|
Người lính đích thực nào cũng muốn luôn
trau dồi thứ vũ khí mà ḿnh sử dụng trong
chiến đấu, để không ngừng nâng cao tính
năng tác dụng của nó. Vũ khí của nhà văn
là ngôn từ và việc nhà văn nào cũng khát khao
rèn rũa thứ vũ khí đó cho sắc bén, trong
đó có nhu cầu sáng tạo ra những từ
ngữ mới là một nhu cầu chính đáng và
bức thiết. Từ xưa đến nay đều
như vậy.
Tuy nhiên, sáng tạo được một từ
mới thật sự có sức sống trong công chúng
và thời gian để có thể bổ sung cho
vốn từ vựng của dân tộc là một
điều vô cùng khó khăn.
Trong hai câu thơ nhằm cực tả cảnh tù túng,
quẩn quanh của Kiều ở lầu xanh khi mà trong
ḷng th́ ngổn ngang trăm mối, Nguyễn Du
viết:
"Song sa ṿ vơ phương trời
Nay hoàng hôn đă lại mai hôn hoàng"
Vào thời ấy mà dám lật ngược từ
"hoàng hôn" thành "hôn hoàng" th́ quả là
một sự táo bạo chỉ có ở một
bản lĩnh lớn.
Nhưng táo bạo nhất th́ phải kể đến
người đàn bà nổi loạn có cái tên
dịu dàng Hồ Xuân Hương:
"Bày đặt ḱa ai khéo khéo pḥm
Nứt ra một lỗ hỏm ḥm hom"
Giữa cái cảnh ao tù nước đọng ngày
ấy, một từ như từ "pḥm" ném ra
ở đây th́ đúng là một quả bom - như cách
nói bây giờ đó c̣n là một quả bom sex
nữa kia.
Đây là một từ thuần Việt trước
Hồ Xuân Hương chưa ai dùng và sau bà cũng
chẳng ai dám dùng. V́ nó độc quá, tức là nó
đúng quá, nó theo nguyên tắc dùng cấu trúc phát âm
để tượng h́nh, nó được dùng
tuyệt đối đúng chỗ và đúng thần,
nó là độc đắc, không thể tùy tiện
nhấc sang chỗ khác. Cái tài của người dùng
chữ ở đây là đặt nó lên ngai rồi
lại phải bày ra tả phù hữu bật để
giữ cho cái ngai ấy vững như bàn thạch:
tả phù hữu bật ở đây là từ
"nứt" và đặc biệt là cụm từ
"hỏm ḥm hom", một nhóm từ cũng độc
đáo và tài t́nh không kém, như nét mực bổ
sung tô đậm thêm cho lư do tồn tại của
từ "pḥm". Hăy thử h́nh dung, nếu không có
cụm từ bổ trợ ấy th́ từ "pḥm"
sẽ chân không bén đất, cật không bén
giời, lơ lửng thế chưa chừng đổ
cũng nên! Có lẽ chính v́ thế mà mặc dù xưa
nay thiên hạ đều bái phục cái cách dùng
từ tài t́nh hy hữu này, nhưng từ sau lần
ra mắt đó đến nay, chưa một ai dám dùng
lại nó, v́ nếu không th́ phải dùng luôn cả
cụm từ hỗ trợ sau đó, mà như thế
th́ bất tiện quá, thành ra "đạo văn"
rồi c̣n ǵ.
Cũng tài t́nh và độc đáo như thế là
hai câu:
"Một đàn thằng ngọng đứng xem
chuông
Nó bảo nhau rằng: ấy ái uông"
Sự chính xác và giản dị đến mực
hồn nhiên làm nên tính bất ngờ mà hợp lư không
chê vào đâu được của cụm từ
"ấy ái uông".
Đấy là thứ của báu trời cho, là mẫu
mực cho cái mà ta vẫn gọi là "xuất
khẩu thành thơ" mà chỉ những thiên tài
của nghệ thuật ngôn từ như Bà Chúa thơ
Nôm mới có được mà trong đời cũng
chỉ có được đôi ba lần thôi.
Gọi đây là "lăng xê" từ mới có
thể chưa chính xác về khái niệm v́ mấy
tiếng "ấy ái uông" có thể chưa
phải là từ mà chỉ là những âm thanh biến
dạng của người ngọng, nhưng ít ra th́
đó cũng là một cách diễn đạt
bằng âm thanh tài t́nh thuộc loại độc
nhất vô nhị, bởi nó vẫn hàm chứa
ngữ nghĩa ở bên trong, nên không có cách ǵ khác hơn
là phải coi đó như một cụm từ
mới sáng tạo của thi sĩ.
