|
Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử
Văn hóa nhìn từ điểm đầu của thế kỷ 21
|
Phân kỳ lịch sử văn học bao giờ cũng là một
vấn đề có sức hấp dẫn đối với người viết văn học sử, bởi đó là cái
chìa khóa then chốt để có thể nhận diện văn học như sự nối tiếp của
nhiều tiến trình. Ở điểm bắt đầu của thế kỷ XXI này, chắc có lẽ
người nghiên cứu văn học nào cũng muốn nhìn lại, muốn có một sự hình
dung tổng quát về các bước đường đã qua của văn học Việt Nam trong
vòng 11 thế kỷ, chí ít là trong một thế kỷ vừa mới kết thúc, để dự
liệu bước đi của nó trong thế kỷ đang tới.
Bản thân người viết bài này tuy đã ba lần bàn đến phân kỳ lịch
sử văn học dân tộc vào các năm 1985(1)
, đầu 1990(2)
và cuối 1990(3)
nhưng giờ đây vẫn cứ muốn xem xét lại chỗ sai chỗ đúng, chỗ khả
thủ và chỗ bất cập trong nhận thức của chính mình, trên vấn đề
quan trọng này. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ thì đây là một vấn đề
không đơn giản. Bởi lẽ, trong 15 năm qua đã diễn ra những sự
kiện đảo lộn có tầm thế giới, có khả năng làm thay đổi quan niệm
của chúng ta về cấu trúc lịch sử, trong đó có cấu trúc của lịch
sử văn học. Nếu nói thật khoa học thì yêu cầu đặt ra là phải
nhìn lại cái đã diễn ra như nó có bằng một hệ quy chiếu mới thay
thế cho hệ quy chiếu cũ đã mất sức thuyết phục, và do đó, nhiều
điều phải nhìn lại tận gốc và nhìn lại từ đầu. Vì thế, bài viết
này chưa có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề của phân kỳ
lịch sử văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X cho đến tận hôm nay.
Chúng tôi chỉ xin nêu lên mấy gợi ý về một số mốc phân đoạn văn
học viết Việt Nam qua các thời kỳ, và tất nhiên là còn rất sơ
lược.
|
XÁC ĐỊNH MỘT VÀI NGUYÊN TẮC PHÂN KỲ |
Trước hết xin trở lại với một vài nguyên tắc
chung về việc phân kỳ lịch sử văn học mà tôi đã từng đề xuất. Cần
nói rằng, quan tâm đến vấn đề này về mặt lý thuyết, không phải chỉ
có mình tôi mà còn có các nhà nghiên cứu khác. Ngoài những học giả
đi trước, cùng một thời điểm với tôi còn có các Gs. Nguyễn Lộc (4)
, Trần Đình Hượu (5)
, Đỗ Đức Hiểu (6)
, và gần đây hơn cả là Gs. Trần Đình Sử (7).
Trong chừng mực nào đó, khi trình bày vấn đề, tôi sẽ kết hợp đề cập
đến ý kiến của các ông.
Khác với nhiều ý kiến muốn coi phân kỳ văn học hoàn toàn trùng
hợp với việc tìm tòi các dạng thức biểu hiện của những quy luật
đặc thù đã chi phối sự vận động của mọi tiến trình văn học sử,
tôi cho rằng phân kỳ chủ yếu là đi tìm những quy ước thuận tiện
nhất, nhằm trình bày một cách sáng tỏ các chặng đường lớn nhỏ
của lịch sử văn học Việt Nam. Bởi lẽ, theo tôi, tìm cho được cái
quy luật của chính văn chương đã chi phối các hiện tượng, các
trào lưu... diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó, để ấn
định rằng đó đích thực là một giai đoạn hoặc một thời kỳ văn học
có tính độc lập tương đối, là việc lý tưởng nhưng không kém khó
khăn. Một giai đoạn văn học bao giờ cũng được hình thành do
nhiều yếu tố, có yếu tố nội tại và có yếu tố bên ngoài, có cả
những yếu tố ngẫu nhiên, mà nhìn cho ra cái nào là bản chất
nhất, đâu phải dễ dàng. Có khi giữa một chặng đường này và một
chặng đường kế tiếp, diện mạo và chiều hướng của văn học có vẻ
vẫn giống nhau, trách nhiệm xã hội và yêu cầu mỹ học đối với văn
chương vẫn chưa thay đổi, nhưng sâu bên trong, do tác động thầm
kín của lịch sử, chuyển động của sáng tác đã không còn như cũ.
Bảo rằng đấy vẫn chỉ là một giai đoạn thôi thì đành là không ổn,
song để phân suất cho được đâu là phẩm chất cốt lõi làm nên bước
ngoặt mới, nếu chúng ta thực sự cầu thị chứ không gò gẫm khiên
cưỡng, chỉ cốt nói lấy được, hẳn chưa chắc đã dám nói quyết đấy
là gì.
Mặt nữa, văn học thường bao giờ cũng diễn biến theo quy luật
tiệm tiến, thảng hoặc lắm mới chứng kiến một bước tiến nhảy vọt,
một đột biến khác thường. Và giữa quá trình sau với quá trình
trước bao giờ cũng có sự giao thoa, xen kẽ, chứ ít khi đứt đoạn.
Đem một cái mốc cắm vào cho lịch sử văn học, vô hình trung ta đã
tạo ra một mặt cắt trái với tự nhiên, làm cho văn học không còn
phản ánh đúng sự vận động tự thân của nó. Vì thế, dựa vào ý kiến
của Karl Marx trong "Lời nói đầu" bộ Tư bản phân
biệt lôgic nghiên cứu và lôgic trình bày, rằng lôgic trình bày
cần phản ánh lôgic nghiên cứu nhưng không nhất thiết theo sát
lôgic nghiên cứu, tôi cho rằng phân kỳ lịch sử văn học là thuộc
về lôgic trình bày. Nó là quy ước nhận diện và trình bày lịch sử
văn học. Tất nhiên, đã là quy ước thì không ai lại nghĩ rằng chỉ
có một cách trình bày nào đấy là tuyệt đối đúng. Nếu như lôgic
nghiên cứu giúp ta nhận thức bản chất của sự vận động thì lôgic
trình bày giúp ta miêu tả bản chất ấy bằng các hình thái vận
động tương ứng, qua đó người đọc có thể tiếp nhận đối tượng một
cách nhất quán, phù hợp với nhận thức của mình. Tùy theo tính
chất từng loại quy ước mà lôgic trình bày có thể rất khác nhau,
miễn sao quy ước - từ bên ngoài đối tượng - phải nhập thân vào
đối tượng và soi rõ trình thức và bước đi của đối tượng. Mỗi bộ
văn học sử tuân thủ một quy ước trình bày riêng, cũng tức là xác
định phương pháp loại biệt của bộ sử đó, trên cơ sở một đối
tượng chung là lịch sử văn học. Xét trên phương diện này, quy
ước trình bày nào cũng có thể phát huy được ưu điểm nếu được sử
dụng đúng đắn, trong đó không loại trừ cách trình bày văn học
theo thế kỷ hay theo triều đại mà các nhà viết văn học sử trước
Cách mạng tháng Tám đã từng làm, vốn cũng khá thích hợp với số
đông bạn đọc chúng ta quen tư duy theo thời gian, theo thập kỷ
và thế kỷ, hoặc quen nhận diện quá khứ theo tên gọi của các
vương triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Ý kiến trên đây của tôi nêu ra cách nay đã 15 năm, năm 1990
được bổ sung và viết lại để in vào cuốn Các vấn đề của khoa
học văn học do PGs. Trương Đăng Dung chủ biên. Không ngờ
trong bộ sách này cũng có một bài viết của Klanixoi Tiborơ bàn
về khái niệm thời kỳ văn học; tác giả người Hung đó cũng tóm
lược hai chủ trương phân kỳ đối lập nhau trong văn học sử châu
Âu gần đúng với tình hình giới nghiên cứu nước ta cùng thời điểm
trên (8)
. Cần nói rằng ở miền Nam trước 1975, học giả Thanh Lãng đã từng
có một quan niệm phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam tương đối thấu
đáo. Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam công bố năm
1967, sau khi điểm lại cách phân chia thời kỳ văn học của các bộ
văn học sử đã xuất hiện cho đến đầu những năm 60 (kể cả các bộ
văn học sử của miền Bắc), Thanh Lãng đã đưa ra một nguyên tắc
then chốt làm tiêu chí phân kỳ cho mình : "Chúng ta không võ
đoán, đề cao hay chối bỏ một tiêu chuẩn nào trong các tiêu chuẩn
mà các nhà đi trước áp dụng như tiêu chuẩn triều đại hay thế kỷ,
nhưng chúng ta chỉ chấp nhận là tiêu chuẩn khi nào quả thực cái
tiêu chuẩn ấy có bế mạc hay khai mạc một cái gì gọi là cái vốn
chung cho một thời đại và riêng biệt cho chính thời đại ấy" (9)
; "Nói tóm lại, tiêu chuẩn của chúng ta theo để chia thời kỳ cho
văn học là lựa chọn một niên lịch nào đó (có thể là một niên
lịch chính trị, lịch sử, văn học, hay thế kỷ) đã xô đẩy những
biến cố văn học - tôi nhắc đến bốn chữ biến cố văn học - khiến
cho với những biến cố ấy, niên lịch ấy :
- Một đằng, bế mạc sự diễn hành của một hay những hiện tượng
văn học của một thời đại;
- Một đằng khai mạc sự xuất hiện của những hiện tượng mới trở
thành như một cái vốn, cái gia tài chung cho cả một thời đại vừa
khai mạc;
- Đằng khác ghi nhận được cá tính của thời đại đó như là một
xuất hiện đặc thù, khác thời đại mà nó bế mạc và khác luôn cả
thời đại mà rồi đây sẽ bị thay thế.
