|
CÓ
HAY KHÔNG MỘT THỜI KỲ VĂN HỌC
CẬN ĐẠI ? |
1.
Một thời kỳ văn học mới
chỉ có thể thực sự diễn ra vào
nửa đầu thể kỷ XX. Thử
chọn một mốc lịch sử đánh
dấu bước chuyển mình quan trọng
đó : 1904 (Hội Duy tân), 1905 (phong trào Đông
du), 1907 (Đông Kinh nghĩa thục), 1909
(Nguyễn Khuyến mất). Chúng tôi chọn 1907
vì đây là một mốc "kép" (về văn
học cũng là năm Tú Xương, Đào
Tấn, Paulus Của từ trần, còn về các
chính sách của chính quyền thuộc địa,
thì do ảnh hưởng của phong trào Duy tân
của tầng lớp sĩ phu, Toàn quyền Beau
trong năm này đã phải lập một
Hội đồng cải cách giáo dục để
đưa tân học, chữ quốc ngữ,
chữ Pháp vào khoa cử Hán học, mở
một trường sư phạm đào tạo
giáo viên tiểu học và mở trường
đại học ở Hà Nội (35)
). Cái gọi là "mới" của thời
kỳ văn học khởi đầu từ
1907 là sức hút của những tư tưởng
tự do, dân chủ, nhân quyền, của
chủ nghĩa nhân đạo... trong trào lưu
cách mạng tư sản, cùng với quan
niệm thẩm mỹ lấy cái "tôi" cá
nhân cá thể làm trung tâm, và các hình thức
nghệ thuật mới mẻ của văn
học Âu Tây.
Có thể chia thời
kỳ văn học mà chúng ta đang đề
cập thành hai giai đoạn :
1. Giai
đoạn 1907-1932 : tiến trình đổi
mới của văn chương còn diễn ra
chậm chạp và không đồng đều.
Trong khi văn nghị luận, biên khảo
(Phạm Quỳnh và nhóm Nam
phong) và văn học dịch (Nguyễn
Văn Vĩnh và các nhà văn dịch chữ Hán)
dành được những thành tựu đột
xuất thì tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch nói vẫn chỉ mới là những bước
dò dẫm tìm đường. Thơ muốn
"phá cách, vứt điệu luật"
để thỏa mãn những rung động
khắc khoải của con tim nhưng cũng chưa
có cách nào thoát ra khỏi gông cùm của thơ
truyền thống. Văn học chữ Hán lưu
hành bằng con đường bí mật vẫn
có một địa vị dẫn đạo
đời sống tư tưởng.
2. Giai
đoạn 1932-1945 : là một bước
chuyển nhảy vọt từ lượng sang
chất của mọi trào lưu, mọi thể
loại - từ chủ nghĩa lãng mạn,
chủ nghĩa hiện thực đến
những báo hiệu đầu tiên của
nghệ thuật tượng trưng, siêu
thực (Nhóm Xuân thu nhã
tập), từ tiểu thuyết,
truyện ngắn, thơ, kịch nói, kịch thơ
đến lý luận phê bình; mặt khác là
một biến cách lớn lao trong sinh hoạt văn
học ngay từ khởi điểm 1932 (Tự
lực văn đoàn thành lập, phong trào thơ
mới nẩy sinh, Tản Đà cho in Khối
tình con tập III kết thúc sự
nghiệp thi ca của mình, và năm sau 1933, 27
tờ báo tiếng Việt được phép
xuất bản, các cuộc bút chiến về tư
tưởng, về văn học bắt đầu
dấy lên sôi nổi).
Nên đặt tên cho
thời kỳ văn học này là gì? Trong
cuộc hội thảo năm 1985, phần
lớn chúng tôi đều thống nhất
gọi là thời kỳ văn học Cận
đại. Cũng là điều dễ hiểu
: nửa đầu những năm 80, tình hình
thế giới chưa có biến động gì
đáng kể, quan niệm về vận động
lịch sử của chúng tôi căn bản
vẫn dựa trên lý thuyết các hình thái kinh
tế xã hội của Marx, coi sự nối
tiếp từ chế độ phong kiến
đến chế độ tư sản,
rồi sang chế độ xã hội chủ nghĩa
là điều hiển nhiên trên phạm vi toàn
cầu. Và như thế, thời kỳ văn
học 1907-1945, nằm trong phạm trù ý thức
hệ tư sản, ắt đã vượt thoát
các hệ thống quy phạm của văn
học phong kiến, nhưng dù sao nó cũng là
một thực tại đã và đang bị vượt
qua. Còn văn học từ 1945 đến nay, xét
trong tình hình lúc ấy, là nền văn học
đang đi vào quỹ đạo văn học
xã hội chủ nghĩa, lấy phương pháp
sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa
làm nguyên tắc, lấy ý thức hệ vô
sản làm linh hồn tư tưởng, chắc
chắn không thể nào khác là tương lai
của văn học dân tộc, là cái đã và
đang tới, thì ngoài mấy chữ văn
học Hiện đại, còn cách gọi nào
xứng đáng với nó hơn?
Điều không ai
ngờ là những đảo lộn tày trời
đã xảy ra chỉ 5 năm sau những ý
kiến phân kỳ của chúng tôi. Mặc dù
về chính trị, chúng ta vẫn giữ nguyên mô
hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng
nhiều nội dung đã phải mở rộng
khái niệm, như nền kinh tế nhiều thành
phần trong đó kinh tế cá thể, kinh
tế tư bản tư nhân không hạn
chế quy mô hoạt động, nền kinh
tế thị trường phát triển trong xu
thế đa cực hóa và toàn cầu hóa,
khuyến khích hoạt động kinh doanh, làm giàu
và hợp tác kinh tế với công ty tư
bản nước ngoài... Về văn học,
vị trí của văn học hiện đại
Việt Nam trong hệ thống văn học xã
hội chủ nghĩa thế giới dĩ nhiên
không còn, bởi lẽ dù vẫn tồn tại
một số nước xã hội chủ nghĩa
thì mối tương giao anh em trong nhiều lĩnh
vực, kể cả văn học, đã khác trước
về cơ bản. Ngay như Trung Quốc,
sự phát triển văn học của nước
này sau giai đoạn cải cách mở cửa
như thế nào, hẳn là còn phải chờø
đợi, nhưng điều ta biết
chắc là không ai còn áp đặt phương
pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa
lên các nhà văn Trung Hoa lục địa,
kể từ đó đến nay. Trong phần
viết về văn học Trung Quốc
đương đại, bộ Trung
Hoa văn học thông sử của
Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc phát
hành năm 1997 đã nói đến hiện tượng
đa nguyên trong thơ ca, nói đến trường
thơ tân biên tái, trường thơ mông lung,
trường thơ "tân sinh đại", nói
đến trường phái tiểu thuyết bám
rễ vào hương thổ, trường phái
tiểu thuyết đô thị phong tình, trường
phái tiểu thuyết nữ tính, trường phái
tiểu thuyết tân hiện thực... (36)
vốn là những khái niệm chưa hề có
trong phạm trù "hiện thực xã hội
chủ nghĩa" mà sách vở trước nay
vẫn coi là kinh điển. Và ngay chúng ta, trong
Đại hội nhà văn lần thứ IV
(1989), Tổng bí thư lúc đó là ông Đỗ
Mười cũng có phát biểu, đại ý
cho rằng đối với phong trào văn
nghệ hiện nay, phương pháp hiện
thực xã hội chủ nghĩa hay phương
pháp sáng tác nào cũng có thể sử dụng,
miễn sao góp phần làm cho văn học dân
tộc tiến bước vững mạnh.