Trong văn chương hiện đại, ta cũng
thỉnh thoảng gặp những từ ngữ
mới được sáng tạo khá tài t́nh.
Những bậc thầy về chữ nghĩa như
Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao...
trong văn xuôi; Tú Xương, Tản Đà, Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử... trong thơ ít
nhiều đă có những đóng góp trong lĩnh
vực này, nếu không phải là khai sinh ra những
từ hoàn toàn mới, th́ chí ít cũng mở
rộng đất đai sử dụng, thổi thêm
sinh khí cho một số từ ngữ và như thế
cũng có thể gọi là sáng tạo ngôn từ.
Đặc biệt, có vẻ như chính thế hệ
nhà văn, nhà thơ đương đại mới
là những người say sưa làm công việc này
nhất, với một ít thành công và rất nhiều
thất bại.
Trong truyện ngắn Con gái thủy thần của
Nguyễn Huy Thiệp, đoạn kết có một ḍng
nghe thật da diết:
"Trước mặt tôi, ḍng sông đang thao
thiết chảy".
Có thể kiến văn của tôi c̣n hẹp, nhưng
trước Nguyễn Huy Thiệp, tôi chưa từng
biết đến hai tiếng thao thiết - một
từ đặt vào văn cảnh này thật
tuyệt vời. H́nh như nó được biến
báo từ "tha thiết", nhưng chỉ thay
đi một chút thôi mà nội hàm bỗng bao trùm hơn
rất nhiều, sức biểu cảm cũng
mạnh, mạnh mẽ hơn hẳn, nhờ vào
sự mù mờ, không rơ ràng như chính tâm trạng
con người vào những giây phút ấy. Tôi nghĩ,
sức cuốn hút của những ḍng sông trong văn
Nguyễn Huy Thiệp ngoài sự lư thú của
những câu chuyện, nhất định có sự
đóng góp của vẻ đẹp những câu văn
với những từ ngữ đầy chất thơ
và giàu sáng tạo như thế. Phải chăng
sức huyễn hoặc ấy đă lôi cuốn
được cả một nhạc sĩ như Phó
Đức Phương để ông cho ra đời
một ca khúc mang đúng tên một truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp - ca khúc "Chảy đi
sông ơi" - một ca khúc cũng đầy cái
chất "thao thiết" mà ta vừa nói tới.
Có một nguyên lư mà đến giờ này tôi vẫn
tin là đúng: H́nh thức mặc dù cũng có
những giá trị tự thân, nhưng về cơ
bản vẫn là để chở nội dung; và do
vậy, cũng về cơ bản, chỉ những sáng
tạo h́nh thức bắt nguồn từ nhu cầu có
thực của nội dung mới hy vọng có sức
sống - đương nhiên là với những sáng
tạo thành công. Chính v́ vậy, một cuộc
sống tù đọng th́ vốn từ ngữ cũng
quẩn quanh.
Ngược lại, một cuộc sống sinh sôi, năng
động như thời hiện đại th́
buộc phải có những ngôn từ mới, để
có thể chuyển tải những chất liệu
sống ngày càng rộng hơn và sâu sắc, tinh vi hơn.
Dạo ở Trường Sơn tôi thường nghe lính
tráng ca cẩm t́nh trạng "bang bách" để
chỉ công việc bộn bề, ngổn ngang; lại
có nhà văn hay nói từ "khảng tảng" mà
thú thực tôi cũng không thật hiểu nghĩa là
ǵ. Nhà thơ Trần Đăng Khoa th́ nhắc
lời Xuân Diệu chỉ sợ đến lúc ḿnh như
gái già không ai "ỏ ê" đến nữa.
Anh Khoa cũng hay diễu mấy ông phê b́nh tầm chương
trích cú cứ thích "vạch ṿi" câu chữ,
hoặc một nhà văn khác th́ bảo mấy vị
ấy có ít th́ cứ nói "vóng vót" lên thành
nhiều, đến mức thành ra "vóng véo"! Rơ
ràng ở đây có những nhu cầu thực sự
đang cựa quậy bên trong khiến cho người
nói khổ sở như người đau đẻ,
phải cố mà rặn cho ra cái sinh linh đang đ̣i
ra mà chưa biết h́nh hài sẽ như thế nào.