Tuy vậy, trong lĩnh vực văn học có khi còn phải linh động hơn ở
những địa hạt khác, khi ta chọn một niên đại làm điểm khởi cho
một thời kỳ văn học thì ta nên hiểu nó một cách tương đối, có
nghĩa như là những năm quanh quẩn đó, hoặc trước một tý hoặc sau
một tý, chứ không hiểu một cách máy móc là chính ngày đó, tháng
đó, năm đó.
Đằng khác, khi bảo bước sang một thời kỳ mới không phải bảo
rằng mỗi thời kỳ mới phải là một đường ranh giới rạch đôi, xé
rách nếp sống một phần nào vẫn liên tục của văn học. Như cuộc
sống của một đoàn thể trước mỗi biến cố, đều có thể thay đổi,
biến hóa nhưng chẳng khi nào đi từ cái không này qua cái không
khác, cuộc sống văn học qua mỗi thời đại có mang những sắc thái
đặc thù, nhưng cũng chẳng bao giờ hoàn toàn gián đoạn với dĩ
vãng" (10)
.
Có thể thấy, những nguyên tắc mềm dẻo do Thanh Lãng đề khởi rất
phù hợp cho việc lựa chọn một cách linh động các chặng mốc văn
học, và về căn bản không khác biệt nhiều lắm với những nguyên
tắc mà chúng tôi đã gợi ý về tính chất ước lệ không tránh khỏi
của việc phân kỳ văn học sử Việt Nam.
Gần đây, khi được đọc bộ Trung Hoa văn học thông sử
10 quyển do Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc thuộc Viện
hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn năm 1997, một thực
tế càng làm cho tôi phải ngẫm nghĩ là các nhà văn học sử Trung
Quốc thuộc thế hệ hôm nay chứ chưa xa xôi gì, đã chọn cách phân
kỳ theo triều đại để tiếp cận một thời kỳ dài hơn 2000 năm của
văn học Trung Hoa. Trong bộ sách này, các tác giả đã phân chia
lịch sử văn học Trung Quốc từ thời Xuân thu Chiến quốc đến giữa
thế kỷ XIX (1840) thành bảy giai đoạn :
1. Giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán;
2. Giai đoạn Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều;
3. Giai đoạn Đường, Ngũ đại;
4. Giai đoạn Tống, Liêu, Kim;
5. Giai đoạn Nguyên;
6. Giai đoạn Minh;
7. Giai đoạn Thanh (11)
.
Sự kết nối các nhóm triều đại thành một giai đoạn trong sách nhiều
khi cũng không nhất thiết là vì văn học giữa các triều đại đó
đồng dạng với nhau, chẳng hạn như giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán
thì giữa Tiên Tần (tản văn triết học) và Hán (phú), văn học khác
nhau rất nhiều; hay như giai đoạn Tống, Liêu, Kim, cũng chẳng
thể nói nền tảng văn chương của các triều này có mối tương quan
mật thiết. Một bộ sách khác có tên Trung Quốc văn học sửcông
bố năm 1999, ngoài bìa mang dòng chữ "giáo trình hướng tới thế
kỷ XXI", của một nhóm Giáo sư đại học tiêu biểu mà Viên Hành Bái
ở Đại học Bắc Kinh là người chủ biên, thì đã có những cách tân
chừng mực trong việc phân kỳ. Họ chia lịch sử văn học Trung Quốc
từ thời Tiên Tần đến năm 1919 thành ba thời kỳ gọi là "tam cổ",
gồm bảy giai đoạn gọi là "thất đoạn" :
1. Thời kỳ Thượng cổ từ thế kỷ III trở về trước (gồm 2 giai
đoạn : a. Giai đoạn trước Tần; b. Giai đoạn Tần Hán);
2. Thời kỳ Trung cổ từ thế kỷ III đến thế kỷ XVI (gồm 3
giai đoạn : a. Giai đoạn Ngụy Tấn đến hết niên hiệu Thiên Bảo
nhà Đường; b. Giai đoạn giữa nhà Đường đến hết nhà Nam Tống; c.
Giai đoạn đầu nhà Nguyên đến hết niên hiệu Chính Đức nhà Minh);
3. Thời kỳ Cận cổ từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX (gồm 2
giai đoạn : a. Giai đoạn mở đầu niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh đến
chiến tranh Nha phiến 1840; b. Giai đoạn từ chiến tranh Nha
phiến đến cuộc vận động Ngũ tứ 1919). Theo các tác giả, đây là
một quan điểm mới mẻ nhằm chống lại cách phân kỳ bám sát từng
triều đại, có giá trị "phản ánh tính giai đoạn của các tiến
trình biến hóa phát triển của bản thân văn học". Tuy thế, họ vẫn
không thể không "xem xét các tiến trình ấy trong quan hệ tham
chiếu với các biến cố hệ trọng khác, như biến cải của chế độ xã
hội, thay đổi của vương triều", trên thực tế là phối hợp các
mốc triều đại với mốc thế kỷ để phân đoạn cho lịch sử văn
học. Mặt khác nói gì thì nói, họ vẫn phải thừa nhận "cách phân
kỳ theo triều đại trong các tập giáo trình và các công trình
nghiên cứu trước mắt quả tình phù hợp với tập quán xưa nay, về
thao tác lại tiện lợi, không những thế, sự đổi thay của các
triều đại trong lịch sử cũng đã mang đến cho văn học những biến
đổi thịnh suy đích thực, như Hán thịnh ở phú, Đường thịnh ở thơ,
Tống thịnh ở từ, Nguyên thịnh ở khúc" (12)
.
|
Điều đáng đặt dấu hỏi là khoa lịch sử văn học Trung Quốc đã có
từ rất lâu và thành tựu phong phú hơn hẳn chúng ta, việc tiếp xúc
của giới văn học sử gia Trung Quốc với khoa học phương Tây tất nhiên
cũng thuận lợi hơn chúng ta rất nhiều. Vậy mà tại sao sau bao nhiêu
năm tìm tòi, họ vẫn quay trở lại thừa nhận những cách phân kỳ có thể
nói là cổ điển
nhất? Phải chăng như tôi đã nói, phân chia lịch sử văn học rốt
cuộc chỉ là quy ước, quy ước nào làm nổi bật được dòng chảy của lịch
sử văn học và làm cho người đọc dễ tiếp nhận thì quy ước đó trở nên
thông dụng ?
Nhưng thật ra, ngay đối với những nhà văn học sử Tây Âu đương
đại, vấn đề phân kỳ văn học sử cũng được quan niệm khá thông
thoáng, không mấy "tân kỳ" đến như ta tưởng. Nếu quan điểm của
Lanson - chủ yếu là chia văn học theo thế kỷ - đã ngự trị bộä
môn lịch sử văn học Pháp và châu Âu từ cuối thế kỷ XIX cho đến
tận đầu những năm 1960 (13)
, thì ở nửa cuối thế kỷ XX đã có thêm nhiều cách phân chia khác mà
về mặt lựa chọn tiêu chí, có vẻ rộng rãi và ít gò bó hơn. Trong
cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
của M. H. Abrams, Gs. Trường đại học Cornell, in lần thứ 7 năm
1999, phát hành ở cả Mỹ, Anh, Canađa, Úc và Nhật, khi xác định
"các thời kỳ của văn học Anh", đã đưa ra một đồ biểu phân kỳ "có
giá trị phổ biến trong thực tế" (widespread pratice), gồm 10
thời kỳ lớn, trong đó sự khu biệt giữa các thời kỳ không chỉ căn
cứ ở đặc trưng văn học mà nhiều khi còn dựa vào ngôn ngữ, vào
triều đại lịch sử, vào biến cố chính trị xã hội :
1. Thời kỳ Anh ngữ cổ: 450-1066;
2. Thời kỳ Anh ngữ trung đại:1066-1500;
3. Thời kỳ Phục hưng hay là sơ kỳ Hiện đại (=
Cận đại?) : 1500-1660, với bốn giai đoạn : a. Vương triều
Elizabeth (1558-1603); b. Vương triều Jacob (tức vương triều
James I, 1603-1625); c. Vương triều Carolie (tức vương triều
Charles I, 1625-1649); d. Giai đoạn biến cách của Thanh giáo (do
Nghị viện của Oliver Cromwell điều hành đất nước kể từ 1649,
Charles I bị xử tử, đến khi phục hồi lại đế chế Stuar của
Charles II,1660);
4. Thời kỳ Tân cổ điển : 1660-1785, với ba giai đoạn : a.
Giai đoạn phục tích (khôi phục chế độ quân chủ) (1660-1700); b.