|
2.
Bởi vậy, nhiều tiêu chí được
chúng tôi vận dụng năm 1985 nhằm phân
biệt hai thời kỳ văn học Cận
đại và Hiện đại, đến nay
đã phải được duyệt lại
một cách rạch ròi. Trong Mấy
vấn đề thi pháp văn học Trung
đại, Trần Đình Sử chưa
nêu lên một ý kiến thật dứt khoát
về sự phân định giữa hai thời
kỳ Cận đại và Hiện đại,
bởi theo ông, nếu nói đến việc
chấm dứt chế độ phong kiến thì
phải tính tới cái mốc 1945, nhưng xét riêng
bản thân văn học thì từ 1930-1932 văn
học Trung đại đã chấm dứt
hẳn. Tuy nhiên, "nếu hiểu thời
Hiện đại là thời đại đánh
dấu bằng sự tiếp xúc, giao lưu toàn
diện của tất cả các quốc gia trên
thế giới, tất cả tham gia vào một
tiến trình lịch sử chung, các sự
kiện lịch sử thế giới tác động
trực tiếp tới mọi quốc gia lớn
nhỏ, thì có thể nói việc xác định
thời Hiện đại từ thế kỷ
XX là có cơ sở" (37)
. Rất tiếc, ý kiến này vẫn chỉ
mới như một định hướng
tổng quan để nhận diện một bước
ngoặt của lịch sử từ Trung đại
(hoặc CâÏn đại) sang Hiện đại,
chứ chưa phải là những tiêu chí đặc
thù của thời kỳ văn học HiệÏn
đại Việt Nam.
Thiết tưởng,
đến nay, không ai còn nghi ngờ gì về
thời điểm bắt đầu của
tiến trình hiện đại hóa văn
học dân tộc, là kể từ khoảng
giữa thập niên thứ nhất của
thế kỷ XX. Tiến trình đó kéo dài trong
suốt thế kỷ XX và còn vắt sang thế
kỷ XXI, nhưng cho đến 1945 đã đạt
đến một cao trào mà những thành
tựu về sau dường như không với
tới được, ít nhất là về
khối lượng và khả năng chiếm lĩnh
bạn đọc của những tác phẩm tiêu
biểu, về tính phong phú, hoàn chỉnh của
những tổ chức và hoạt động văn
học đúng nghĩa, về sự đa
dạng, tài hoa của những phong cách nghệ
thuật bậc thầy. Con đường
hiện đại hóa văn học ở
thế kỷ XX làø một xu thế tất
yếu song không nhất thiết lúc nào và ở
đâu cũng chỉ có đi lên, hơn
nữa, sự thăng hoa trong nghệ thuật
đôi lúc lại bắt nguồn từ
những yếu tố rất khó giải thích ,
nên không thể nói chắc rằng tiến trình
sau bao giờ cũng cao hơn tiến trình trước,
đó là điều không có gì lạ. Tuy
vậy, cũng không thể vì cái giá trị không
thể chối cãi của văn học giai đoạïn
1932-1945 mà cho rằng đây nghiễm nhiên đã
là văn học hiện đại. Một khi văn
học chúng ta đã bước vào quỹ đạo
của văn học thế giới thì hai
chữ "hiện đại" dùng cho nó cũng
phải dựa trên chuẩn mực của văn
học thế giới, chứ không thể
nặn ra một thứ chuẩn mực riêng cho
văn học Việt Nam. Ta sẽ thấy, trong
suốt thời kỳ văn học 1907-1945,
hầu hết các hình thức thể loại cũng
như tiêu chuẩn thẩm mỹ mà văn
học dân tộc đang cố sức đuổi
cho kịp văn học Âu Tây, chẳng qua
chỉ mới là cái trình độ của Âu Tây
giới hạn ở thế kỷ XIX trở
về trước. Từ các nhà văn châu Âu
được dịch ra tiếng Việt, các trường
phái châu Âu mà chúng ta mô phỏng, đến các
tác giả tác phẩm chúng ta lấy làm mẫu
mực... nếu không thuộc chủ nghĩa
Cổ điển thì cũng thuộc chủ nghĩa
Lãng mạn, không chủ nghĩa lãng mạn thì
cũng là chủ nghĩa Hiện thực
(vốn đều đã kết thúc vận
mệnh ở cuối thế kỷ XIX và mấy
năm đầu thế kỷ XX là cùng), như
Corneille, Racine, Molière, La Fontaine, Dumas bố và con,
Hugo, Balzac, La Martine, Chateaubriand, Beaudelaire, Rimbeau,
Verlaine, Musset... Còn các trường phái hiện
đại như Trừu tượng, Tượng
trưng, Siêu thực, Hiện sinh chủ nghĩa...
đối với họ nói chung vẫn còn là
điều lạ lẫm (trừ Xuân
thu nhã tập xuất hiện sát
ngay trước Cách mạng tháng Tám). Ngay
kịch nói của chúng ta trong giai đoạn,
dấu ấn để lại sâu đậm
nhất vẫn là dòng kịch đá giọng
biền ngẫu, theo luật tam duy nhất,
của kịch nói châu Âu thế kỷ XVII mà thôi.
Như thế, có thể nói cái hiện đại
của văn học Việt Nam ở nửa
đầu thế kỷ XX là cái hiện đại
đã bị văn học châu Âu nửûa đầu
thế kỷ XX vượt qua. Cái hiện đại
ấy thực chất chỉ là Cận đại.
