Của Người Việt
Ở bất
cứ nơi nào, hễ có con người là có
tiếng nói riêng của giống người đó.
Tiếng nói của người Việt đă có
từ hồi con người Việt xuất hiện
trên trái đất này.
Tiếng nói có trước văn tự, ngữ pháp,
văn phạm, và văn pháp. Lời nói tự nó
đă có ngữ pháp, văn pháp, và văn phạm
nếu lời nói đó có ư nghĩa mạch lạc và
làm cho người nghe hiểu rơ ràng. Tuy nhiên, chữ
viết cùng với ngữ pháp, văn phạm, và văn
pháp được phát minh là để dùng trong
việc giáo dục, cai trị, liên lạc, và lưu
giữ tư tưởng cùng các phát minh của
tiền nhân cho hậu thế.
Tiếng nói hay lời nói được gọi là ngôn
ngữ. "Lời viết" hay chữ viết
gọi là văn tự. Về văn tự, từ trước
tới nay dân tộc ta đă dùng:Chữ Nho, tức là
lối chữ viết của người Trung Hoa,
được dùng trong thời kỳ quân Tàu đô
hộ nước ta, Bắc Thuộc Thời Đại,
từ năm 207 (trước Tây lịch, đời
Triệu Vũ Vương) cho đến năm 939 sau Tây
lịch (đời Ngũ Quí).Chữ Nho c̣n được
thịnh hành suốt trong thời kỳ Tự Chủ
Thời Đại nữa (939-1802). Trong khoảng hơn 9
thế kỷ ấy, các triều đ́nh nước
ta vẫn lấy chữ Nho làm quốc gia văn
tự. Trong dân gian, các khế ước, chúc thư,
và các sổ sách đều dùng chữ Nho cả.
Khi quân Tàu sang chiếm nước ta, dân ta c̣n ở
trong t́nh trạng bán khai nên đă chịu ảnh hưởng
của người Tàu từ chính trị, xă hội,
giáo dục, luân lư, tôn giáo, đến phong tục. Dân
ta học chữ Nho, theo đạo Nho, và hấp
thụ tư tưởng cùng học thuật của Tàu.Chữ
Quốc Âm hay Chữ Nôm là thứ chữ được
tiền nhân ta đặt ra bằng cách biến
chế từ chữ Nho, dùng nguyên chữ Nho, hoặc
ghép các bộ phận của chữ Nho lại để
đọc theo tiếng nói của người Việt
Nam. Chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ
VIII, đời Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương)
và đến cuối thế kỷ thứ XIII,
thời ông Hàn Thuyên (Nguyễn Thuyên), đời vua
Trần Nhân Tông (1279-1293), người ta đă dùng
chữ nôm để viết văn. Rồi tiếp
theo đó là đến thời Nguyễn Ánh hồi c̣n
xưng vương (1778-1802), chưa b́nh định
xong Nam Bắc, các chỉ dụ, sắc lệnh, và công
văn được viết toàn bằng chữ Nôm.
Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ đă
được các giáo sĩ người Âu sang
truyền giáo ở nước ta vào thế kỷ
thứ XVII đặt ra bằng cách lấy các mẫu
tự (chữ cái) La Mă để phiên âm tiếng nói
của người Việt Nam. Mục đích của
việc sáng tác ra chữ quốc ngữ là để
đáp ứng nhu cầu của việc dịch sách và
soạn sách về đạo Thiên Chúa cho các con chiên
đọc.
Người có công lớn nhất trong việc sáng tác
ra chữ quốc ngữ là ông Alexandre De Rhodes v́ vào năm
1651 ông đă soạn ra cuốn tự điển,
Dictionarium Annamiticum, Lusitanum, et Latinum (Tự Điển An
Nam, Bồ Đào Nha, và La Tinh) để giúp đời
sau có sách để tra cứu.
2. Định
Nghĩa về Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ, Quốc Âm,
Việt Ngữ, Việt Văn, Văn Tự, Ngữ Pháp,
Văn Pháp, và Văn Phạm
a.
Ngôn Ngữ, Tộc Ngữ,
Quốc Âm, Việt Ngữ, và Việt Văn
Ngôn Ngữ là
âm thanh có ư nghĩa và hệ thống mà loài người
dùng để liên lạc, cảm thông, và diễn
đạt tư tưởng với nhau.