Giai đoạn Auguste (mô phỏng đề tài và các hình thức của văn học
La-mã thời đại Hoàng đế Augustus (27 TCN-14SCN), hay cũng gọi là
giai đoạn Pope (Alexander Pope,nhà thơ tiêu biểu) ), 1700-1745;
c. Giai đoạn đa cảm hay cũng gọi là giai đoạn Johnson (Samuel
Johnson, nhà thơ tiêu biểu), 1745-1785;
5. Thời kỳ Lãng mạn : 1785-1830;
6. Thời kỳ Victoria (ba triều đại nữ hoàng Anh Victoria) :
1832-1901, với hai giai đoạn : a. Giai đoạn tiền Raphặl
(1848-1860); b. Giai đoạn chủ nghĩa thẫm mỹ và suy đồi
(1880-1901);
7. Thời kỳ Edward (vương triều King Edward VII) :
1901-1914;
8. Thời kỳ George (vương triều George V) : 1910-1936;
9. Thời kỳ Hiện đại :1914-1945;
10. Thời kỳ Hậu hiện đại : 1945 về sau (14)
.
Cũng sách trên, khi nói về "các thời kỳ của văn học Mỹ" đã
trích dẫn ý kiến của Cushing Strout, cho rằng "qua lịch sử chính
trị của nước Mỹ có thể tìm thấy một hệ thống trật tự sáng rõ và
có tính chất thuyết phục hơn là cái hệ thống trật tự được chỉ ra
bởi những sự kiện đặc thù của văn học hay những phạm trù tri
thức"(15)
. Trên tinh thần đó, theo Abrams, các nhà văn học sử Mỹ đã đưa
vào lịch sử văn học Mỹ các mốc lớn như
thời kỳ Chiến tranh cách mạng (1775-1781), thời kỳ Nội
chiến (1861-1865), thời kỳ Thế chiến I(1914-1918),
thời kỳ Thế chiến II (1939-1945), còn thời kỳ từ 1775 trở về
trước thì được gọi là thời kỳ Thuộc địa (đế quốc Anh
thống trị). Ngoài ra, văn học của người da đen và trào lưu văn
học nữ giới cũng có địa vị đáng kể, không thể gạt ra ngoài các
chuẩn mốc phân kỳ(16)
. Xem thế đủ hiểu, đối với việc phân kỳ văn học sử, từ cổ chí
kim và từ Đông sang Tây hầu như chưa có ai vận dụng thuần nhất
một tiêu chí, và về phương pháp luận, cũng chưa ai bỏ qua
nguyên tắc ước lệ như một sợi chỉ đỏ, không cần bàn bạc mà
trong thâm tâm ai cũng tuân thủ.
|
THỜI KỲ VĂN HỌC CỔ : VIỆC ĐỊNH DANH VÀ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN |
1. Tôi xin nêu lên một luận điểm thứ hai : về
cách mệnh danh các thời kỳ khác nhau trong văn học sử Việt Nam.
Trong cuộc thảo luận khoa học về phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam
vào năm 1985 do Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội chủ trì,
có bốn ý kiến cũng là bốn tham luận chính trong Hội thảo, sau đó đã
được đăng trên Tạp chí văn học(đã dẫn), trong đó, trừ ý kiến
của Gs. Đỗ Đức Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt Nam thành
hai thời đại lớn - thời đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX và thời
đại từ đầu thế kỷ XX trở về sau; mỗi thời đại được đánh dấu bằng một
phong cách lớn : thời đại thứ nhất là phong cách được đặc trưng bởi
các sáng tác tiêu biểu trong chặng đường nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX và thời đại thứ hai là phong cách mang đậm dấu ấn
sáng tác của Hồ Chí Minh - còn lại ba chúng tôi, Nguyễn Lộc, Trần
Đình Hượu và tôi, chúng tôi đều chia văn học thành ba thời kỳ : thời
kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, thời kỳ văn học từ đầu
thế kỷ XX đến 1945 và thời kỳ văn học từ 1945 đến nay. Về cách gọi
tên, thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chúng tôi đều nhất
trí gọi là thời Cận đại. Thời kỳ văn học từ 1945 đến nay, Nguyễn Lộc
và Trần Đình Hượu gọi là thời Hiện đại, còn tôi gọi là thời Hiện đại
và Đương đại. Chỉ có thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX
thì cách gọi thật sự có khác nhau. Nguyễn Lộc gọi là thời kỳ văn học
Truyền thống. Trần Đình Hượu không gọi tên nhưng có nhắc đến hai từ
Cổ đại và Trung cổ và sau này, trong một bài viết khác, ông lại trở
lại cách gọi "văn học Truyền thống" của nguyễn Lộc, đồng thời nhiều
lần nhắc đến cụm từ "văn học Cổ điển"(17)
. Riêng mình tôi, đã gọi đây là văn học Trung đại. Mỗi một cách
gọi tên ít nhiều đều xuất phát từ một sự suy nghĩ có cân nhắc chứ
không phải cảm tính. Nguyễn Lộc nói : "Chúng tôi gọi thời kỳ thứ
nhất trong văn học dân tộc là thời kỳ văn học truyền thốngvà
các thời kỳ sau là cận đại, hiện đại không phải tùy
tiện, mà với dụng ý để mọi người thấy thời kỳ thứ nhất văn học dân
tộc chưa đi vào quỹ đạo chung của văn học thế giới, mà vẫn có tính
cách văn học khu vực, văn học Đông Á, Đông nam Á. Nếu đối lập
"truyền thống" với "cách tân" thì thời kỳ thứ nhất trong văn học dân
tộc có thể gọi là "thời đại văn học truyền thống" và hai thời kỳ
cận, hiện đại tiếp theo có thể gọi là "thời đại mới" trong văn học
dân tộc" (Bđd, tr. 36). Tôi thì chỉ nói vắn tắt :"Những khái niệm
Trung đại, Cận đại, Hiện đại dùng ở đây được xem như là tương ứng
với ba thời kỳ lớn trong lịch sử : thời phong kiến, thời cách mạng
tư sản, và thời cách mạng vô sản" (Bđd, tr. 68). Về sau, cách gọi
"thời Trung đại" đã được nhiều người dùng, có người còn chủ động
thay đổi cách gọi cũ ("văn học Cổ"õ, "văn học Cổ điển"...) khi sách
hay giáo trình của họ được tái bản. Và gần đây, Trần Đình Sử cũng
thống nhất sử dụng "thời kỳ văn học Trung đại" như một khái niệm mặc
nhiên trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại.
Nhưng khoảng mấy năm lại đây, bản thân tôi lại tự thấy không
yên tâm về thuật ngữ mà mình đã chọn. Bởi vì cái gọi là Trung
đại
là gì? Hoàn toàn không có gì khác ngoài cái hàm nghĩa đó là thời
kỳ Trung cổ. Đó chỉ là dịch lại một cách vắn tắt thuật ngữ
Période de Moyen Âge hay Période Médiéval trong lịch sử châu Âu.
Song chuyển một thuật ngữ của lịch sử châu Âu sang lịch sử văn
học Việt Nam và rộng hơn là lịch sử văn học phương Đông liệu có
khiên cưỡng hay không khi ta biết hai phạm trù này không ăn nhập
gì với nhau? Thời Trung cổ châu Âu là một thời kỳ chưa hình
thành dân tộc, được đánh dấu bằng nền chính trị chia nhỏ thành
các tiểu vương quốc và một xã hội nông nghiệp phân chia thành
hai giai cấp quý tộc và nông dân. Đó là giai đoạn lịch sử "đêm
trường", là sự thiếu vắng lý tính và khoa học, là sự ngự trị của
Nhà thờ và lãnh chúa phong kiến, là "một nền văn minh, trong
giới hạn gốc gác của nó, được nhào luyện kể từ những yếu tố mà
đại đa số là có tính cổ điển và tính giecmanh hay là tính Cơ đốc
giáo"(18)
. Tôi chưa được đọc công trình Lịch sử văn học châu Âu của
Dương Châu Hàn, Ngô Đạt Nguyên, Triệu La Nhuy viết năm 1964 (19)
mà Gs. Trần Đình Sử đã viện dẫn để nói rằng họ đã mở rộng thời
Trung đại đến tận thế kỷ XVII tức là khi chế độ phong kiến châu
Âu đã thật sự suy tàn, nhưng trong các bộ sách tôi đã đọc như
Encyclopédie Française 1973, Encyclopedia Universalis
1990-1995, và ngay cả Petit Larousse Ilustrée 1993, thì
giới hạn thời Trung cổ vẫn chỉ là từ năm 476 khi đế quốc La-mã
sụp đổ, cho đến khi Mahomet II (tức Mehmet II, 1429-1481), vua
Thổ-nhĩ-kỳ đánh chiếm Constantinople vào năm 1453. Trung cổ hiểu
theo nghĩa này chính là gói gọn trong thời kỳ độc tôn của
Giáo hội Thiên chúa giáo chứ không phải bao quát toàn bộ
lịch sử chế độ phong kiến. Về phương diện văn học, tiếp theo
thời đại Trung cổ sẽ là thời đại Phục hưng ở nửa cuối thế kỷ XV,
thời đại Baroque ở thế kỷ XVI-XVII, thời đại Cổ điển ở thế kỷ
XVII, thời đại Tiền lãng mạn ở nửa đầu thế kỷ XVIII. Những thời
đại này đều nằm trong lòng của chế độ phong kiến nhưng so với
thời đại Trung cổ thì đã khác một trời một vực.