Tôi nghĩ, gọi văn học 1907-1945 là Thời
kỳ văn học Cận đại
trong những tương quan đó không phải
là không hợp lý. Gọi như thế hoàn
toàn không phải là hạ thấp giá trị
của nó (Ngay cả những trường
phái Trừu tượng, Tượng trưng, Siêu
thực, Hiện sinh... của thế giới có
sức sống bền vững đến đâu
cũng còn là điều chưa dễ đã
nhất trí, nhưng nói đó là sản phẩm
của thời hiện đại và của tư
duy nghệ thuật hiện đại thì không
thể phủ nhận).
|
HAI
HƯỚNG PHÂN CHIA THỜI KỲ VĂN
HỌC HIỆN ĐẠI :
CHIA THEO VÙNG VÀ CHIA
THEO GIAI ĐOẠN |
1.
Nhưng gọi văn học 1907-1945 là văn
học Cận đại thì văn học
từ sau 1945 đến nay nghiễm nhiên là văn
học Hiện đại, thực
tế có những đặc trưng gì khác trước?
Tôi xin không nhắc lại cái "khác biệt cơ
bản" mà trong những bài viết trước
đây, tôi và các nhà nghiên cứu khác đã
lấy làm tâm đắc. Cái khác biệt ấy
hóa ra đã bị thời gian sàng lọc,
thử thách, không còn đứng mãi được
ở vị trí "cơ bản" nữa
rồi. Chỉ lưu ý rằng trong bộ Trung
Hoa văn học thông sử đã
dẫn, có khác với chúng ta, giới nghiên
cứu Trung Quốc gọi thời kỳ văn
học từ khi nước cộng hòa nhân dân
Trung Quốc thành lập về sau là văn
học Đương đại. Văn
học Đương đại là cái đang
diễn ra - một phạm trù thời gian
chứ không phải một phạm trù giá
trị. Nó đòi hỏi miêu tả chính xác các
hiện tượng hơn là tổng kết,
đánh giá, "xếp hạng" cho chúng,
bởi cái đang diễn ra thì phải chờ
"cái quan định luận", chờ phán
xét của người sau. Văn học Việt
Nam Hiện đại có lẽ cũng nên
được nhìn theo phương hướng
trên. Tính hiện đại trước hết
nằm ở quy mô biến động mang
tầm thế giới của môi trường sáng
tác. Từ nửa sau thế kỷ XX, văn
học diễn ra trong một bối cảnh có
nhiều bức xúc và dồn dập những
sự kiện đầy kịch tính : cuộc
chiến 30 năm chống xâm lược Pháp và
Mỹ thôn tính và chia cắt đất nước,
sự xuất hiện của hai phe và tình hình căng
thẳng của chiến tranh lạnh, sự
sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa
cùng với yêu cầu đổi mới toàn
diện đất nước, xu hướng
mở cửa, giao lưu kinh tế và văn hóa
với thế giới, gia nhập vào khối
thị trường chung ... Bối cảnh
phức tạp khiến cho văn học Việt
Nam Hiện đại trong vòng hơn năm mươi
năm qua cũng mang một diện mạo
phức tạp không kém mà bước đầu
tạm rút ra hai đặc điểm : văn thơ
in đậm dấu ấn chính
trị và có xu
hướng đa vùng. Đấu tranh
khốc liệt về ý thức hệ buộc văn
học phải trở thành "vũ khí",
hoặc chí ít cũng không thanh thản đứng
ngoài chính trị như văn học trước
1945, dù là bên này hay bên kia. Trên con đường
đấu tranh, đất nước nhiều
phen bị cắt xé, hình thành các cộng đồng
dân cư có thể chế xã hội khác nhau,
sinh hoạt vật chất và tinh thần khác
nhau, trong đó có sinh hoạt văn nghệ.
Đương nhiên, bối cảnh của
Việt Nam nằm trong cục diện chính
trị của thế giới, nên "trường
hợp Việt Nam" cũng không phải là cá
biệt. Nếu nói đến văn học Trung
Quốc Đương đại, học
giả đương đại Trung Quốc
đã không thể bỏ quên văn học Đài
Loan, văn học Hồng Kông, văn học Ma
Cao bên cạnh văn học đại lục (38)
, nói đến văn học Triều Tiên
Đương đại, học giả
đương đại Triều Tiên không
thể không xem xét cân đối văn học
cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và văn
học Nam Hàn, thì nói đến văn học
Việt Nam trong thời kỳ này, người
nghiên cứu Việt Nam cũng nhất
thiết phải tìm hiểu nghiêm chỉnh
văn học vùng kháng chiến (chiến khu
Việt Bắc, chiến khu Nam Bộ và khu IV khu
V), văn học các đô thị Hà Nội, Sài
Gòn thời Pháp tạm chiếm, văn học
nửa nước phía Bắc và văn học
nửa nước phía Nam sau Hiệp định
Genève, rồi văn học vùng giải phóng sau
ngày Hội văn nghệ giải phóng miền
Nam thành lập, và từ sau 1975 là văn học
trong nước và văn học hải
ngoại. Văn học mang lằn ranh ý thức
hệ là một hiện hữu nhưng giá
trị của nó còn được quy định
bởi nhiều yếu tố quan trọng khác.
Miêu tả thật khách quan, khoa học, đóng
góp của văn học mỗi vùng vào bộ
mặt chung của văn học đất nước,
theo tiêu chuẩn cái hiện thực và cái nhân
bản, cái dân tộc và cái nhân loại, cái
trần thế và cái tâm linh,... là nhiệm
vụ cấp thiết của văn học
sử.
