|
Trong bài viết trước, bài Dùng từ - những
lỗi "tày đ́nh" thường gặp (Nhân Dân
điện tử, 17-4-2001), chúng tôi đă chỉ ra
mấy trường hợp dùng từ bị sai
lệch ngữ nghĩa hiện đang phổ biến
mà phần lớn là từ Hán - Việt.
Nhiều nhà ngôn ngữ học cũng nêu lên con
số thống kê:
Hơn 60% từ vựng Việt Nam có nguồn gốc
Hán.
Vậy phải chăng ai giỏi chữ Hán th́ dùng
từ Hán - Việt đều xác đáng? Chưa
hẳn!
Mở đầu cuốn Hán - Việt từ điển,
học giả Đào Duy Anh viết: "Bỉ nhân khi
mới nghiên cứu quốc văn, đă lấy
sự không có từ điển làm điều
rất khốn nạn...".
Ngày nay, từ khiêm xưng bỉ nhân rất xa lạ
với người Việt. C̣n để diễn
tả t́nh trạng lúng túng khó khăn, chẳng ai dùng
từ khốn nạn cả. Bộ tiểu thuyết
Les Misérables của Victor Hugo, trước kia cũng có
người dịch là Những kẻ khốn nạn,
về sau phải chỉnh sửa thành Những người
khốn khổ. Bởi lẽ, khốn nạn trong
từ Hán - Việt không c̣n giữ nguyên ư nghĩa
gốc Hán là "khó khăn, khổ sở" mà
đă biến nghĩa và đổi cả mầu
sắc tu từ: "hèn mạt, đáng khinh".
Cũng cần lưu ư rằng hàng loạt từ
cực kỳ thông dụng mà không ít người cho
rằng là từ thuần Việt, thực ra cũng
mang gốc Hán: ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, thím, d́, áo,
quần, bàn, ghế... Thế nhưng, ngôn ngữ
Việt Nam không phải là ngôn ngữ Hán. Về căn
bản, ngữ pháp Việt khác xa ngữ pháp Hán. Và
trong quá tŕnh vay mượn từ Hán, biến từ Hán
thành từ Hán - Việt, dân tộc ta đă Việt hóa
bằng nhiều cách.
Trước tiên là Việt hóa về mặt ngữ âm:
từ Hán chuyển thành từ Hán - Việt được
đọc theo âm Việt (thường gọi là âm Hán
- Việt) theo một hệ thống quy luật
nhất định. Để nắm rơ vấn đề
này, bạn đọc có thể tham khảo sách
Nguồn gốc và quá tŕnh h́nh thành cách đọc Hán
- Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (Nhà
xuất bản Khoa học Xă hội, Hà Nội 1979).
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề
cập đến sự Việt hóa gốc Hán về
các mặt kết cấu, ư nghĩa và mầu sắc
tu từ.Thay đổi kết cấu
Từ Hán - Việt có nhiều thay đổi về
mặt kết cấu nếu so với từ gốc Hán.
Dễ thấy nhất là xu hướng rút gọn hàng
loạt từ ghép thành từ đơn: văn (văn
chương, văn học), chế (chế biến,
chế tạo), lệnh (mệnh lệnh), đảm (đảm
đương), hạn (kỳ hạn), hỗn
(hỗn hào), điệu (yểu điệu),
nghiệt (khắc nghiệt), v.v. Đă rút gọn
thế rồi, người Việt lại phát
triển thành từ ghép Việt Nam theo công thức:
từ Việt + từ Hán. Theo đó, biết bao
từ mới xuất hiện như: cảm mến,
bao gồm, bày biện, b́nh bầu, biến đổi,
bồi đắp, kỳ lạ, sống động...
Ngay cả những từ ghép mang gốc Hán hoàn toàn,
khi trở thành từ Hán - Việt th́ đă chuyển
hóa vị trí. Người Trung Quốc viết động
dao, c̣n người Việt là dùng dao động. Thí
dụ về sự chuyển hóa vị trí như
thế có rất nhiều: náo nhiệt (Hán: nhiệt náo),
di chuyển (chuyển di), tố cáo (cáo tố), phóng
thích (thích phóng), tướng mạo (mạo tướng),
cứu văn (văn cứu), quyền lợi (lợi
quyền), tiến cử (cử tiến)... Dĩ nhiên,
chẳng phải từ ghép nào cũng có thể thay
đổi vị trí. Điều này thường
xảy ra trong trường hợp từ ghép được
cấu tạo bởi hai từ đơn âm đồng
nghĩa.
Lại có những từ ghép cũng hoàn toàn mang
gốc Hán, song người Việt thay hẳn một
yếu tố nào đấy để dùng riêng.