Riêng ở Việt Nam cho đến nay, cách dùng khái niệm Trung đại vẫn
là một ước lệ không có tính xác định về mặt nội hàm. Nói rằng
tính chất "trung đại" bắt nguồn từ sự tỏa chiết của ý thức hệ
Nho giáo đối với đời sống tư tưởng, tình cảm của toàn xã hội
nhưng thật ra, trong 10 thế kỷ tồn tại của chế độ phong kiến tự
chủ, đâu có phải thời nào Nho giáo cũng được suy tôn lên địa vị
"giáo chủ" về mặt tinh thần. Là một nước nhỏ nằm trên đường trục
giữa Trung Hoa và Ấn Độ, cơ chế sinh tồn của dân tộc chúng ta
vẫn phải là sự dung hợp,cộng tồn của nhiều luồng tư tưởng.
Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV, "tam giáo đồng nguyên" là cách
ứng xử thích hợp nhất trtước thế động tất yếu của lịch sử. Đến
thế kỷ XV, sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, nhất là sau khi
Lê Thánh Tông lên ngôi hoàng đế, Nho giáo cũng bắt đầu lên ngôi,
giữ vị thế độc tôn, nhưng cũng chỉ độc tôn được dến hết thế kỷ
XVII là rơi vào triền miên khủng hoảng. Từ đó đến khi chế độ
phong kiến chấm dứt, các tập đoàn phong kiến nhiều lần cố vực
lại kỷ cương bằng Nho giáo, sử dụng Tống Nho như một công cụ
thống trị độc nhất về tư tưởng. Tuy nhiên, trong mạch ngầm của
đời sống, các hệ tư tưởng phi Nho như Phật, Lão Trang, Đạo giáo,
các tôn giáo tín ngưỡng bản địa, và các tôn giáo phương Tây mới
du nhập... vẫn cứ có đất sống mạnh mẽ, nó làm nên một thứ khí
hậu tinh thần pha trộn nhưng lại dễ thở, có tác dụng hóa giải
sức ép độc đoán của Nho giáo từ bên trên.
Như vậy, soi vào văn học, khi chúng ta mệnh danh cho cả 10 thế
kỷ văn học cổ Việt Nam bằng mấy chữ thời Trung đại, phải chăng
vô hình trung chúng ta đã đem một thuật ngữ châu Âu vốn mang hàm
nghĩa rất hẹp - là một thời kỳ thiếu vắng những giá trị văn học
đích thực - úp chụp lên cả một chặng đường rất dài với nhiều
thành tựu rực rỡ của văn học chúng ta, trong đó chắc chắn đã có
những tư trào phục hưng quan trọng - dĩ nhiên phục hưng hiểu
theo nghĩa không máy móc nô lệ khái niệm thời đại Phục hưng
phương Tây ở thế kỷ XV. Và điều này đã được nhắc đến trong cuốn
sách của N. I. Niculin Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ
XIXnăm 1977 (20)
. Ngẫm nghĩ lại tôi mới hiểu vì sao Nguyễn Lộc dùng khái niệm
"thời kỳ văn học Truyền thống" và Trần Đình Hượu thì một mực gọi
là "văn học Cổ điển" (nên nhớ, trước Trần Đình Hượu 20 năm,
trong bộ sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam
Thanh Lãng cũng đã sử dụng cụm từ "thời đại văn học Cổ điển" một
cách có chủ kiến để gọi văn học Việt Nam từ thế kỷ XII đến giữa
thế kỷ XIX) (21)
. Và tôi cũng có linh cảm rằng Gs. Đặng Thai Mai đã có lý khi gọi
tên bộ phận nghiên cứu của Viện Văn học mà hiện tôi đang phụ
trách là "văn học Cổ Cận đại", kể từ 1959. Mấy chữ "văn học
Truyền thống", "văn học Cổ điển", "văn học Cổ" hay "văn học Cổ
Cận đại" không cho ta cái ám ảnh trung cổ như cách gọi văn học
Trung đại.
Gần đây, cũng nhân đọc hai bộ sách Trung Hoa văn học thông
sưû, và Trung Quốc văn học sử, tôi bỗng bỡ ngỡ khi
các nhà văn học sử Trung Quốc vẫn "cố thủ" ở hai chữ Cổ đại
mà họ dùng từ rất xưa, dành cho quãng đường văn học rất dài từ
Tiên Tần đến 1840 hoặc đến tận 1919. Khái niệm "cổ đại" mà họ
dùng bao gồm từ xã hội nguyên thủy, xã hội nô lệ, cho đến xã hội
phong kiến (hoặc có đổi mới thuật ngữ chút ít là Thượng cổ,
Trung cổ và Cận cổ), nhưng về mặt nội dung, lại không phải là
một thời kỳ "vô hồn", trái lại, đây là "bộ phận tổ thành trọng
yếu trong di sản văn hóa [Trung Quốc], có thể nói là một báu vật
đáng tự hào nhất của văn minh Trung Hoa. Bởi vì, thông qua văn
học Cổ đại, chúng ta không những có thể trải nghiệm những bước
biến đổi thịnh suy hưng vong của nước cổ 5.000 năm, có thể sờ
mó, tiếp xúc với cái linh hồn phong phú mà sâu thẳm của cả một
dân tộc vĩ đại, mà hơn nữa, đứng về góc độ hưởng thụ tinh thần
và thưởng thức nghệ thuật mà nói thì còn giống như được đi vào
một tòa cung điện mỹ lệ xây nên bằng ngôn ngữ văn tự, được dạo
qua một vùng kỳ hoa dị thảo, đâu đâu cũng là vườn tược mênh mông
um tùm quanh quất, từ đấy mà cảm nhận được cái nguy nga cao tột
của nó, lại cũng hiểu dược sự rạng rỡ hưng thịnh và vẻ đẹp nuột
nà của nó" (22)
. Cái nghĩa "cổ đại" mà các học giả Trung Quốc hiện nay dùng cho
thời kỳ văn học cổ của họ, chưa bao giờ có ý vị ảm đạm như cách
gọi văn học Trung cổ trong văn học châu Âu.
|
2. Với một khoảng cách lịch sử kéo dài đến
mười thế kỷ, việc phân chia các giai đoạn cụ thể cho Thời kỳ văn
học Cổ Việt Nam cũng là vấn đề cần bàn. Không trở lại với những
bộ văn học sử trước 1945 phân chia theo triều đại mà nhiều người đã
biết, chỉ lược điểm một số công trình tiêu biểu từ sau 1954 cho đến
gần đây, chúng ta có thể thấy, cách chọn những cái mốc cho từng thời
đoạn giữa các nhà nghiên cứu còn khá xa nhau.
Bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt nam
của Nhóm Lê Quý Đôn (1957) (23)
chọn mấy mốc sau :
-Văn học thế kỷ XIII - thế kỷ XV
-Văn học thế kỷ XVI - thế kỷ XVII
-Văn học thế kỷ XVIII
-Văn học nửa đầu thế kỷ XIX
Từ giữa thế kỷ XIX về sau Nhóm này xếp vào thời kỳ văn học Cận
đại.
Bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
của Nhóm Văn sử địa (1957 - 1960) (24)
lại có cách chọn hơi khác :
-Văn học trước thế kỷ XV (cụ thể là từ đầu thời tự chủ đến hết
thế kỷ XIV)
-Văn học thế kỷ XV - thế kỷ XVII
-Văn học thế kỷ XVIII
-Văn học nửa đầu thế kỷ XIX
Bộ sách chỉ mới dừng lại ở đó.
Các tập giáo trình của hai trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và
Đại học Sư phạm Hà Nội được chỉnh lý và bổ sung nhiều lần, cho
đến lần cuối cùng vào các năm 1976-1979 (25)
và 1988-1989 (26)
thì cách chia của hai bên đã tương đối thống nhất :
-Văn học thế kỷ X - thế kỷ XIV
-Văn học thế kỷ XV
-Văn học thế kỷ XVI - giữa thế kỷ XVIII
-Văn học giữa thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX
-Văn học nửa cuối thế kỷ XIX
Điều dễ nhận ra là tuy có xê dịch trong việc định mốc, cả bốn bộ
sách vừa dẫn đều trùng hợp nhau ở một điểm : không một nhóm tác giả
nào lựa chọn một niên đại dứt khoát làm giới hạn phân kỳ mà đều lược
quy các tiến trình văn học sử vào những khoảng cách một vài ba thế
kỷ, và sự phân cắt giữa các tiến trình ấy nói chung vẫn mang tính
chất áng chừng, mặc dầu ở phần tổng luận, tiêu chí phân kỳ đều đã
được họ giới thuyết cặn kẽ. Phải chăng điều đó cũng góp phần xác
nhận sự khó khăn nan giải trong việc vận dụng lý thuyết vào thực
tiễn, nói cách khác, con đường quay về với những quy ước có sẵn
nhiều khi lại giúp ta có cách xử lý uyển chuyển đối với các chặng
đường cục bộ của lịch sử văn học mà nhận thức cho được sự khu biệt
rành mạch không phải không có khó khăn.
Trở lại với Thanh Lãng. Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt
Nam, sau khi đề ra một lý thuyết phân kỳ tương đối linh
hoạt, ông bèn ứng dụng nó để chia lịch sử văn học Viêït Nam
thành hai thời đại làthời đại Cổ điển (thế kỷ XII đến
1862), và thời đại Mới (1862-1945). Rồi trong mỗi thời
đại, ông lại chủ trương "cắt lát" thành nhiềuthế hệ văn họctiếp
nối nhau .