Sự phân vùng không
những làm cho tính chất của văn học
Hiện đại Việt nam ở nửa
cuối thế kỷ XX không còn thuần
nhất mà ảnh hưởng của các trào lưu
hiện đại quốc tế đến văn
học dân tộc cũng mỗi vùng một khác
nhau. Tuy thế, dù tiếp xúc từ chân trời
nào, ở thời điểm này văn học
chúng ta đã thực sự bước
vào quỹ đạo thế kỷ XX của văn
học thế giới. Trong khi văn
học miền Bắc tiếp thu kinh nghiệm
của văn học Liên-xô, Trung Quốc, ra
sức xây dựng cái "ta" cộng đồng,
mở rộng cảm hứng sử thi, sáng
tạo những điển hình con người
mới theo phương pháp hiện thực xã
hội chủ nghĩa, tiếp tục "thâm
canh" trên những thể loại đã
trở thành cổ điển : tiểu
thuyết, truyện ngắn, tùy bút, thơ
lục bát, thơ tự do, và khởi xướng
thơ không vần (Nguyễn Đình Thi), thơ
hòa trộn (lục bát với năm
chữ-bảy chữ-tám chữ), thơ văn
xuôi... thì văn học miền Nam dưới
chế độ Việt Nam cộng hòa, cũng
qua những thể loại tương tự,
lại đào sâu vào hình ảnh con người
tự do cá nhân, đẩy tới cực
hạn những kiểu người duy ngã - con
người mặc sức dấn thân hay "buông
xả" , con người như một hệ
lụy của chính nó - đồng thời đã
ít nhiều tiếp xúc với những trường
phái mới mẻ nhất của văn học
Âu Tây như trường phái Tiểu thuyết
mới, Phê bình mới, Hiện sinh chủ nghĩa...
hoặc có những cách tân mạnh bạo trong
thơ ca, như nhóm Sáng tạo của Mai
Thảo, Thanh Tâm Tuyền, hay lối thơ ngô
nghê Bùi Giáng... Thu thập, phân tích, so sánh
cho kỳ hết các đặc điểm khác
nhau của mỗi vùng văn học trong cộng
đồng văn học Hiện đại
Việt Nam, theo tôi, cũng chính là một yêu
cầu của phân kỳ văn học sử
hiện đại, vì độ chênh về không
gian ở đây xét tới cùng vẫn là sự
phản ánh gián tiếp độ chênh về
thời gian, là thời gian không gian hóa.
2.
Và cũng trên cơ sở tính đa vùng đã
được nhận diện, ta có khả năng
tiến thêm một bước, tìm những phương
án hợp lý phân chia giai đoạn cho văn
học Hiện đại Việt Nam. Xét một
cách giản dị thì trong hoàn cảnh một
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài
đến 30 năm, sự xáo trộn không gian
địa lý của mỗi vùng sáng tác đều
do các nấc thang của cuộc chiến
quyết định, bộ mặt văn học
Hiện đại dường như cũng
diễn tiến theo sát các biến cố
lịch sử, tạo nên ba giai đoạn chính,
mà trong mỗi giai đoạn, thế lưỡng
phân về ý thức hệ không có gì thay đổi,
song đội ngũ sáng tác thì có bổ sung, hoán
chuyển, và chủ đề, đề tài, hình
thức biểu hiện... ở mỗi vùng đều
thay đổi khá nhiều :
1. Giai
đoạn 1945-1954 : văn học cách
mạng kháng chiến ra đời ở
chiến khu và các vùng tự do, văn học
đô thị ở trong vùng tạm chiếm.
Lực lượng cầm bút chủ yếu
vẫn là thế hệ nhà văn trước
1945, nhưng một bên hào hứng với ánh sáng
cách mạng, với tư thế con người
đứng lên giành độc lập, một bên
mang tâm sự mặc cảm của kẻ
"trong tề", nhiều người vẫn
khắc khoải hướng về "người
đi khu chiến"; một bên phải thử
thách mình trước một hiện thực sôi
động chưa từng biết, một bên
vẫn tiếp tục sở trường quen
thuộc trước kia.
2. Giai
đoạn1954-1975 : đất nước
chia đôi, văn học tồn tại hợp
thức dưới hai chính thể nhà nước
thuộc hai khối đối địch nhau. Văn
học miền Bắc (và vùng giải phóng
miền Nam) vừa kế thừa lớp người
cầm bút trong kháng chiến chống Pháp
vừa có thêm nhiều lực lượng
trẻ góp mặt, mục tiêu quán xuyến là xây
dựng xã hội chủ nghĩa và đấutranh
chống Mỹ ngụy. Văn học
miền Nam không chỉ là lực lượng
tại chỗ về sau ngày càng đông đảo,
mà còn được bổ sung từ Hà Nội
và các vùng kháng chiến hồi cư, không
chủ trương định hướng sáng
tác, thả lỏng cho mọi sự sáng tạo
tự do, vì thế nhiều khuynh hướng
đối lập cùng song song tồn tại, có chống
cộng và hòa
giải, tâm lý chiến và
phản chiến,
lại có cả văn chương
đứng ngoài chính trị...
3. Giai
đoạn từ sau 1975 : đất nước
thu về một mối tạo điều
kiện cho nền văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa mở rộng thành văn
học cả nước, cất tiếng ca tưng
bừng "Việt Nam - Hồ Chí Minh"
của người chiến thắng, đưa
lên "tượng đài" hình ảnh người
anh hùng đánh Mỹ, và từng bước dõi
theo tư thế của con người ấy
trong cuộc sống hòa bình. Trong khi đó,
ở nhiều nước có cộng đồng
người Việt di tản, một dòng văn
học hải ngoại ra đời, buổi
đầu cũng do lực lượng văn
nghệ sĩ cũ ở miền Nam đóng vai
trò chính, vừa bàng hoàng phẫn hận trước
bi kịch đổ vỡ của những con người
ở phía bên kia cuộc chiến, vừa dày vò
trong nghịch cảnh lưu vong : phải
trải qua muôn nghìn khổ ải để tìm
đất hứa, bơ vơ nơi xứ
lạ, nỗ lực hội nhập để
sống còn nhưng vẫn không quên khẳng
định "căn cước" của chính
mình... Cách phân chia này tưởng cũng dễ
được nhiều người thừa
nhận.
|
Tuy nhiên, văn học
từ 1975 đến nay phải chăng vẫn
chỉ là một giai đoạn mà thôi? Nên
nhớ về mặt lịch sử, cái mốc
1975 là một bước ngoặt trọng đại
chưa bao giờ có trong ba phần tư đầu
thế kỷ, nó đánh dấu một kỷ
nguyên độc lập trong thống nhất
vẹn toàn. Từ 1975 hay chính xác hơn là
từ 1980 trở đi, cả dân tộc trên
khắp mọi miền đã lần lần
cất được cái áp lực nặng
nề của tâm lý con người thời
chiến - phải dẹp bỏ tất cả,
thu mình lại hoặc căng mình ra "chịu
trận" - để trở lại nếp
sống thường nhật, với những giây
phút riêng tư, chùng lắng, những lo nghĩ
tính toan vụn vặt, và biết bao nhu cầu,
dục vọng, thói quen, sở thích... cả
những "ẩn số" nằm trong đáy
tâm khảm, những "nỗi đau thân
phận" muôn thuở của kiếp người.
