|
Chương trước, chúng ta biết
chữ quốc ngữ h́nh thành khởi đi từ các
nhà truyền giáo Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài,
rồi lần lượt chữ quốc ngữ
được phổ biết trong giới Thiên chúa giáo,
chữ quốc ngữ thời ấy là phương
tiện truyền giáo. Cho đến khi Pháp đặt
chân lên miền Nam, th́ chữ quốc ngữ
được dùng làm phương tiện đô
hộ dân Việt Nam ta.
Từ đó chữ quốc ngữ có
cơ hội tiến triển mạnh mẽ, được
phổ biến, truyền bá đến quảng đại
quần chúng. Các nhà văn tiền bối như Trương
Vĩnh Kư, Húnh Tịnh Của, Trương Minh Kư
đă dịch các tác phẩm Nho giáo, soạn tự
vị, in các tác phẩm văn chương Việt
Nam, truyện đời xưa, nhằm mục đích
truyền bá tư tưởng Khổng Mạnh,
phổ biến văn chương Việt Nam và
chữ quốc ngữ.
Trước hết là Báo Chí, khởi
đầu là tờ Gia Định Báo ra ngày 15-4-1865,
kế đó là Phan Yên Báo ra năm 1868, Nông Cổ Mín
Đàm 1901... Sau đó đến thời kỳ thơ như
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đ́nh Chiểu do Trương
Vĩnh Kư phiên âm ra quốc ngữ năm 1880, sau đó
là dịch truyện Tàu vào khoảng năm 1904, c̣n
quyển tiểu thuyết được viết đầu
tiên in năm 1887, là quyển Thầy Lazaro Phiền
của Nguyễn Trọng Quản, rồi quyển Hoàng
Tố Oanh Hàm Oan của Trần Chánh Chiếu ra đời
năm 1910, nó mới nhen nhúm gây thành phong trào viết
tiểu thuyết sau nầy. Các giai đoạn ấy
đă tạo thành trào lưu văn học quốc
ngữ, nó có sắc thái và truyền thống đặc
biệt mang cá tính của người miền Nam.
Chúng ta đi sâu vào chi tiết ở
phần sau, tưởng cũng cần nhắc lại
chữ quốc ngữ ở miền Bắc được
chính thức sử dụng từ năm 1913, sau khi
miền Nam đă chính thức sử dụng chữ
quốc ngữ trên 20 năm và đă gần nửa
thế kỷ truyền bá chữ quốc ngữ.
A. Gia Định Báo
Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp
chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset
Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có
lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn
cả Quản Lư (1).
Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh
Kư được cử làm Chánh Tổng Tài.
Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh
Tổng Tài, có lẽ tờ báo đ́nh bản vào năm
1909 (2)
Tờ báo nầy trước tiên
mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi
tháng, khoảng năm 1870 th́ cứ mỗi tháng ra 3
số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số.
Mỗi số báo có 4 trang. Về
nội dung, trước tiên chỉ có hai phần:
Phần công vụ và phần tạp vụ.
- Phần công vụ: Dụ, nghị
định, chỉ thị, thông tư, biên bản
Hội Đồng Quản Hạt (3)...
- Phần Tạp vụ: Lời rao, tin
tức, trả lời cho các đương đơn,
án Hội Đồng xét lại ...
Đơn cử nghị định ngày
16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng
trên Gia Định Báo (4) :
"...Kể từ ngày hôm nay,
việc biên-tập tờ báo An-nam Gia Định Báo
được giao cho ông Pétrus Trương-Vĩnh-Kư
với tư cách Chánh-tổng-tài tờ báo nầy, ông
sẽ lănh một bổng-cấp hàng năm 3.000
phật-lăng (5).
Tờ báo tiếp-tục ra hàng
tuần. Nó chia làm hai phần, phần công-vụ
gồm các văn-thư, quyết-định của
quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn
bằng tiếng Pháp do Nha Nội-trị cung cấp và
ông Trương Vĩnh Kư dịch ra chữ An-nam;
phần tạp-vụ gồm các bài có ích cho sự
học và vui thích với các bài sử-học, luân-lư,
thời-sự để có thể đọc trong các
trường bản xứ và làm cho dân chúng An-nam chú
ư."