Tộc Ngữ là ngôn ngữ riêng của mỗi dân
tộc.
Quốc Âm là tiếng của một nước.
Việt Ngữ là tộc ngữ, tiếng nói, hay
"lời nói" của dân tộc Việt.
Việt Văn là "Lời viết" hay văn chương
của ngựi Việt.
b. Ngôn
Ngữ và Văn Tự
Nói ra lời
là Ngôn Ngữ, viết ra thành chữ là Văn Tự.
Như trên đă nói, loài người có tiếng nói
trước trước khi có văn tự. Tuy nhiên, v́
ngôn ngữ là chính và văn tự là phụ nên người
ta dùng ngôn ngữ để chỉ cả "lời
nói" lẫn "lời viết." Trong khi đó
Văn Tự dùng để chỉ "lời
viết" mà thôi.
c.
Ngữ Pháp
Ngữ Pháp là
phép xếp đặt "lời nói" và
"lời viết" cho đúng. Điều này có nghĩa
là Ngữ Pháp áp dụng cho cả lời nói thường
ngày và lời viết hay văn chương.
d. Văn Pháp và Văn PhạmVăn Pháp và Văn
Phạm nói chung là khuôn phép viết văn hay làm văn.
Văn Pháp (syntax) là cách viết câu văn c̣n gọi
là cú pháp, tức là cách phối hợp những
chữ theo một quy luật để thành một câu
văn. Văn pháp tiếng Việt là phép viết văn
hay làm văn bằng tiếng Việt.
Văn Phạm (gammar) là mẹo luật hay cách viết
một thứ tiếng nói.
3.
Yếu Tố Chính Trong Văn Pháp
Các yếu
tố chung của văn pháp tiếng Việt hay
bất kỳ tiếng nước nào: lời văn, cú
pháp, dấu chấm câu, nội dung, và chủ đề.Lời
văn phải chân thành, trong sáng, ngắn gọn,
mạch lạc, uyển chuyển, nhẹ nhàng, trang nhă,
lịch sự, và có ư nghĩa để giúp người
đọc cảm thấy, nghe được, cũng
như h́nh dung ra những ǵ nhà văn muốn
viết.
Cú pháp là nói về phép tắc dùng tiếng để
đặt câu văn cho chỉnh, tức là văn
phải thành cú.
Dấu chấm câu phải đúng cách.
Nội dung bài viết phải có tính chuyên chở tư
tưởng để thuyết phục được
độc giả (văn dĩ tải đạo).
Chủ đề là vấn đề chính mà tác
giả muốn tŕnh bày trong một bài văn hay bài thơ.
Một bài văn, một bài thơ, cũng như
một tác phẩm phải có chủ đề, bố
cục, và phân đoạn rơ ràng.
II.
Tiến Tŕnh Viết Văn
Muốn
viết văn cho hay, nhà văn phải kiên nhẫn, có
nghị lực, biết tập trung tư tưởng
để hoạch định và suy nghĩ về công
việc sáng tác.
Tiến tŕnh viết văn gồm 5 giai đoạn:
chuẩn bị viết, viết bản thảo,
sửa bản thảo, đọc lại bản
thảo lần cuối, và liệt kê tài liệu tham
khảo.
1.
Chuẩn Bị Cho Việc Viết Văn
a. Chọn và
giới hạn đề tài
Chọn đề
tài thuộc phạm vi ḿnh đă có kinh nghiệm.
Những ǵ nhà văn đă thấy, đă đọc,
và đă nghe là điều cốt yếu giúp cho
việc viết văn thành công. Điều này có nghĩa
là nhà văn phải có kinh nghiệm sống về
những điều ḿnh muốn viết th́ tác
phẩm mới có giá trị. Trong những kinh
nghiệm sống này, nhà văn cần chọn
những ǵ ḿnh thích thú, quan tâm, và tin tưởng
nhất để viết.