Nếu Hán ngữ dùng hộ sĩ th́ Việt Nam dùng
hộ lư (ghi chú: trước kia ở Trung Quốc cũng
có từ "hộ lư" nhưng dùng chỉ vị
quan cấp dưới thay thế vị quan cấp trên
để giải quyết công việc lúc quan cấp
trên vắng mặt). Chúng ta dùng từ họa sĩ,
song Trung Quốc dùng từ họa sư/họa công. Chúng
ta dùng từ tường tận, song Trung Quốc dùng
tường tế...Thậm chí, những kết
cấu ngôn ngữ rất ổn định, rất
bền vững là thành ngữ, th́ cũng phải thay
đổi lúc thành ngữ Hán trở thành thành
ngữ Hán - Việt. Những từ nằm trong
ngoặc đơn ở các thí dụ sau là gốc Hán:
tác oai tác quái (tác uy tác phúc), khẩu Phật tâm xà
(Phật khẩu xà tâm), du thủ du thực (du thủ
hiếu nhàn), thập tử nhất sinh (cửu tử
nhất sinh), an phận thủ thường (an phận
thủ kỹ), thượng lộ b́nh an (nhất
lộ b́nh an)...
Thay đổi ngữ nghĩa
Có thể nói rằng hầu hết từ ghép gốc
Hán được nhân dân ta vay mượn th́ đă
thay đổi nghĩa hoặc ít hoặc nhiều.
Với những từ ghép đa nghĩa, lắm khi chúng
ta chỉ chọn một số ư nghĩa nào đấy
mà thôi. Chẳng hạn từ phù phiếm, ta chỉ dùng
nghĩa bóng (không thiết thực) mà không dùng nghĩa
đen (ngồi thuyền dạo chơi). Hoặc
từ bác sĩ th́ gốc Hán gồm ba nghĩa: 1.
Chỉ một chức quan được đặt ra
từ đời Tần: ngũ kinh bác sĩ, quốc
tử bác sĩ; 2. Chỉ người thành thạo
một nghề ǵ: trà bác sĩ (người chuyên bán
trà); 3. Chỉ học vị: Pháp học bác sĩ, y
học bác sĩ. Thế nhưng, Việt Nam dùng
từ bác sĩ với một nghĩa rất hẹp,
chỉ người tốt nghiệp đại học
y khoa (y học bác sĩ). Trong khi đó, tiếng Hán
hiện đại lại có từ y sinh để
chỉ thầy thuốc (bác sĩ).
Nhiều trường hợp, khi vay mượn từ
gốc Hán, người Việt chủ động phát
triển thêm một vài nghĩa không có trong tiếng Hán.
Từ Hán đinh ninh vốn có nghĩa "dặn ḍ",
lúc trở thành từ Hán - Việt th́ có thêm nghĩa
mới là "yên trí". Hoặc từ bồi
hồi vốn có nghĩa "đi đi lại
lại", người Việt c̣n hiểu là
"bồn chồn, ḷng dạ không yên".Táo
bạo nhất là cách thay đổi toàn diện ư nghĩa:
h́nh thức vay mượn, song ư nghĩa lại khác
hoàn toàn. Như khôi ngô, từ Hán có nghĩa "to
lớn", c̣n từ Hán - Việt lại có nghĩa
"thông minh". Hoặc mê ly, từ Hán có nghĩa
"mơ hồ, không rơ", từ Hán - Việt có
nghĩa "rất hay, rất hấp dẫn".
Hoặc lẫm liệt, từ Hán có nghĩa là "rét
mướt", từ Hán - Việt có nghĩa "oai
phong". Với những trường hợp này,
sự Việt hóa đă đạt đến mức
triệt để.Thay đổi mầu sắc tu
từ
Thông thường, với hai từ đồng nghĩa
(một từ Hán - Việt và một từ Việt),
th́ dùng từ Hán - Việt mang tính trịnh trọng hơn,
hoặc văn hoa hơn. Thí dụ các cặp từ này:
phụ nữ/đàn bà; nhi đồng/trẻ em; phu nhân/vợ;
mẫu tử/mẹ con; trường thọ/sống lâu;
từ trần/chết...
Tuy nhiên, có những từ Hán - Việt lại mang
mầu sắc tu từ trái ngược so với
từ gốc Hán. Đáo để vốn có nghĩa
"đến cùng", song trong ngôn ngữ Việt
Nam lại là "riết róng, đanh đá".
Thủ đoạn chỉ có nghĩa "phương
pháp, kỹ pháp", song đối với chúng ta th́
đây là từ chỉ "mưu mẹo, mánh khóe"
theo nghĩa xấu. Dă tâm trong tiếng Hán chỉ mang
nghĩa "tham vọng", song biến thành từ Hán
- Việt th́ có nghĩa "ḷng dạ hiểm độc".
Trường hợp từ khốn nạn mà chúng tôi
dẫn ở đầu bài này th́ trong tiếng Hán
chẳng mang sắc thái nào đặc biệt, nhưng
với dân ta, đây lại là từ dùng để
nhiếc móc, chửi rủa!
Qua những điều vừa nêu, bạn đọc
đủ thấy rằng: Từ gốc Hán được
Việt hóa để trở thành từ Hán - Việt
không c̣n là... từ Hán. Đề tài này nếu
được khai triển dưới nhiều góc
độ khác, chắc chắn sẽ đem lại vô
số điều thú vị và hữu ích cho công
cuộc "Giữ ǵn sự trong sáng của tiếng
Việt".
Vơ Ngân Vương
(Tạp chí Tài hoa trẻ)
|