Chẳng hạn, trong "thời đại Cổ điển" có đến bảy thế hệ :
1. Thế hệ văn học đối kháng Trung Hoa (thế kỷ XII - XIV);
2. Thế hệ văn học phát huy văn hóa dân tộc (1428 - 1505);
3. Thế hệ văn học chớm nở đối kháng thời thế (1505 - 1592);
4. Thế hệ văn học gặp gỡ Tây phương (1592 - 1729);
5. Thế hệ văn học thác loạn (1729 - 1788);
6. Thế hệ Nguyễn Du (1788 - 1820);
7. Thế hệ Nguyễn Công Trứ (1820 - 1882).
Trong "thời đại văn học Mới" (tính đến 1945) cũng có ba thế hệ
:
1. Thế hệ đối kháng (1862 -1913);
2. Thế hệ liên hiệp (1913 -1932);
3. Thế hệ đoạn tuyệt (1932 -1945).
Cố gắng đi đến một sự phân cắt tỷ mỷ như thế phải nói là một
dụng công hiếm có, tiếc rằng chỗ đáng quan tâm là xác định nội
dung của khái niệm "thế hệ văn học " sao cho ổn đáng thì Thanh
Lãng lại tỏ ra lúng túng. Ông định nghĩa "thế hệ văn học" là
"một thời kỳ văn học ngăn ngắn nào đó, được khai mạc từ một năm
nào đó, do một biến cố nào đó, khiến cho từ năm ấy và do biến cố
ấy, văn học của thời này, một đằng khác với văn học của thời kỳ
đi trước, một đằng lại có cái gì là chung chung, là giông giống
nhau cho phần đông các cuộc đời văn học cùng lứa tuổi, cùng thời
kỳ này, rồi cái thời kỳ ngăn ngắn sẽ lại bị bế mạc từ một năm
nào đó, do một biến cố nào đó, khiến cho từ đấy về sau văn học
lại đổi theo chiều hướng khác" (27)
. Nhưng cái gì là tín hiệu có giá trị thông báo chỗï chia tách
giữa thế hệ này và thế hệ kia, cũng như cái gọi là "chung
chung", "giông giống nhau" trong cùng một thế hệ là gì? Cách
diễn đạt "mang máng" không cho phép ta nắm bắt ý tưởng tác giả
thật tường tận. Đó hẳn cũng là chỗ khó khăn, lúng túng của người
viết trong xử lý thực tiễn. Một nữ học giả Mỹ mới đây là Helen
Vendler có cho biết : việc đi tìm những yếu tố tương đồng giữa
các hiện tượng văn học trong cùng một thời đại để làm tiêu chuẩn
phân kỳ là rất khó, so với nó, việc soi tỏ tính chất tương phản
giữa một thời đại này và một thời đại trước hay sau nó còn dễ
dàng và thiết thực hơn (28)
. Đối chiếu với bảng phân định các "thế hệ văn học" của Thanh
Lãng, chỗ khiến ta chưa đồng tình là ông cứ "phân" mà chẳng
"định", nghĩa là không những chưa quan tâm hội đủ nét riêng thực
có của mỗi thế hệ (như tên gọi ông dành cho họ), mà cũng chưa
chú ý soi tỏ điểm khu biệt mấu chốt giữa các thế hệ này. Ví như,
nói văn học từ thế kỷ XII (sao lại bắt đầu từ thế kỷ XII mà
không sớm hơn?) đến hết thế kỷ XIV là thuộc "thế hệ đối kháng
Trung Hoa" thì đối kháng Trung Hoa ở đây hiểu là nội dung tư
tưởng hay hình thức nghệ thuật? Nếu là nội dung tư tưởng, hẳn
văn học giai đoạn sau đó (thế kỷ XV) cũng vẫn cứ tiếp tục tinh
thần đối kháng ấy chứ đâu có gì khác? Còn nếu thuộc hình thức
nghệ thuật thì suốt cả giai đoạn Lý-Trần, văn học Việt Nam hầu
hết đều viết bằng chữ Hán và đều đang vận dụng các thể loại văn
học Trung Quốc sao cho tinh luyện, nào có hề "đối kháng" gì đâu!
Lại chẳng hạn, nói văn học giai đoạn 1592 - 1728 là "thế hệ văn
học gặp gỡ Tây phương" có lẽ cũng đúng một phần, nhưng "gặp gỡ
Tây phương" chỉ là một thiểu số rất ít ỏi chứ đâu phải cả thế
hệ, vì ngoài việc Alexandre de Rhodes (1591-1660) sáng tác ra
chữ quốc ngữ dùng trong việc giảng đạo, chuẩn bị cho bốn thế kỷ
sau sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong chữ viết dân tộc, và
ngoài một vài tác phẩm giới hạn hết sức hẹp trong sinh hoạt của
Giáo đoàn Thiên chúa giáo như tập Sấm truyền ca diễn ca
Kinh Thánhcủa Louis Đoan, bằng chữ Nôm theo thể lục bát
(1670), sau khi ra đời ít lâu liền bị mai một, vì bị các Cha cố
người Pháp không thừa nhận, mãi đến khoảng 1816-1820 mới được
Phan Văn Cận phiên âm ra quốc ngữ, và đến nay cũng vẫn chỉ lưu
hành dưới dạng những bản chép tay đã sứt mẻ; hay tập Truyện
các Thánh,1672 trang,bằng văn xuôi chữ Nôm, mang danh nghĩa
là tác phẩm của Maiorica (1591-1656), nhưng theo Gs. Nguyễn Văn
Trung, thực tế có lẽ là do nhiều Giáo sĩ người Việt sáng tác
trong thế kỷ XVII (và được mang luôn sang châu Âu ngay sau khi
ra mắt, nghĩa là hoàn toàn thất truyền ở Việt Nam) (29)
, thì phần sáng tác phổ biến trong công chúng bạn đọc rộng rãi của
văn học Việt Nam giai đoạn này vẫn tuyệt nhiên chưa có sự tiếp
xúc với Tây phương ở bất kỳ một biểu hiện trực tiếp hay gián
tiếp nào. Một bên là hàng loạt sáng tác đã có một đời sống thực
sự trong thời đại của mình và một bên là vài ba tác phẩm sớm bị
tách khỏi môi trường bạn đọc của chúng, nên lấy bên nào làm
tiếng nói đại diện mới hợp lý? Tưởng bộ môn tiếp nhận văn học đã
cho ta lời giải đáp sáng tỏ.
|
Bàn về việc phân định các chặng mốc của thời kỳ văn
học Cổ Việt Nam còn phải chú ý đến ý kiến của Trần Đình Hượu trong
một bài viết năm 1984 (đã dẫn), khi ông nêu lên những băn khoăn sau
đây : "Còn có những vấn đề chưa thật rõ : 1. Có hay không một giai
đoạn văn học Thiền? 2. YÙ nghĩa của các áng danh văn lịch sử như thơ
Lý Thường Kiệt, hịch Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi? 3. Thực tế văn học của những thời gian gặp chiến tranh
lâu dài : 30 năm chống Nguyên Mông, 20 năm chống Minh, một thế kỷ
rưỡi nội chiến Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn"(tr. 522) (30)
. Theo chúng tôi hiểu, Trần Đình Hượu muốn làm rõ những vấn đề
trên để xác định thật đúng mối liên quan giữa văn học và lịch sử,
cũng tức là xem xem các biến cố phi văn học có tác động đến chừng
mực nào trong việc thay đổi bản sắc của một chặng đường văn học hay
tạo ra một dòng văn học mới, trên tiến trình dài lâu của văn học cổ
chúng ta.
Giai đoạn đầu tiên dễ được nhiều người thống nhất, là
văn học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, mà cụ thể là từ năm 938
(Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở đầu thời kỳ tự chủ - vào
năm này, nhà thơ đóng vai trò khai sáng của nền văn học viết dân
tộc Đỗ Pháp Thuận đã 23 tuổi) đến 1413 (chính thức kết thúc thời
đại Hậu Trần - cũng là năm Đặng Dung sáng tác bài Cảm hoài
và nhảy xuống sông tự vẫn). Tính thống nhất của cả giai đoạn
được biểu hiện ở chỗ, về mặt nội dung, nó mang dấu ấn rõ rệt của
tinh thần dung hợp Phật, Nho và Đạo; điều đó chi phối cảm hứng
sáng tạo của người cầm bút, tạo nên linh hồn và chiều sâu thẩm
mỹ của mọi tác phẩm. Cái vẻ đẹp phóng khoáng trong văn học giai
đoạn này bắt nguồn từ đó, và đó cũng là nhân tố sâu xa giúp cho
văn học có được bản lĩnh "giải Trung Quốc hóa", phô bày không
chút mặc cảm bản sắc riêng, cởi mở, bình dị màø không kém tinh
tế, trong mọi khía cạnh tình cảm, cảm xúc của con người Việt
Nam. Về hình thức nghệ thuật, đây cũng là giai đoạn mà văn học
dân tộc chính thức vận dụng hệ thống thể loại của văn học Trung
Quốc để xây dựng hoàn thiện hệ thống thể loại văn học chữ Hán -
dòng chủ lưu trong suốt các giai đoạn đầu của văn học nước ta.