Việc giới hạn đề tài rất là cần
thiết. Nhà văn cần giới hạn đề tài
để có thể tập trung vào phần mà ḿnh có
sở trường để viết cho đầy
đủ. Nhà văn có giới hạn đề tài
để viết th́ đọc giả mới dễ
theo dơi và mới hiểu được đại ư
của tác phẩm.
b. Ấn
định mục đích cho bài hay tác phẩm ḿnh
định viết
Mục đích
tức là lư do khiến ḿnh cầm bút viết,
chẳnh hạn như viết để thuyết
phục độc giả về những ǵ ḿnh
sắp viết, viết để mua vui cho độc
giả, hay viết để làm cho độc giả
nghe thấy, cảm thấy, hay nh́n thấy những ǵ
ḿnh định viết ra. Để đạt được
mục đích khác nhau, nhà văn cần áp dụng
lối viết khác nhau.
c.
Viết Cho Thành Phần Độc Giả Nào?
Trước
khi viết, nhà văn phải biết ḿnh định
viết cho thành phần độc giả nào,
chẳng hạn như thành phần người
lớn, thanh niên, trẻ em, quần chúng, những người
mới vào nghề, hay các chuyên gia. Đối với
mỗi đối tượng, nhà văn phải dùng
cách viết và cách tŕnh bày cùng chi tiết và ngôn
ngữ khác nhau.
Nhà thơ không có độc giả v́ nhà thơ thường
chỉ đối thoại với một người
hay cảnh vật mà thôi. Nhà văn th́ khác, nhà văn
cần độc giả nên phải luôn luôn đặt
địa vị ḿnh vào địa vị độc
giả mỗi khi viết văn. Phải h́nh dung ra nét
mặc của độc giả của ḿnh có tỏ
ra hiểu ư ḿnh hay chán nản khi đọc tới
những ḍng ḿnh đang viết. Có như thế nhà
văn mới mong thành công trong việc viết văn
được.
d. Thu thập tài liệu giúp cho việc viết vănKhi
thu thập các tài liệu, nhà văn phải nhớ
mục đích và thành phần độc giả để
gom góp tài liệu cho thích hợp.
Viết văn là để thuyết phục độc
giả tin những điều ḿnh viết. Chính v́
thế, ngoài tài liệu trong sách báo và thư từ
liên lạc với bằng hữu, nhà văn c̣n
phải phỏng vấn hay hỏi ư kiến từ
những người có thẩm quyền hay thảo
luận với những người có kinh nghiệm
về đề tài ḿnh định viết. Nhà văn
c̣n phải thu thập tài liệu bằng cách ghi chép
ngay vào sổ bất cứ những ǵ hiện đến
trong óc hay những ǵ quan sát và đọc được
về đề tài ḿnh định viết. Có khi nhà
văn c̣n phải chụp h́nh, thu băng, hay quay phim các
diễn tiến sự việc để làm tài
liệu viết văn.
Muốn viết cho có kết quả, nhà văn
phải đọc thật nhiều. Tôi c̣n nhớ
được một câu của nhà văn kiêm nhà ngôn
ngữ học và thi sĩ Samuel Johnson (1709-1784) trong
một tác phẩm nào đó: "Để viết
một cuốn sách, nhà văn phải tham khảo
một nửa số sách có trong thư viện"
(The greater part of a writer's time is spent in reading. A man will turn
over half a library to make one book).
e.
Chọn lựa và sắp đặt tài liệu cho
hợp với nội dung của tác phẩm
Khi có đủ
tài liệu, nhà văn cần chọn những tài
liệu thích hợp nhất rồi xếp theo từng
loại. Những tài liệu có cùng liên hệ về
nội dung phải được xết thành từng
nhóm. Những sự kiện xảy ra nên xếp theo
thứ tự thời gian và nơi chốn.
2.
Viết Bản Thảo (Nháp)
Sau khi việc
chuẩn bị đă hoàn tất, nhà văn phải
bắt đầu viết ngay và viết nhanh v́ trong
khi viết ư tưởng sẽ nảy sinh và tuôn ra dào
dạt.
Những người có kinh nghiệm viết văn
thấy việc bắt đầu viết mới là
việc khó khăn. Khi đă bắt đầu
viết th́ mọi sự sẽ tiến triển
tốt đẹp. Muốn đạt được
việc này, chúng ta cứ viết, đừng để
ư tới văn phạm hay văn pháp.