Sau đây là phần công vụ,
đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày
1-2-1874, đăng nghị định thăng trật
của hai công chức như sau :
Trường Hậu-bổ Sàig̣n
Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn
hạng 3, lên hạng nh́, đồng niên ăn 1.400
quan tiền.
Trường Khải Tường
Trương Minh Kư, nguyên làm
thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nh́, đồng
niên ăn 1.400 quan tiền.
Về phần tạp vụ, một bài
thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng
trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870:
Người bên Tàu thường
gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước
ở giữa v́ thuở xưa bên ấy có 18 nước
chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở
lại vô ở giữa các nước chư hầu nên
gọi là Trung Quốc.Người bên Tàu thường
kêu ḿnh là Đường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa
là người nhà Đường nhà Thanh.An-nam ta kêu là
Tàu, người bên Tàu, là v́ khách thường đi
tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa
qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu
v.v...
Người Bắc th́ kêu là Ngô,
nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa
rằng v́ bởi nó hay xưng ḿnh là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các-chú là bởi người
Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nh́n người
Tàu là anh em, bằng không th́ cũng là người
đồng châu với cha ḿnh, nên mới kêu là Các-chú
nghĩa là anh em với cha ḿnh. Sau lần lần người
ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
C̣n kêu là Chệc là tại
tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú.
Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam
ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô,
chú, bác th́ kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người
An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là
Chệc ...
C̣n tin tức, như mẫu tin sau
đây, đăng vào Gia Định Báo số 8 năm
thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870:
... Có một người tên là
Thiện, nhà ở gần chợ Hốc-môn. Tối 12
tháng giêng nầy người ấy xuống ghe mà
ngủ, c̣n vợ con th́ để ngủ ở nhà.
Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên,
thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến,
khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà
cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc,
vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm
khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng,
mà cho lọt vào tai va th́ nhà cửa, tài vật đă
ra tro rồi...
Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Kư
muốn có những tin tức mới lạ, cùng
khuyến khích những thông tín viên tự nguyện,
để góp cho Gia Định Báo được dồi
dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông
đă có lời rao sau đây, đăng trong số 11
năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870
Lời cùng các thầy thông-ngôn, kư-lục,
giáo tập vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Định Báo
tại Sàig̣n, ở một chỗ, nên không có lẽ
mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6
tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy
cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết
những chuyện ḿnh biết tại chỗ, tại
xứ ḿnh ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm.
Bệnh-hoạn, tai-nạn.
Sự rủi-ro, hùm tha, sấu bắt.
Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào.
Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân
Nói tắt một lời là
những chuyện mới lạ, đem vô nhựt-tŕnh
cho người ta biết, viết rồi th́ phải
đề mà gửi về cho Gia Định Báo Chánh
tổng-tài ở Chợ-quán.
Trong tờ báo, như đă nói có
phần công vụ và tạp vụ, có những bài không
ghi rơ xuất xứ. Trương Vĩnh Kư giải thích
phần nầy:
Những kẻ coi nhựt-tŕnh
phải có ư cũng hiểu điều nầy là:
Thường những chuyện
Tạp-vụ các nơi trong đất Nam-kỳ
gửi về cho kẻ coi Gia-Định Báo, th́ có
kẻ coi lại, có trắc th́ sửa lại cho xuôi
cho dễ nghe v́ các thầy gửi cho nhựt-tŕnh th́
cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để
tên các thầy ấy kư lấy v́ là của các
thầy ấy viết và gửi. C̣n như phần công-vụ,
các bài nghị-luận quan lớn Nguyên-Soái cùng
những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi
nhựt-tŕnh làm. Mà những khoản thẩm xét án các
quan tham-biện hay là trả lời cho kẻ qú
đơn, việc nọ việc kia th́ của
Hội-đồng quan Thống-soái Nam-kỳ
luật-vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô
Gia-Định Báo, có tên người đứng kư vô
đó, th́ hể gửi thế nào th́ in ra thế
ấy mà thôi. Cho nên khi có điều ǵ không
được cho rơ mấy th́ xin kẻ coi nhựt-tŕnh
chớ trách-cứ kẻ coi việc ấy ...