Giai đoạn thứ hai của văn học Cổ dân tộc, theo chúng
tôi, có thể quy gọn vào thế kỷ XV mà cụ thể là từ 1413 (thời
Nguyễn Trãi bôn ba tìm đường cứu nước) đến 1497 (năm mất của Lê
Thánh Tông). Đây là giai đoạn văn học xây dựng con người điển
hình theo mẫu mực Nho giáo, rút tỉa từ Nho giáo lý tưởng "nhân
nghĩa" làm nền tảng phục hưng dân tộc sau hai mươi năm bị giặc
Minh đô hộ. Đây cũng là giai đoạn vật lộn và sinh thành của dòng
văn học quốc ngữ, mà thể nghiệm quan trọng trong suốt thế kỷ là
thể thơ Nôm lục ngôn. Nguyễn Lộc cho rằng phải xếp nửa đầu thế
kỷ XV vào giai đoạn thứ nhất, nhưng thực ra, về nhiều mặt, văn
học nửa đầu thế kỷ này vẫn có phần gần gũi với văn học nửa cuối
thế kỷ nhiều hơn. Một gương mặt lớn như Nguyễn Trãi (1380-1442),
dẫu trong thơ vẫn giữ dược cái thích thảng của hồn thơ Lý-Trần,
tuy vậy, niềm thao thức "quân thân" là đặc trưng tiếng nói của
thơ ông thì lại là ảnh xạ của lý tưởng "vua sáng tôi hiền" mà
chỉ đến thơ văn thế kỷ XV mới có. Cho nên, về nội dung cũng như
hình thức, khó có thể cắt đôi văn học thế kỷ XV thành hai nửa.
Bản thân nó có lý do tồn tại như một thực thể đặc định.
Nếu thế kỷ XV đứng riêng thành một giai đoạn thì hai thế kỷ
XVI-XVII có thể xem là giai đoạn thứ ba. Đặc điểm của
giai đoạn văn học này là gì ? Về cả nội dung và hình thức, đây
là giai đoạn vừa tiếp nối văn học thế kỷ XV nhưng lại cũng vừa
có bước phát triển mới. Nếu tiếng nói bao trùm văn học thế kỷ XV
là cảm hứng dân tộc biểu hiện ở mối quan hệ giữa nhà nước với
dân, và sự gắn bó giữa tình cảm "công dân" với vẻ đẹp của non
sông gấm vóc, giữa trách nhiệm của kẻ "chăn dân" với cuộc sống
yên ả thanh bình đang diễn ra trên mọi miền đất nước, thì văn
học thế kỷ XVI-XVII lại muốn nhấn mạnh cảm hứng này về phương
diện lịch sử, nhìn vận mệnh dài lâu của đất nước qua lịch sử của
các triều đại, đồng thời nâng quan hệ dân-nước
lên tầm khái quát qua việc đúc kết những mệnh đề chung nhất về đạo
lý làm người. Thơ Nôm lục ngôn vẫn được tiếp tục với Nguyễn Bỉnh
Khiêm, nhưng bên cạnh đó cũng đã xuất hiện một vài thể loại mới
là truyện văn xuôi kỳ ảo (như Truyền kỳ mạn lục,Thiên Nam vân
lục
(Hán) và Truyện các Thánh (Nôm)), và đặc biệt là hình thức
diễn ca lịch sử (kể cả Sấm truyền ca, diễn ca Kinh
thánh, cũng là diễn ca lịch sử Thiên chúa giáo phương Tây).
Đây là hình thức kể chuyện lịch sử bằng thơ, nhưng có những tác
phẩm rất dài hơi như Thiên Nam ngữ lục, với nhiều tình
tiết hư cấu lý thú, văn chương nôm na sống động, chắc chắn đã
đóng vai trò quan trọng của thể truyện trong đông đảo công chúng
bạn đọc thuở bấy giờ.
Bước đột khởi quan trọng của văn học Cổ Việt Nam sẽ được đánh
dấu ở giai đoạn thứ tư
mà theo chúng tôi, có thể đóng khung trong thế kỷ XVIII : giai
đoạn xung đột gay gắt giữa hai luồng tư tưởng "ngu trung" và
"cấp tiến", giai đoạn "thác loạn" của kiểu người "gia phong nền
nếp" cũ, cũng tức là giai đoạn chiến thắng rực rỡ của chủ nghĩa
nhân văn. Nguyễn Lộc cho rằng giai đoạn này phải bắt đầu từ giữa
thế kỷ XVIII (ý kiến của Nguyễn Lộc cũng đại biểu cho hai nhóm
tác giả hai tập giáo trình Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư
phạm Hà Nội), nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét, ngay từ
đầu thế kỷ, trào lưu nhân văn đã được khơi dậy với Chinh phụ
ngâm khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm và với Song
Tinh-Bất Daï của Nguyễn Hữu Hào (? - 1713) (31)
. Hai hiện tượng văn học quan trọng như thế chẳng phải đã đủ xác
nhận sự thống nhất trọn vẹn về xu thế nội tại giữa văn học nửa
đầu thế kỷ XVIII với văn học nửa sau thế kỷ là gì. Vì thế, khởi
điểm của giai đoạn này phải tính từ 1700, năm Song Tinh-Bất
Dạ ra mắt (32)
. Còn như giai đoạn văn học này chấm dứt vào lúc nào, tưởng cũng
cần cân nhắc cho hết lẽ. Đúng là văn học nửa đầu thế kỷ XIX có
khá nhiều phương diện vẫn là sự tiếp nối của văn học thế kỷ
XVIII (chúng tôi đã bàn đến tính liên tục và tiệm tiến của sự
phát triển của văn học so với lịch sử, đây là một minh chứng),
nhưng về sắc thái, văn học nửa đầu thế kỷ XIX so với trước đã có
nhiều nét khu biệt. Âm hưởng chính của chủ nghĩa nhân văn ở thế
kỷ XVIII là chống chiến tranh và cực tả thân phận người phụ nữ -
hóa thân của mọi đau khổ cùng cực trong cuộc đời dâu bể suốt thế
kỷ này. Đi liền với nội dung ấy là hình thức ngâm, vãn, một thể
loại có ưu thế trong việc biểu đạt tiếng khóc vò xé bên trong,
sự dồn nén cao độ của những sắc thái, cung bậïc của cảm hứng trữ
tìnhï. Văn học thế kỷ XVIII kết thúc cùng với sự khép lại của cả
một xu hướng phơi trải lòng mình triền miên không dứt, kéo dài
từ Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, đến Nguyễn Gia Thiều, Công
chúa Ngọc Hân... để nhường chỗ cho những đòi hỏi mới của chủ
nghĩa nhân văn ở nửa đầu thế kỷ XIX : một mặt phải tổng kết vấn
đề số phận con người trong những tác phẩm có quy mô tự sự lớn
(thể truyện xuất hiện hoàn chỉnh và đạt đến những kiệt tác như
Truyện Kiều), hoặc phát hiện thêm các khía cạnh nhức nhối về
tấn thảm kịch con người "dưới đáy", con người bị đẩy tới bần
cùng hóa, trong những thể ca, hành dài hơi bằng chữ Hán (thơ chữ
Hán Nguyễn Du, Cao Bá Quát, nhất là Miên Thẩm...), mặt khác phải
nói lên khát vọng cá nhân trong nhu cầu phơi bày các khía cạnh
mới của cái "tôi", khi điều kiện lịch sử đã đem đến cho nó một
nguồn kích thích mới, với những nội lực mạnh mẽ hơn trước : nhu
cầu thỏa mãn chí nam nhi, nhu cầu hành lạc - "chơi cho phỉ chí
tang bồng" -, nhu cầu trào tiếu, nhu cầu tính dục, nhu cầu hướng
nội, nhu cầu vò xé, trải nghiệm với chữ tình (thể loại thơ nôm
Đường luật và thể loại hát nói đáp ứng tích cực những nhu cầu
mới mẻ và đa dạng này). Như thế, văn học nửa đầu thế kỷ XIX là
một giai đoạn mới, giai đoạn thứ nămcủa thời kỳ văn học
Cổ Việt nam mà ta có thể xác định mốc khởi đầu là 1802, với
những sự kiện xẩy ra sát trước hay sau nó : bút chiến giữa Phạm
Thái và Nguyễn Huy Lượng xung quanh Phú tụng Tây hồ
(1801), Nguyễn Ánh thống nhất nhất đất nước (1802), tác phẩm
Sơ kính tân trang ra đời (1803), và Nguyễn Thiếp mất (1804).