Hăy cố gắng tŕnh bày tư tưởng theo tài
liệu đă sưu tầm và ghi chép. Hăy viết theo
bố cục đă định và theo mục đích
đă vạch ra.
Trong khi viết, ta sẽ có những ư tưởng
mới xuất hiện. Có khi ta viết đi viết
lại một đoạn văn nhiều lần
mới ưng ư.
Khi viết, ta nên viết tự nhiên theo lối hành văn
của ḿnh, đừng cố bắt chước cách
viết của người khác, dùng chữ giản
dị dễ hiểu giống như khi ḿnh nói
chuyện với bạn bè, và nên dùng các câu ngắn
gọn. Trong mỗi đoạn văn, ta nên diễn
đạt một ư tưởng. Ta nên diễn đạt
tóm tắt ư tưởng này vào trong một câu
gọi là câu chủ đề, rồi sau đó, ta
diễn giải ư tưởng này cho rơ.
Nếu cần, ta nên dùng thí dụ để làm sáng
tỏ điều ḿnh muốn tŕnh bày.
Cuối cùng, ta phải h́nh dung ra những thắc
mắc của độc giả về những ǵ ta
đang viết. Có như thế bài viết của ta
mới rơ ràng và súc tích.
Ngày nay, ta viết văn bằng máy vi tính nên việc
viết văn lại trở nên rất dễ dàng. Ta
có thể vừa viết vừa sửa bài một cách
nhanh chóng. Chúng ta nên viết liên tục đến khi
xong tác phẩm rồi cố gắng đọc
lại ngay để sửa sơ qua lần đầu.
Sau đó, ta nên nghỉ một lúc trước khi
sửa lần thứ hai.
3. Sửa Bản ThảoBản thảo đầu tiên
là bản có rất nhiều lỗi. Ta nên so sánh
những điều đă viết với tài liệu
đă sưu tầm được để xem có chính
xác không.
Trong kỳ sửa lần này, ta chưa cần phải
để ư đến văn phạm và văn pháp mà
phải để ư đến nội dung bài viết.
Không chú tâm về văn phạm và văn pháp, nhưng
nếu thấy các lỗi về văn phạm và văn
pháp ta vẫn phải sửa ngay.
Ta cần gọt giũa, diễn giải thêm, và làm
trong sáng bài viết. Sửa đi sửa lại
nhiều lần càng tốt. Đă có nhiều nhà văn
đă sửa tác phẩm của ḿnh đến hàng
chục lần mới hoàn tất. Ta cần tự
hỏi những câu hỏi sau để t́m ra các
khuyết điểm:Tác phẩm đă đáp ứng
mục đích đề ra hay không?
Nội dung có thích hợp với loại độc
giả ta nhắm tới hay không?
Bài viết có gắn liền với chủ đề
hay không?
Có ư nào dư thừa không? Nếu có thể cắt
bớt đoạn văn mà bài vẫn đủ ư th́
nên cắt bớt. Những ǵ viết ra phải
cần thiết, tránh những điều dư
thừa và lập lại một cách vô ích.
Lập luận có vững không?
Sự sắp xếp ư tưởng có hợp lư hay không?
Các ư tŕnh bày có trôi chảy, rơ ràng, dễ hiểu,
và hợp lư không?
Việc dùng chữ có chính xác không?
Và quan trọng hơn hết là bài viết có hấp
dẫn, lôi cuốn, và chinh phục được
độc giả không?
Ta nên nhớ viết là tŕnh bày tư tưởng
một cách hữu lư, mạch lạc, hấp dẫn và
thuyết phục.
Muốn
chắc chắn một tác phẩm được hoàn
hảo, ta cần phải:
Đọc to toàn
bài của ḿnh nếu có thệ Khi đọc to, ta
sẽ dễ thấy những điều sai sót để
sửa.
Nhờ người khác đọc và cho ư kiến,
chẳng hạn như nếu bài viết nhắm vào
thanh niên, ta nên nhờ một thanh niên đọc và
cho ư kiến.
Viết rồi để đó trong một thời
gian rồi lấy ra đọc lại, ta lại
thấy có nhiều điều cần phải sửa.