Cũng có phần văn chương
như bài sau đây, đăng trong số 39 năm
thứ 19, ngày 13-10-1883:
Nồi Đất Với Nồi Đồng
Nồi đồng tính việc đi
đàng,
Rủ ren nồi đất cùng trang đang th́.
Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi,
Ở an xó bếp, không ly góc ḷ.
V́ e sẩy bước rủi ro,
Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy.
Rằng da đấy cứng hơn đây,
Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan.
Đáp rằng: rủi gặp dọc đàng,
"" Vật chi cứng cát cảng ngang không v́.
Để ta qua bửa lo chi,
Bên th́ vật ấy bên th́ nhà ngươi.
Tai nghe nói ngọt tin lời,
Ch́u ḷng bạn hữu bèn dời chân đi.
Bước khua lộp cộp dị kỳ !
Xa nhau e sợ, gần th́ đụng nhau.
Hai nồi đi chẳng đặng mau,
Chưa đầy trăm bước đụng nhau
ră rời.
Hởi ôi Nồi đất rồi đời,
Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than.
Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang,
Ở đời giao kết kẻ ngang vai ḿnh.
Diễn quốc âm Trương Minh Kư
B. Phan Yên Báo
Nhiều nhà nghiên cứu đều
cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm
1868, do ông Diệp Văn Cương (6)
chủ trương biên tập, về nội dung như
Gia Định Báo lúc đầu, tờ báo nầy về
sau bị đóng cửa, v́ có những bài báo có tánh
cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay
không c̣n, cũng không rơ nó là nguyệt san hay tuần
san.
Có người cho rằng Phan Yên hay
Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Định
và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán
do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm.
Qua tiểu sử của Diệp Văn
Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có
vào những năm đầu Pháp mới đô hộ
miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có
từ 1880 hay trễ hơn, c̣n Phan Yên Báo của
Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không
xuất bản ở miền Nam, v́ nó là tờ báo
chữ Hán.
C. Nhựt Tŕnh Nam Kỳ
Là tuần báo, xuất bản số
đầu vào năm 1883
D. Thông Loại Khóa Tŕnh
Nó giống như Gia Định Báo
ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Tŕnh
ở trên, bên dưới là hàng chữ Miscellanées,
số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet
1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm
1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888.
Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3
mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi,
mỗi số có 16 trang.
Từ số đầu cho đến số 5, các bài
đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài
Bảo (7), những bài
ấy đều của Trương Vĩnh Kư
viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn
vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Kư
làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có
lẽ để cho người ta dễ học
thuộc ḷng, sau đó mới có bài của những
người khác.
Về nội dung gồm có :
Dạy chữ Nhu (chữ Hán)
Dạy chữ Pháp (thời bấy giờ gọi là
Phang sa hay Lang sa)
Giảng nghĩa về luân lư
Khảo cứu về thi ca, phong tục.
Nhơn vật (danh nhân)
Sau đây là các bài trích dẫn:
a ) Câu Chữ
Nhu(8)( x x
x x x x x x x x x x x x ) (9)
Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu
thủ ngũ phần giữ nhi tôn
(x x x x x x x x x x x x x)
Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu
đại nhi tôn bất như nhân
Nghĩa đen:
Mười phần rành rành dùng
lấy năm phần, Để lại lấy năm
phần cho con cháu;
Mười phần rành rành đều ḿnh dùng
hết, Đời sau con cháu chẳng như người
ta.
Nghĩa là:
Như ḿnh có đặng giàu sang rơ-ràng
cả mười phần th́ hăy hưởng lấy năm
phần mà thôi, để dành lại năm phần
sau con cháu hưởng với: v́ nếu như ḿnh
được mười phần ḿnh hưởng
hết đi cả mười, th́ đời sau con cháu
ḿnh c̣n ǵ mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng
người ta.