Trong xã hội cũng như trong mỗi gia đình,
mỗi cá nhân, hàng loạt vấn đề bình
thường mà ngổn ngang, "tơ vò trăm
mối", cứ thế đặt ra, không
dễ gì giải quyết ngay một lúc và cũng
không thể giải quyết theo kiểu dứt
khoát "trắng đen", "bạn thù"
như thuở còn chiến tranh. Thế mà văn
học rất lâu về sau vẫn không theo
kịp bước chuyển đó. Hình thái nhà
văn - chiến sĩ / cầm bút - cầm súng
chưa thôi ám ảnh tâm thức sáng tạo, và
trên mọi trang viết, đề tài thời
sự chính sách được ưu tiên lựa
chọn, mặt khác âm hưởng sử
thicơ hồ được đẩy
đến nấc tột cùng. Con người
điển hình vẫn đẹp một cách cao
cả, uy nghiêm, không chút động tâm trước
muôn vàn những chuyện "tuế toái bà
dằn" của thực tế. Đó là
kiểu người hướng
ngoại, không có bi kịch, hiếm khi
phải đối diện với chính nó trong tình
trạng phân thân hay vôthức. Cuộc sống mà
văn thơ miêu tả bao giờ cũng
được xếp đặt hợp lý,
rất đúng tinh thần duy lý, tưởng như
khó có thể len vào dù chỉ là một thoáng
phi lý, siêu hình. Phải nói giữa cái
được phản ánh và cái phản ánh
bây giờ đã khó điều hòa
được với nhau, văn học đang
trượt theo đà quán tính của nó, làm nó
bị chững lại, nhất là vào những năm
đất nước lâm vào khủng hoảng
bởi chế độ bao cấp đã đến
hồi quá tải.
Bức bối của
đời sống hiện thực bắt
buộc phải tìm ra giải pháp. Năm 1986,
chủ trương đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Cùng với nó, văn nghệ được
"cởi trói" (39)
, bắt đầu dậy lên một luồng
sinh khí mới. Nhưng trong chiều sâu nhận
thức của nhiều người, không
phải đến bấy giờ mới chợt
thức tỉnh. "Khoán chui" đã xuất
hiện từ sớm và sớm hơn nữa là
vè, tiếu lâm, tục ngữ, ca dao hiện
đại. Cũng vậy, từ 1978-1979 lý
luận phê bình đã lên tiếng cảnh báo
hiện tượng "phải đạo"
của cả một khuynh hướng văn chương
: nó là "sự lấn át của bình diện
cái phải tồn tại đốùi với bình
diện cái đang tồn tại",
"sự lấn át của cấp lý tính đối
với cấp cảm tính trong nhận thức
của chủ thể mỹ học, sự
lấn át của nội dung đối với hình
thức trong cấu trúc của hình tượng
và tác phẩm nghệ thuật, sự lấn át
của lý trí đối với cảm xúc trong hình
ảnh con người mới cũng như
sự lấn át của bản chất đối
với hiện tượng trong hình ảnh
cuộc sống mới được phản ánh
vào tác phẩm", nó khiến cho "nhân
vật mờ nhạt", "bị sự
kiện lấn át", "đến một
mức độ nào đó xu hướng này
đẻ ra chủ nghĩa minh họa" (40)
. Chỉ mới là một vài tiếng nói
đơn độc buổi đầu mà đã
đủ gây nên cả một "cú
sốc", dường như trong tâm lý xã
hội có cái gì nghịch lý
giữa không muốn chấp nhận nó song cũng
chẳng thể chối bỏ. Nhưng rồi
tiếp đấy là những năm trăn
trở, vật lộn âm thầm, và rèn thêm dũng
khí để người sáng tác tự bứt
dần khỏi "cái động hình" bám
rễ sâu trong tư tưởng, nói như
Nguyễn Minh Châu "đó là những năm các
nhà văn nghĩ rất nhiều và băn khoăn
day dứt rất nhiều về mối quan
hệ giữa văn học và đời
sống thực tại đang một ngày
một xa" (41) .
Mỗi tác phẩm ra đời lại là thêm
một bằng chứng văn học đang
cố gắng vượt lên, đang tự
điều chỉnh cho đúng hướng : Nguyễn
Trãi ở Đông Quan và Rừng
trúc của Nguyễn Đình Thi 1978-1980, Gặp
gỡ cuối năm của Nguyễn
Khải và Mưa mùa hạ
của Ma Văn Kháng 1982, Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của
Nguyễn Minh Châu, Đứng
trước biển, Cù lao
tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Hồn
Trương Ba da hàng thịt, Tôi
và chúng ta, Nhân danh công lý của
Lưu Quang Vũ 1983-1984, Ánh trăngcủa
Nguyễn Duy, Sân ga chiều em
đi, Tự hátcủa Xuân Quỳnh 1984,
Người đàn bà ngồi
đan của YÙ Nhi, Khối
vuông ru-bích của Thanh Thảo, Mùa
lá rụng trong vườncủa Ma Văn
Kháng, Bên kia bờ ảo
vọng của Dương Thu Hương
1985, Thời xa vắng
của Lê Lựu, Miền hoang
tưởng của Xuân Khánh 1986... Cho
đến cuối năm 1987, Nguyễn Minh Châu
đã có thể yên tâm "đọc lời ai
điếu" (42)
cho cả một chặng đường văn
nghệ đã qua mà với tư cách là người
trong cuộc, ông biết rõ đến ngóc ngách
mọi sở trường sở đoản.
Bởi thế, chúng tôi coi những năm từ
1978-1979 trở đi là một thời gian quá
độ, "tiền đổi mới" (préréforme),
là bước chuẩn bị cần thiết
về cả tiềm lực sáng tạo lẫn cơ
sở lý luận cho sự nở rộ của
chặng đường sau mà ta có thể
lấy năm 1988 ? năm xuất hiện một
loạt truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp ? làm mốc chính thức : chặng
đường thật sự trở lại
với cảm hứng thế sự, cảm
hứng đời tư, với cái tôi trữ tình
và phản tỉnh xã hội, với những cách
tân ngôn ngữ, cấu trúc, thi pháp, qua truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo,
Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị
Thu Huệ và rất nhiều cây bút sắc
sảo khác, qua tiểu thuyết của Bảo
Ninh, Dương Thu Hương, Ma Văn Kháng, Lê
Lựu, Xuân Khánh, Đoàn Lê, Nguyễn Khắc
Trường, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang
Lập... ký của Tô Hoài, Phùng Gia Lộc, Phùng
Quán, Trần Duy Quang... thơ của Văn Cao,
Đặng Đình Hưng, Chế Lan Viên (Di
cảo), Hoàng Cầm, Lê Đạt,
Trần Dần, Trần Vũ Mai, Xuân Quỳnh,
Thanh Thảo, Nguyễn Duy, YÙ Nhi, Đoàn Thị
Lam Luyến, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Hưng,
Dư Thị hoàn, Nguyễn Quyến...