Giữa thế kỷ XIX, với tiếng súng của thực dân Pháp bắn vào cửa
biển Đà Nẵng (1858), cùng với việc Nguyễn Công Trứ từ trần
(1858), văn học Việt Nam lại chuyển sang một giai đoạn khác. Đây
là giai đoạn thứ sáu, giai đoạn cuối cùng của thời kỳ
văn học Cổ Việt Nam . Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là
tính chất giao thời, thông qua sự hiện diện đan cài của những
nhân tố mới và cũ trong văn học : a. Dòng văn học yêu nước
truyền thống với hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân được khẳng
định và hình ảnh người sĩ phu trung nghĩa vụt sáng lên trong
chốc lát nhưng cũng là từng bước tự phủ định, cho đến khi mất
hẳn vai trò lịch sử; b. Dòng văn học trào phúng hiện thực với
hai cây bút cự phách Nguyễn Khuyến và Tú Xương khơi sâu vào hai
mảng sống hết sức mới mẻ là nông thôn và đô thị, trong đó bắt
đầu hằn rõ những mâu thuẫn nhức nhối của xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, đi liền với sự tha hóa cùng cực của cái hình ảnh
điển hình cho cả một thời đại : mẫu người nhà nho; c. Dòng văn
học tuồng với vai trò nhà nghệ sĩ Đào Tấn, làm nẩy sinh một hình
thức sống động của sinh hoạt văn học cung đình, khai thác các
mâu thuẫn giàu kịch tính của những đề tài muôn thuở về cuộc đấu
tranh bi tráng giữa chính-tà, trung-nịnh, chính thống-phi chính
thống, nhưng trong tiềm thức hình như cũng là một cách nghiêm
khắc duyệt lại các giá trị của Nho giáo trước vấn nạn ghê gớm
của lịch sử ; d. Dòng văn học quốc ngữ với sự ra đời của một vài
tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Nam Kỳ, với hàng chục tập truyện
tôn giáo theo thể vè và thể tuồng (33)
, với những truyện kể "như lời nói thường" của Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... báo hiệu một xu thế đổi
thay trong hình thức ngôn ngữ dẫn đến sự đổi thay trong tư duy
nghệ thuật, tuy mới manh nha song không thể cưỡng. Dẫu sao,
tiếng nói bao trùm văn học nửa cuối thế kỷ XIX vẫn là âm vang
còn lại của những giá trị tinh thần đã kết tinh từ nhiều thế kỷ.
Hình ảnh mẫu mực của cái đẹp tuy có bị phủ định gay gắt nhưng
tựu trung, các nhà văn vẫn phải thông qua lăng kính thẩm mỹ vốn
đã được đúc thành khuôn trong văn học cổ để làm thước đo của mọi
cách nhìn. Ngay cả dòng văn học quốc ngữ, sau một vài tác phẩm
đầy hứa hẹn như Chuyện thầy Lazaro Phiền (1887), cũng đã
có một chặng lùi tương đối : phải im hơi lặng tiếng đến ngót 15
năm mới tiếp tục khởi sắc trở lại. Bởi thế, văn học nửa cuối thế
kỷ XIX chưa thể là giai đoạn mở đầu của một thời kỳ văn học mới,
mà thực tế chỉ là khúc "vĩ thanh" của một màn kịch dài sắp kết
liễu : nó là giai đoạn bộc lộ hết tinh hoa cũng như chỗ bất cập
của những nguyên tắc thẩm mỹ một thời vang bóng của thời đại văn
học Coå Việt Nam. Đó là chỗ khác nhau giữa ý kiến Nhóm
Lược thảo, ý kiến Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ (34)
, và của chúng tôi.
|
(1).
Xem bài Vấn đề phân kỳ văn học sử Việt Nam. Tạp chí văn học,
số 3-1985, tr. 59-75.
(2). Bài trên được sửa lại và in trong cuốn Các
vấn đề của khoa học văn học. Trương Đăng Dung chủ
biên. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990. Tr. 372-398.
(3). Xem bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong khoa
học xã hội và trong nghiên cứu văn học. Tạp chí văn học, số
6-1990.
(4). Xem bài Vấn đề phân kỳ trong lịch sử văn học
dân tộc và quy luật vận động củá văn học dân tộc. Tạp chí văn
học, số 3-1985, tr. 25-40.
(5). Xem bài Vấn đề chọn mấy năm mốc trong việc
phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tạp chí văn học,
số 3-1985, tr. 41-51.
(6). Xem bài Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ
lịch sử văn học Việt Nam. Tạp chí văn học, số 3-1985, tr.
52-58.
(7). Xem Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại
Việt Nam. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
(8). Klanixoi Tiborơ. Về khái niệm thời kỳ văn học.
Sđd, tr. 399-408.
(9). Thanh Lãng. Bảng lược đồ văn học Việt Nam,
Tập thượng, Nxb. Trình bày, Sài Gòn, 1967. Phần mở đầu, tr.
XXXXI-XXXXII.
(10). Như trên, tr. XXXXII-XXXXIII.
(11).
Trung Hoa văn học thông sưû, 10 quyển. Trương Quýnh, Đặng
Thiệu Cơ, Phàn Tuấn chủ biên. Hoa nghệ xuất bản xã, Bắc Kinh,
1997. Sách này viết đến tận cuối thế kỷ XX nhưng chúng tôi chỉ
chọn 4 quyển đầu, tức thời kỳ thứ nhất (Cổ đại) trong bảng phân
kỳ của họ.
(12). Xem Trung Quốc văn học sưû, 4 quyển.
Nxb. Cao đẳng giáo dục, Bắc Kinh, 1999. Sách này chỉ viết từ
thời Thượng cổ dến năm 1919. Phần "Tổng tự" của Viên Hành Bái,
Q. I, tr. 12 và 18.
(13). Lanson. Histoire de la littérature française
(in lần đầu 1894), remaniée et complétée pour lapériode 1850-1950
par Paul Tuffaut. Nhà sách Hachette, Paris, 1951. Trong sách
này, Lanson và Paul Tuffaut đã chia lịch sử văn học Pháp thành
bảy thời kỳ :1. Thời kỳ Trung cổ; 2. Thời kỳ từ sau Trung cổ đến
hết Phục hưng; 3. Thế kỷ XVI; 4. Thế kỷ XVII; 5. Thế kỷ XVIII;
6. Thế kỷ XIX; 7. Thời kỳ Hiện đại (1919-1950).
(14). M. H. Abrams. A Glossary of Literary Terms.
Nxb. Harcourt Brace College, Fort Worth, Philadelphia, San
Diego, New York, Orlando, Austin, San Antonio, Toronto,
Montreal, London, Sydney, Tokyo, tr.210. Các dẫn liệu trong cuốn
sách này và trong cuốn Thử thách của vấn đề phân kyø
của Lawrence Besserman (chú thích 28) đều do ông Nguyễn Nam,
Trường đại học Harvard, chỉ giúp. Xin ghi nhận ở đây lòng biết
ơn của chúng tôi.
(15). M. H. Abrams. Sđd, tr. 205. Nguyên văn :
"suggests that there is an order in American political history
more visible and compelling than that indicated by specifically
literary or intellectual categories".
(16). Như trên, tr. 205.
(17). Xem bài Xác định cái dân tộc, cái cổ điển
làm cơ sở để phân kỳ văn học dân tộc
(1984). In trong Nho giáo và văn học Việt nam Trung cận đại.
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995, tr. 500-523.
(18). Xem mục "Le monde médiéval" trong sách
Encyclopedia Universalis, CD-Rom PC. Nguyên văn : "Dans le
cadre original, une civilisation s'est élaborée à partir
d'éléments dont la plupart étaient classiques, germaniques ou
chrétiens". Sau đây là hai đoạn trích nói về uy thế của đạo Cơ
đốc và của Tòa thánh La-mã trong suốt thời Trung cổ :
"Để thực hiện sự thống nhất về tinh thần, phải gieo rắc tín
ngưỡng, đón trước những sự bất đồng, và nuôi sống nó bằng những
giáo đồ của nó. Nhiệm vụ thứ nhất là việc truyền bá Phúc âm,
sánh vai cùng sự bành trướng của phương Tây. Khi thì những tông
đồ nối gót những người lính, những viên chức và những nhà buôn,
và họ vinh danh hành động của họ; khi thì họ khai thông con
đường của họ. Họ chinh phục trước tiên là phía Bắc xứ Francie,
nước Airơlen, nước Anh, nước Đức. Dưới triều Carôlinhgiêng, họ
buộc các xứ Saxe, Moravie, Carinthie slovène quy theo đạo. Đến
thế kỷ X, họ thâm nhập vùng Scandinavie, cắm chốt ở Bohême,
chiến thắng người Hung và với tay tới Ba-lan. Với phong trào
Drang nach Osten [ phong trào "Tiến về phương Đông" của
phong kiến Đức ở thế kỷ XII], họ mang Phúc âm vào Phầân-lan, vào
những vùng nói tiếng Slave ở Poméranie và Prusse. Nhưng những
vùng nói tiếng Slave ở Serbie, Bun-ga-ri và Nga thì thoát khỏi
bàn tay La-mã. Giữa những năm 860 và 871, họ tiếp nhận những nhà
truyền giáo của xứ Byzance. Khi sự ly giáo nổ ra, họ ở lại trong
phạm vi ảnh hưởng của xứ này. Thầy tu nối vào chính trị để cắt
Đông Âu ra khỏi phương Tây" (Pour réaliser l'unité
spirituelle, il fallait répandre une croyance, y prévenir les
dissensions et la faire vivre par ses adeptes. La première
tâche, l'évangélisation, alla de pair avec l'expansion de l'
Occident. Tantôt les apôtres suivirent les soldats, les
fonctionnaires et les marchands et couronnèrent leur action,
tantôt ils leur frayèrent la route. Ils conquirent d'abord la
Francie septentrionale, l'Irlande, l'Angleterre, l'Allemagne.
Sous les Carolingiens, ils convertirent la Frise, la Saxe, la
Moravie, la Carinthie slovène. Au Xe siècle, ils pénétrèrent en
Scandinavie, s'ancrèrent en Bohême, triomphèrent chez les
Hongrois et atteignirent la Pologne. Avec le Drang nach
Osten, ils portèrent l'Evangile en Finlande, dans les pays
baltes et aux Slaves de Poméranie et de Prusse. Mais ceux de
Serbie, Bulgarie et Russie échapèrent à Rome. Entre 860 et 871,
ils avaient accueilli des missionnaires de Byzance. Quand le
schisme éclarta, ils restèrent dans la sphère d'influence de
celle-ci. Le religieux rejoignit le politique pour couper
l'Europe orientale de l'Occident).