Nhà thơ Hữu Thỉnh viết:
"Chị không thể làm như con rắn que
cời
Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm
quẫy"
Từ "cậm quẫy" có vẻ như là sáng
tạo của nhà thơ này.
Nguyễn Du cũng thích nhào nặn từ ngữ, trong
bài Vợ ốm, ông viết:
"Th́nh ĺnh em ngă bệnh ngang
Phang anh xất bất xang bang thế này"
Tôi không tin trong từ điển có cụm từ
"xấc bất xang bang", nhưng đặt vào
đây thấy được, không đến nỗi
bật ra - nó có vẻ như là bà con xa với từ
"bang bách" vừa nói ở trên.
Trong những thời khắc chuyển giao thiên niên
kỷ, riêng tôi đặc biệt hứng thú với
việc rút gọn cụm từ này thành chỉ hai
tiếng - "thiên kỷ" - bởi v́ về
nội hàm, nó bảo đảm chở được
một nội dung đầy đủ và duy nhất,
tức là nó toàn quyền tồn tại độc
lập, không cần đến từ "niên"
ở giữa. Nói "thiên kỷ" th́ cũng như
nói "thập kỷ", tức chỉ khoảng
thời gian mười năm, hoặc "thế
kỷ", tức khoảng tồn tại của
một kiếp người, một cơi thế, v́ xưa
nay kiếp người vẫn được ước
lệ là một trăm năm ("trăm năm nào có
ǵ đâu...").
Nhưng nhào nặn khác với vặn vẹo. Tôi
muốn nói là có những người do quá khát khao
"lăng-xê" từ mới, nên đôi lúc
lạm phát lối cưỡng bức từ ngữ
một cách tùy tiện, thiếu nội lực để
đẻ ra những từ ngữ thiếu tháng
oặt ẹo, nên tạm gọi là vặn vẹo.
Tạm lấy thí dụ như đă nói trên kia:
Từ nói "vóng" lên (gốc từ
"vống") mà đẻ ra "vóng vót" (liên
tưởng đến "chót vót") hoặc
thậm chí "vóng véo" (liên tưởng đến
"véo von") th́ c̣n khả dĩ chấp nhận,
nhưng cứ đà ấy mà kéo thành "vóng vánh",
"vóng vít", "vóng víu'... th́ đích thị là
vặn vẹo rồi.
C̣n nhớ, khi đọc tiểu thuyết Mảnh
đất lắm người nhiều ma của nhà văn
Nguyễn Khắc Trường tôi có bắt gặp
một từ lạ - "hấp hoảng",
liền hỏi anh Trường nghĩa là ǵ th́
được trả lời: nghĩa của nó là
chỉ trạng thái dưới "hốt
hoảng" một chút! Tôi không rơ ở quê nhà văn
có ai dùng từ này thật không, nhưng tôi th́
từ bé chưa nghe qua bao giờ. Hay là ông ấy
đấu "hốt hoảng" và "hấp
tấp" lại mà thành? Chịu. Có điều là
đọc một cuốn sách mà học thêm được
một từ lạ cũng thấy sướng.
Trở lại với nhận xét chính cuộc sống
phát triển năng động đẻ ra từ
ngữ mới, xin lấy ngay thí dụ ở cái
hoạt động vẫn khiến nhiều người
ở xứ ta phát điên, tức là bóng đá, th́
sẽ rơ. Tôi thực sự khâm phục cái cách mà
những người yêu bóng đá ném ra hàng loạt
những từ mới nhằm diễn đạt
những ǵ diễn ra trên các chảo lửa, từ cách
gọi những vị trí thi đấu trên sân như
"hậu vệ tḥng, hậu vệ dập, hậu
vệ quét", rồi "tiền vệ trụ,
tiền vệ lùi", cho đến "tiền đạo
cắm"... đặc biệt là những từ mô
tả các hành vi và động thái rất chính xác và
đầy biểu cảm: dăn biên, chồng cánh,
bắt người, rướn, nhịp, vuốt,
lốp, vẩy, chọc khe, xâu kim, v.v... và v.v... Nhưng
ấn tượng nhất là gần đây tôi đă
nghe từ miệng một huấn luyện viên khen
cầu thủ trụ cột của đội ḿnh là:
"Cậu ấy có khả năng "đọc"
được trận đấu" Thật
tuyệt vời - văn đấy chứ c̣n ở
đâu nữa!
Anh Ngọc
(Báo Văn nghệ quân đội)
|