Cũng không phải là tình
cờ mà trước sau một vài năm tính
từ thời điểm 1988, văn học
hải ngoại cũng có những chuyển
biến thấy rõ. Trong khi một số nhà văn
lớp trước bớt nói đến ẩn
ức chính trị, đi tìm cảm hứng trong
lịch sử hoặc trong những chiêm
nghiệm thân thế, trầm mặc về đời
người... sau nhiều "mùa biển động",
thì đông đảo các nhà văn trẻ ? mà
số lượng nữ khá vượt trội
- lại mải mê ghi lại vô vàn cảnh
ngộ lý thú, nực cười của cuộc
mưu sinh tất bật nơi quê hương
mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng
lực tìm tòi các cách viết mới, cách đặt
câu xếp chữ tân kỳ, cách ám dụï
bằng biểu tượng cho văn chương
thêm đa nghĩa, và cũng có không ít nhà văn,
không chút thờ ơ trước luồng gió
đổi mới từ trong nước, đang
cố gắng thoát khỏi những mặc
cảm quá khứ, chủ động lên
tiếng "hợp lưu" để cùng
với dòng văn học đổi mới
ở trong nước "hợp chung thành
một dòng văn học Việt có trong có ngoài,
trong sự cảm thông giữa những người
cầm bút" (43)
.
Hoàng Ngọc Hiến
muốn gọi giai đoạn mới này của
văn học Hiện đại Việt Nam là
giai đoạn "hậu hiện thực xã
hội chủ nghĩa" (44)
. Chúng tôi nghĩ, có lẽ cách làm cần
thiết hơn là chỉ ra được
yếu tính của nó : một giai đoạn mà
sự sáng tác văn chương đã giảm
thiểu tối đa tính
chức năng của văn học giai
đoạn trước, đã ấp ủ trong
ngòi bút cái nội lực của tinh
thần dân chủ, mặt khác đã
từng bước đáp ứng những thôi
thúc bí ẩn bên trong của công
việc sáng tạo, nghĩa là không còn quá áp sát
bởi chính trị.
4 - VI -
2001
Nguyễn Huệ Chi
|
1. Xem bài Vấn
đề phân kỳ văn học sử
Việt Nam. Tạp chí văn học,
số 3-1985, tr. 59-75.
2. Bài trên
được sửa lại và in trong cuốn Các
vấn đề của khoa học văn
học. Trương Đăng Dung
chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1990. Tr. 372-398.
3. Xem bài Đổi
mới nhận thức lịch sử trong khoa
học xã hội và trong nghiên cứu văn
học. Tạp chí văn học, số
6-1990.
4. Xem bài Vấn
đề phân kỳ trong lịch sử văn
học dân tộc và quy luật vận động
củá văn học dân tộc. Tạp chí văn
học, số 3-1985, tr. 25-40.
5. Xem bài Vấn
đề chọn mấy năm mốc trong
việc phân kỳ lịch sử văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tạp chí
văn học, số 3-1985, tr. 41-51.
6. Xem bài Suy
nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ
lịch sử văn học Việt Nam. Tạp
chí văn học, số 3-1985, tr. 52-58.
7. Xem Mấy
vấn đề thi pháp văn học Trung đại
Việt Nam. Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
1999.
8. Klanixoi
Tiborơ. Về khái niệm
thời kỳ văn học. Sđd, tr.
399-408.
9. Thanh Lãng. Bảng
lược đồ văn học Việt Nam,
Tập thượng, Nxb. Trình bày, Sài Gòn, 1967.
Phần mở đầu, tr. XXXXI-XXXXII.
10. Như trên,
tr. XXXXII-XXXXIII.
11. Trung
Hoa văn học thông sử, 10 quyển.
Trương Quýnh, Đặng Thiệu Cơ, Phàn
Tuấn chủ biên. Hoa nghệ xuất bản xã,
Bắc Kinh, 1997. Sách này viết đến
tận cuối thế kỷ XX nhưng chúng tôi
chỉ chọn 4 quyển đầu, tức
thời kỳ thứ nhất (Cổ đại)
trong bảng phân kỳ của họ.
12. Xem Trung
Quốc văn học sử, 4 quyển.
Nxb. Cao đẳng giáo dục, Bắc Kinh, 1999. Sách
này chỉ viết từ thời Thượng
cổ dến năm 1919. Phần "Tổng
tự" của Viên Hành Bái, Q. I, tr. 12 và 18.
13. Lanson. Histoire
de la littérature française (in lần đầu
1894), remaniée et complétée pour lapériode 1850-1950 par Paul
Tuffaut. Nhà sách Hachette, Paris, 1951. Trong sách này,
Lanson và Paul Tuffaut đã chia lịch sử văn
học Pháp thành bảy thời kỳ :1.
Thời kỳ Trung cổ; 2. Thời kỳ
từ sau Trung cổ đến hết Phục hưng;
3. Thế kỷ XVI; 4. Thế kỷ XVII; 5.
Thế kỷ XVIII; 6. Thế kỷ XIX; 7. Thời
kỳ Hiện đại (1919-1950).
14. M. H.
Abrams. A Glossary of Literary Terms.
Nxb. Harcourt Brace College, Fort Worth, Philadelphia, San Diego,
New York, Orlando, Austin, San Antonio, Toronto, Montreal, London,
Sydney, Tokyo, tr.210. Các dẫn liệu trong cuốn
sách này và trong cuốn Thử
thách của vấn đề phân kỳ
của Lawrence Besserman (chú thích 28) đều do ông
Nguyễn Nam, Trường đại học
Harvard, chỉ giúp. Xin ghi nhận ở đây lòng
biết ơn của chúng tôi.
15. M. H.
Abrams. Sđd, tr. 205. Nguyên văn : "suggests that
there is an order in American political history more visible and
compelling than that indicated by specifically literary or
intellectual categories".
16. Như trên,
tr. 205.
17. Xem bài Xác
định cái dân tộc, cái cổ điển
làm cơ sở để phân kỳ văn
học dân tộc (1984). In trong Nho
giáo và văn học Việt nam Trung cận đại.
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995, tr. 500-523.