"Với tham vọng về sự độc lập của vị Giáo trưởng Constantinople,
nó trả lời bằng cách khẳng định không khoan nhượng quyền lực vạn
năng của La-mã. Để sắp đặt thế giới theo kế hoạch của Chúa trời,
nó công bố sự ưu thế của trật tự tinh thần đối với trật tự chính
trị, và vậy là ưu thế của Giáo hoàng đối với Hoàng đế. Nó chỉ
thực hiện đầy đủ điểm thứ hai của chương trình này, chính là cái
điểm mà chúng ta quan tâm ở đây. Như vậy nó cắt La-mã khỏi các
thánh đường phương Đông, nhưng nó cũng làm cho La-mã của phương
Tây trở thành một chế độ quân chủ thực sự. mà người thủ lĩnh, vị
Giáo chủ, chính là quốc vương, trong tất cả sức mạnh của từ ngữ,
và những Bộ trưởng, Hồng y, đều được tuyển lựa trong tất cả các
nước la-tinh theo dạo Cơ đốc, còn những vị Toàn quyền, những
Công sứ tòa thánh, thì luôn luôn đi khắp các nước ấy.Trật tự tôn
giáo đã tác động trong cùng một nghĩa. Những tu viện cấp cao,
ngay từ đầu thời Trung cổ, đã chiếm một chỗ rất lớn ở phương
Tây. Cho đến thế kỷ X, những tu viện ấy dã trở thành độc lập,
không còn phụ thuộc lẫn nhau. Với dòng Cluny ở thế kỷ X, chúng
thường có thói quen tập hợp lại xung quanh một quy chế, và xung
quanh một vị thủ lĩnh độc nhất hoặc một Hội đồng công cộng, một
"tổng tập đoàn thầy tu", để giải thích và làm cho quy chế được
áp dụng. Số đông những trật tự sinh ra theo cách ấy đã giành
được quyền "miễn trừ" đối với uy quyền của Giám mục địa phận, để
chỉ còn phụ thuộc vào Giáo hoàng, và chúng phân tán ra trong tất
cả các nước phương Tây. Như vậy chúng tăng cường sự thống nhất
xung quanh La-mã" (Aux prétentions du patriarche de
Constantinople à l'indépendance, il répondit par l'affirmation
intransigeante du pouvoir universel de Rome. Pour ordonner le
monde selon le plan de Dieu, il proclama la supériorité de
l'ordre moral sur l'ordre politique, et donc du pape sur
l'empereur. Il ne réalisa pleinement que le second point de ce
programme, celui qui nous intéresse précisément ici. Il coupa
ainsi Rome des Églises d'Orient, mais il fit de celle d'Occident
une authentique monarchie, dont le chef, le pontif, était, dans
toute la force du terme, souverain, dont les ministres, les
cardinaux, se recrutaient dans toute la chrétienté latine, dont
les plénipotentiaires, les égats, parcouraient constament
celle-ci. Les ordres religieux agirent dans le même sens. Les
abbayes avaient, dès le début du Moyen Âge, tenu en Occident une
très grande place. Jusqu'au Xe siècle elles avaient été
indépendantes les unes des autres. Avec Cluny au Xe siècle, elle
prirent la coutume de se grouper autour d'une règle et, pour
interpréter et faire appliquer celle-ci, d'un chef unique ou
d'une assemblée commune, d'un "chapitre général". La plupart des
ordres nés de la sorte obtinrent d'être "exempts" de l'autorité
de l'ordinaire pour ne relever que du pape et ils essaimèrent
dans tout l'Occident. Ils renforcèrent ainsi l'unité
disciplinaire autour de Rome).
(19). Nxb. Thương vụ , Bắc Kinh, 1964, tr. 76. Chuyển
dẫn theo Trần Đình Sử, Sđd, tr. 46.
(20).
Văn học Việt Nam từ các thế kỷ Trung đại đến Cận đại. Nxb.
Khoa học, Matxcơva, 1977. Chuyển dẫn theo Trần Đình Sử, Sđd, tr.
55.
(21). Theo tác giả, thời đại văn học Cổ điển được quy
định bởi những đặc điểm sau : a. Trong việc lựa chọn nhân vật, ở
bộ phận văn học cao cấp, thượng lưu, nhân vật và môi trường sinh
hoạt của nhân vật thường mang tính chất điển nhã, cao quý, trái
lại, ở bộ phận văn học dân gian thì lại mang tính chất tăm tối,
nghèo nàn; b. Bút pháp chung của văn học Cổ điển là tượng trưng,
ước lệ (trừ bộ phận văn học dân gian có thể không tuân thủ triệt
để các nguyên tắc sáng tác này), được nâng lên thành những mẫu
mực lý tưởng, những công thức cố định cho văn học mọi đời noi
theo; c. Phi ngã là đặc tính chung của văn học Cổ điển, cái tôi
của tác giả ít khi được bộc lộ trong sáng tác, nhưng trong văn
học dân gian, cái tôi vẫn có thể biểu lộ một cách dễ dãi; d.
Quan niệm cái đẹp của văn học Cổ điển là cái gì hợp với nghi lễ,
trật tự trong vũ trụ, vì thế, mọi nghệ thuật đều phải có tính
chất đối xứng, hoàn chỉnh, lời văn của văn học Cổ điển thường là
biền ngẫu, bảo đảm sự cân đối, nhịp nhàng. Sđd, Tập thượng,
tr.7-9.
(22). Đặng Thiệu Cơ. "Tự luận". Sđd, Quyển I, tr. 2.
(23). Ba tập. Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1957.
(24). Năm quyển. Nxb. Văn sử địa và Nxb. Sử học, Hà
Nội, 1957-1960.
(25). Nhiều tập. Nxb. Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
(26). Nhiều tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
(27). Thanh Lãng. Văn học Việt Nam, Tập I :
"Đối kháng Trung Hoa". Phong trào văn hóa, Sài Gòn, in lần thứ
hai, 1971. Những kiến giải về "phương pháp thế hệ" được trtình
bày ở các trang 43-52.
(28). Helen Vendler. Periodizing Modern American
Poetry (Phân kỳ thi ca Mỹ hiện đại), trong sách The
Challenge of Periodization ? Old Paradigms and New Perspectives
(Thử thách của vấn đề phân kỳ - Các cấu hình cũ và những viễn cảnh
mới). Lawrence Besserman chủ biên. Nxb. Garland, New York và
London, 1996, tr. 242-243.
(29). Xem Nguyễn Văn Trung. Đạo Chúa ở ViệtNam.
Nam Sơn xuất bản, Montréal, Quebec, 2000. Thực ra ngoài bìa đề
như vậy nhưng bên trong là tài liệu đánh vi tính thuộc "tủ sách
sử liệu Việt Nam" mà tác giả cho phép các thư viện trong và
ngoài nước được sao chụp để tham khảo. Bản chúng tôi dùng là của
ông Nguyễn Bá Chung. Xin được cảm ơn người soạn sách cũng như
người giữ sách.
(30). Trần Đình Hượu. Nho giáo và văn học Việt nam
Trung Cận đại. Sđd, tr. 522.
(31).
Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, Sđd, tr.
55.
(32). Chúng tôi dựa vào giả thuyết của Hoàng Xuân Hãn
trong Lời giới thiệu Truyện Song Tinh, Nb. Văn học, Hà
Nội, 1987.
(33). Theo Thanh Lãng. Bảng lược đồ văn học Việt
Nam, Quyển hạ, Sđd, tr. 24.
(34). Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên,Tập III. Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1967,
tr. 15.
35. Xem Phạm Thế Ngũ, Sđd, tr. 96.
36. Trung Hoa văn học thông sử. Sđd,
Quyển X.
37. Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại.
Sđd, tr. 50.
38. Xem Trung Hoa văn học thông sử,
Quyển IX và X. Sđd.
39. Chữ dùng của ông Nguyễn Văn Linh, Tổng bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, trong buổi họp mặt với một
số văn nghệ sĩ năm 1986, sau ngày ban bố Nghị quyết Đại hội VI .
40. Xem Hoàng Ngọc Hiến.Về một đặc điểm
của văn học và nghệthuật ở ta trong giai đoạn vừa qua. Văn
nghệ, số 23, ra ngày 9 tháng Sáu năm 1979. Và Nguyễn Minh
Châu.Viết về chiến tranh. Văn nghệ quân đội, số
11-1978.
41. Trả lời phỏng vấn trên báo Văn nghệ.
Dẫn theo Vương Trí Nhàn. Sự dũng cảm rất điềm đạm. Tạp
chí Sông Hương, số 12-1989.
42. Nguyên Minh Châu. Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Tạp chí Văn nghệ
quân đội, số 10-1987.
43. Thụy Khuê. Hai mươi lăm năm văn học
hải ngoại - 1975-2000. Đặc san Xứ Quảng xuân Canh thìn
năm 2000. Hội ái hữu Quảng Nam-Đà Nẵng tại Massachusetts
thực hiện. Tr. 229.
44. Trong bài
Thời kỳ văn học vừa qua và hướng phát triển củavăn học. Văn
học-học văn. Trường Cao đẳng sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
và Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, 1991. Tr.139.
|
|