4. Đọc
Lại Bản Thảo Lần Cuối
Việc
sửa bản thảo đă xong, ta viết lại và
cho in ra để đọc lần cuối. Lần này
ta chú trọng về mặt văn phạm và văn pháp.
Điều cần nhất là xem cú pháp có chỉnh không?
Dấu chấm câu có đúng cách không? Các chữ
viết hoa và chính tả đă đúng chưa?
Sau khi sửa, ta đọc lại để kiểm soát
từng lỗi đă mắc phải để
chắc chắn là chúng ta đă sửa hết các
chỗ sai. Mục đích lần sửa kỳ này là
làm cho bài viết của ta rơ ràng và đúng cách.
Nếu có thể, ta đem bài đă viết để
tŕnh bày trước công chúng, để dạy
học, hay thảo luận với bạn bè. Việc này
sẽ giúp ta thấy các điều thiếu sót. Có như
thế ta mới cải tiến các khuyết điểm
trước khi cho xuất bản.
Đă viết văn ai cũng mắc phải sai lầm
kể cả những nhà văn đă thành danh và các
nhà văn vào bậc thầy. Có một điều là
nếu ta cẩn trọng trong khi viết văn và
sửa đi sửa lại bài sau khi viết th́ bài
viết của ta sẽ có ít sai sót chứ chưa
hẳn đă hoàn hảo được. Muốn hoàn
hảo, ta phải nhờ người khác góp ư và
sửa bài cho ta.
5.
Liệt Kê Tài Liệu Tham Khảo
Sau khi hoàn thành
bài viết hay một tác phẩm, ta phải liệt kê
các tài liệu tham khảo ở ngay cuối mỗi bài
hay cuối mỗi tác phẩm. Đây là điều
bắt buộc phải làm đối với các
loại bài hay tác phẩm có tính cách nghiên cứu và
sưu tầm.
Tài liệu tham khảo giúp ta rất nhiều trong khi
viết văn. Tác phẩm của ta có giá trị hay
không là do ta co đủ tài liệu chính xác hỗ
trợ những lập luận của ta hay không.
Việc liệt kê tài liệu tham khảo phải theo
một tiêu chuẩn như sau:Tên tác giảTên sách hay
tên tờ báo
Mỗi
chữ của tên sách hay tên tờ báo đều
phải được viết hoa. Nếu viết tay,
ta phải gạch dưới tên sách hay tên tờ báo;
nếu đánh máy hay in, ta phải dùng loại chữ
nghiêng.
Tựa của một bài văn hay bài thơ được
trích trong một quyển sách hay tờ báoTa phải
viết chữ hoa cho mỗi chữ của tựa bài
băn hay bài thơ và phải để tựa bài này
trong dấu ngoặc kép. Tiếp theo đó là tên sách
hay tên tờ báo (tŕnh bày giống như đă nói
ở trên) mà bài văn hay bài thơ được trích
dẫn.
Tên nhà xuắt bản, nơi xuất bản, và năm
xuất bản. Nếu là tờ báo, ta phải biên thêm
số báo, ngày, và nơi phát hành.
Sau đây là vài thí dụ về việc liệt kê các
sách tham khảo:Nếu tham khảo cuốn Nho Giáo
của Trần Trọng Kim để viết bài, ta
phải ghi ở cuối bài viết như sau:
Sách Tham Khảo:
1. Lệ Thần Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Trung Tâm
Học Liệu, Bộ Giáo Dục, Saigon, 1971.
Nếu tham khảo bài thơ "Chia Nhau" của
nữ sĩ Ư Nga trong thi tập Góp Lửa, ta phải
ghi ở cuối bài như sau:
2. Ư Nga, "Chia Nhau" Góp Lửa, Nhà Xuất Bản
Anh Em, Oslo, Norway, 4/2000.Nếu tham khảo bao nhiêu tác
phẩm th́ phải liệt kê bấy nhiêu tác
phẩm.
Cuối mỗi bài văn, bài thơ, hay mỗi tác
phẩm, ta cần ghi ngày tháng năm đă hoàn
tất bài hay tác phẩm. Điều này rất quan
trọng cho việc nghiên cứu văn học.
Khải Chính
Phạm Kim Thư,Canada, 2001
|