18. Xem
mục "Le monde médiéval" trong sách Encyclopedia
Universalis, CD-Rom PC. Nguyên văn : "Dans
le cadre original, une civilisation s'est élaborée à partir d'éléments
dont la plupart étaient classiques, germaniques ou chrétiens".
Sau đây là hai đoạn trích nói về uy
thế của đạo Cơ đốc và
của Tòa thánh La-mã trong suốt thời Trung
cổ :
"Để thực
hiện sự thống nhất về tinh
thần, phải gieo rắc tín ngưỡng,
đón trước những sự bất đồng,
và nuôi sống nó bằng những giáo đồ
của nó. Nhiệm vụ thứ nhất là
việc truyền bá Phúc âm, sánh vai cùng sự bành
trướng của phương Tây. Khi thì
những tông đồ nối gót những người
lính, những viên chức và những nhà buôn, và
họ vinh danh hành động của họ; khi
thì họ khai thông con đường của
họ. Họ chinh phục trước tiên là phía
Bắc xứ Francie, nước Airơlen, nước
Anh, nước Đức. Dưới triều
Carôlinhgiêng, họ buộc các xứ Saxe, Moravie,
Carinthie slovène quy theo đạo. Đến
thế kỷ X, họ thâm nhập vùng Scandinavie,
cắm chốt ở Bohême, chiến thắng người
Hung và với tay tới Ba-lan. Với phong trào Drang
nach Osten [ phong trào "Tiến về phương
Đông" của phong kiến Đức ở
thế kỷ XII], họ mang Phúc âm vào Phầân-lan,
vào những vùng nói tiếng Slave ở Poméranie và
Prusse. Nhưng những vùng nói tiếng Slave
ở Serbie, Bun-ga-ri và Nga thì thoát khỏi bàn tay
La-mã. Giữa những năm 860 và 871, họ
tiếp nhận những nhà truyền giáo
của xứ Byzance. Khi sự ly giáo nổ ra,
họ ở lại trong phạm vi ảnh hưởng
của xứ này. Thầy tu nối vào chính
trị để cắt Đông Âu ra khỏi phương
Tây" (Pour réaliser l'unité
spirituelle, il fallait répandre une croyance, y prévenir les
dissensions et la faire vivre par ses adeptes. La première tâche,
l'évangélisation, alla de pair avec l'expansion de l' Occident.
Tantôt les apôtres suivirent les soldats, les fonctionnaires et
les marchands et couronnèrent leur action, tantôt ils leur frayèrent
la route. Ils conquirent d'abord la Francie septentrionale,
l'Irlande, l'Angleterre, l'Allemagne. Sous les Carolingiens, ils
convertirent la Frise, la Saxe, la Moravie, la Carinthie slovène.
Au Xe siècle, ils pénétrèrent en Scandinavie, s'ancrèrent en
Bohême, triomphèrent chez les Hongrois et atteignirent la
Pologne. Avec le Drang nach Osten, ils portèrent
l'Evangile en Finlande, dans les pays baltes et aux Slaves de Poméranie
et de Prusse. Mais ceux de Serbie, Bulgarie et Russie échapèrent
à Rome. Entre 860 et 871, ils avaient accueilli des missionnaires
de Byzance. Quand le schisme éclarta, ils restèrent dans la sphère
d'influence de celle-ci. Le religieux rejoignit le politique pour
couper l'Europe orientale de l'Occident).
"Với tham vọng
về sự độc lập của vị Giáo
trưởng Constantinople, nó trả lời
bằng cách khẳng định không khoan nhượng
quyền lực vạn năng của La-mã. Để
sắp đặt thế giới theo kế
hoạch của Chúa trời, nó công bố
sự ưu thế của trật tự tinh
thần đối với trật tự chính
trị, và vậy là ưu thế của Giáo hoàng
đối với Hoàng đế. Nó chỉ
thực hiện đầy đủ điểm
thứ hai của chương trình này, chính là cái
điểm mà chúng ta quan tâm ở đây. Như
vậy nó cắt La-mã khỏi các thánh đường
phương Đông, nhưng nó cũng làm cho
La-mã của phương Tây trở thành một
chế độ quân chủ thực sự. mà
người thủ lĩnh, vị Giáo chủ, chính
là quốc vương, trong tất cả sức
mạnh của từ ngữ, và những Bộ
trưởng, Hồng y, đều được
tuyển lựa trong tất cả các nước
la-tinh theo dạo Cơ đốc, còn những
vị Toàn quyền, những Công sứ tòa thánh,
thì luôn luôn đi khắp các nước
ấy.Trật tự tôn giáo đã tác động
trong cùng một nghĩa. Những tu viện
cấp cao, ngay từ đầu thời Trung
cổ, đã chiếm một chỗ rất
lớn ở phương Tây. Cho đến
thế kỷ X, những tu viện ấy dã
trở thành độc lập, không còn phụ
thuộc lẫn nhau. Với dòng Cluny ở
thế kỷ X, chúng thường có thói quen
tập hợp lại xung quanh một quy chế,
và xung quanh một vị thủ lĩnh độc
nhất hoặc một Hội đồng công
cộng, một "tổng tập đoàn
thầy tu", để giải thích và làm cho
quy chế được áp dụng. Số đông
những trật tự sinh ra theo cách ấy đã
giành được quyền "miễn
trừ" đối với uy quyền của
Giám mục địa phận, để chỉ
còn phụ thuộc vào Giáo hoàng, và chúng phân tán
ra trong tất cả các nước phương
Tây. Như vậy chúng tăng cường
sự thống nhất xung quanh La-mã" (Aux
prétentions du patriarche de Constantinople à l'indépendance,
il répondit par l'affirmation intransigeante du pouvoir universel
de Rome. Pour ordonner le monde selon le plan de Dieu, il proclama
la supériorité de l'ordre moral sur l'ordre politique, et donc
du pape sur l'empereur. Il ne réalisa pleinement que le second
point de ce programme, celui qui nous intéresse précisément
ici. Il coupa ainsi Rome des Églises d'Orient, mais il fit de
celle d'Occident une authentique monarchie, dont le chef, le
pontif, était, dans toute la force du terme, souverain, dont les
ministres, les cardinaux, se recrutaient dans toute la chrétienté
latine, dont les plénipotentiaires, les égats, parcouraient
constament celle-ci. Les ordres religieux agirent dans le même
sens. Les abbayes avaient, dès le début du Moyen Âge, tenu en
Occident une très grande place. Jusqu'au Xe siècle elles avaient
été indépendantes les unes des autres. Avec Cluny au Xe siècle,
elle prirent la coutume de se grouper autour d'une règle et, pour
interpréter et faire appliquer celle-ci, d'un chef unique ou
d'une assemblée commune, d'un "chapitre général". La
plupart des ordres nés de la sorte obtinrent d'être
"exempts" de l'autorité de l'ordinaire pour ne relever
que du pape et ils essaimèrent dans tout l'Occident. Ils renforcèrent
ainsi l'unité disciplinaire autour de Rome).
19. Nxb. Thương
vụ , Bắc Kinh, 1964, tr. 76. Chuyển dẫn
theo Trần Đình Sử, Sđd, tr. 46.
20. Văn
học Việt Nam từ các thế kỷ Trung
đại đến Cận đại.
Nxb. Khoa học, Matxcơva, 1977. Chuyển dẫn
theo Trần Đình Sử, Sđd, tr. 55.
21. Theo tác
giả, thời đại văn học Cổ
điển được quy định bởi
những đặc điểm sau : a. Trong
việc lựa chọn nhân vật, ở bộ
phận văn học cao cấp, thượng lưu,
nhân vật và môi trường sinh hoạt
của nhân vật thường mang tính chất
điển nhã, cao quý, trái lại, ở bộ
phận văn học dân gian thì lại mang tính
chất tăm tối, nghèo nàn; b. Bút pháp chung
của văn học Cổ điển là tượng
trưng, ước lệ (trừ bộ phận
văn học dân gian có thể không tuân thủ
triệt để các nguyên tắc sáng tác này),
được nâng lên thành những mẫu
mực lý tưởng, những công thức
cố định cho văn học mọi đời
noi theo; c. Phi ngã là đặc tính chung của văn
học Cổ điển, cái tôi của tác
giả ít khi được bộc lộ trong sáng
tác, nhưng trong văn học dân gian, cái tôi
vẫn có thể biểu lộ một cách
dễ dãi; d. Quan niệm cái đẹp của văn
học Cổ điển là cái gì hợp
với nghi lễ, trật tự trong vũ
trụ, vì thế, mọi nghệ thuật đều
phải có tính chất đối xứng, hoàn
chỉnh, lời văn của văn học
Cổ điển thường là biền
ngẫu, bảo đảm sự cân đối,
nhịp nhàng. Sđd, Tập thượng, tr.7-9.
22. Đặng
Thiệu Cơ. "Tự luận". Sđd,
Quyển I, tr. 2.
23. Ba
tập. Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1957.
24. Năm
quyển. Nxb. Văn sử địa và Nxb.
Sử học, Hà Nội, 1957-1960.
25. Nhiều
tập. Nxb. Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
26. Nhiều
tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
27. Thanh Lãng.
Văn học Việt Nam,
Tập I : "Đối kháng Trung Hoa". Phong
trào văn hóa, Sài Gòn, in lần thứ hai, 1971.
Những kiến giải về "phương
pháp thế hệ" được trtình bày
ở các trang 43-52.
28. Helen
Vendler. Periodizing Modern American
Poetry (Phân kỳ thi ca Mỹ hiện
đại), trong sách The
Challenge of Periodization ? Old Paradigms and New Perspectives
(Thử thách của vấn đề phân kỳ
- Các cấu hình cũ và những viễn
cảnh mới). Lawrence Besserman chủ biên. Nxb.
Garland, New York và London, 1996, tr. 242-243.
29. Xem
Nguyễn Văn Trung. Đạo
Chúa ở ViệtNam. Nam Sơn xuất
bản, Montréal, Quebec, 2000. Thực ra ngoài bìa
đề như vậy nhưng bên trong là tài
liệu đánh vi tính thuộc "tủ sách
sử liệu Việt Nam" mà tác giả cho phép
các thư viện trong và ngoài nước
được sao chụp để tham khảo.
Bản chúng tôi dùng là của ông Nguyễn Bá
Chung. Xin được cảm ơn người
soạn sách cũng như người giữ sách.
30. Trần
Đình Hượu. Nho giáo và
văn học Việt nam Trung Cận đại.
Sđd, tr. 522.
31. Mấy
vấn đề thi pháp văn học Trung đại
Việt Nam, Sđd, tr. 55.
32. Chúng tôi
dựa vào giả thuyết của Hoàng Xuân Hãn
trong Lời giới thiệu Truyện Song Tinh,
Nb. Văn học, Hà Nội, 1987.
33. Theo Thanh Lãng.
Bảng lược đồ
văn học Việt Nam, Quyển
hạ, Sđd, tr. 24.
34. Phạm
Thế Ngũ. Việt Nam văn
học sử giản ước tân biên,Tập
III. Quốc học tùng thư xuất bản, Sài
Gòn, 1967, tr. 15.
35.
Xem Phạm Thế Ngũ, Sđd, tr. 96.
36.Trung
Hoa văn học thông sử. Sđd,
Quyển X.
37.
Mấy vấn đề thi pháp
văn học Trung đại. Sđd, tr.
50.
38.
Xem Trung Hoa văn học thông
sử, Quyển IX và X. Sđd.
39.
Chữ dùng của ông Nguyễn Văn Linh,
Tổng bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VI, trong buổi họp mặt
với một số văn nghệ sĩ năm
1986, sau ngày ban bố Nghị quyết Đại
hội VI .
40.
Xem Hoàng Ngọc Hiến.Về
một đặc điểm của văn
học và nghệthuật ở ta trong giai đoạn
vừa qua. Văn nghệ, số 23,
ra ngày 9 tháng Sáu năm 1979. Và Nguyễn Minh Châu.Viết
về chiến tranh.Văn nghệ quân đội,
số 11-1978.
41.
Trả lời phỏng vấn trên báo Văn
nghệ. Dẫn theo Vương Trí Nhàn. Sự
dũng cảm rất điềm đạm. Tạp
chí Sông Hương,
số 12-1989.
42.
Nguyên Minh Châu. Hãy đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa. Tạp chíVăn
nghệ quân đội,số 10-1987.
43.
Thụy Khuê. Hai mươi lăm
năm văn học hải ngoại - 1975-2000.
Đặc san Xứ Quảng
xuân Canh thìn năm 2000. Hội
ái hữu Quảng Nam-Đà Nẵng tại
Massachusetts thực hiện. Tr. 229.
44.
Trong bài Thời kỳ văn
học vừa qua và hướng phát triển
của văn học.
Văn học-học văn. Trường
Cao đẳng sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh và Trường viết văn Nguyễn
Du xuất bản, 1991. Tr.139.
|
|