Trương-Minh-Kư diễn ra ca Nôm
rằng:
Mười phần rỡ rỡ
lấy năm xài, Để lại năm phần trẻ
gái trai,
Rỡ rỡ mười phần đều dùng
hết, Đời sau con cháu dám b́ ai.
b ) Một hai câu
tiếng Phangsa(10) (
Monsieur,(Bongdur moxơ) = chào ông
Bonjour (Madame,( ----""------ madăm) = chào bà
(Mademoiselle,(--""--madơmoaxel) = chào cô
Comment cela va-t-il? (C̣măng xa va ti) = mạnh-khỏe
thế nào ?
Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe.
Où allez-vous ? (u alê vú) = anh đi đâu ?
Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di
dạo
c) Tam Cang Là
Những Cang Nào ?(11) là
(x) (x) quân thần = vua tôi (=vua với tôi)
"" (x) (x) phụ tử = cha con (= cha với con)
"" (x) (x) phu phụ = vợ chồng (= vợ
với chồng)
(x) (x) (x) (x) quân vi thần cang (vua là
giềng tôi)
(x) (x) (x) (x) phụ vi tử cang (cha là giềng con)
(x) (x) (x) (x) phu vi thê cang (chồng là giềng vợ)
Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có
đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có t́nh,
chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa
là thuận ḥa với nhau.
Ấy là ba giềng cả.
Giềng là mối dây b́a giềng lưới,
có nó mới thành tấm lưới, mới chắc
cho lưới.
Về Tam Cang(12)
Ở dưới đời, người
ta không phép sinh ra mà ở một ḿnh cho đặng. Có
cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có
bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh
con đẻ cháu ra nối ḍng; thành nên gia-thất;
nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có
phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như
vậy th́ phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên
phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị,
ǵn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững
nước.
V́ vậy phải có đạo
tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép ở
với nhau cho trên thuận dưới ḥa, th́ mới
bảo hộ nhau được. Lớn theo phận
lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận
th́ bằng-an.
Vua cũng có phép buộc phải
ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật
buộc phải ở với vua quan thể nào cho
phải đạo. Cha mẹ có phận phải
giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép dạy
phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn
niềm; c̣n chồng với vợ cũng có ngăi
phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngăi
nữa.
Ấy là ba mối cả, là chánh
giềng làm nên tấm lưới chắc chắn
vững bền.
d) Hát Nhà Tṛ(13)
Hát nhà tṛ là tục ngoài Bắc vô
tới Nghệ-An, Hà-Tỉnh chí sông Gianh.
Tại kinh thành Huế cũng có mà
là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại
triều.
Ngoài Bắc hể khi có đám-tiệc,
hội-hữu, hôn-tế, ḱ-yên, chạp-miễu, th́
thường có hát nhà tṛ. Tùy theo ư chủ muốn, có
khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm
bảy hay là nhiều hơn mặc ư ḿnh. Trải
chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát
đó, kép cầm đờn đáy gảy
ngồi lại một bên.
Thường đào là con-gái có xuân-sắc,
chuyên tập nghề xướng-ca, ngâm-nga, múa hát,bắt-bộ
v.v. tục kêu là cô-đào (đàu B). Tay cầm
quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều
cung bậc giọng thấp cao ngân-nga hay và êm tai
lắm.
Hát th́ hát những là Ca-trù,
hoặc giậm Túy-kiều, câu hát rời, Tần
cung-oán, Chinh-phụ-ngâm, thơ phú
hoặc kể truyện. Có người đánh
trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám,
hoặc là người chủ nhường mời. Hát
cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt
bộ. Lại có khi bắt đào qúnh tương (14)
rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu,
chơn bước khoan- thai, miệng hát câu chi cho hay
đẹp t́nh ưa ư khuyên mời khách uống,
đem lại dâng đưa vô tới miệng.
Cung giọng nhà-tṛ thường là
những cung giọng nầy
Mẫu dựng
Thiệt nhạc
Ngâm vọng
T́ bà
Tắc phản
Hát hói
Gửi thư
Húnh
Hăm
Cung bắc
Cửa quyền
Non mai
Nường hạnh
Chữ khi
Thơ
Thỏng
e) Ca kiêng giống
độc(15)
Rượu để b́nh đồng
ấm thiết lâu,
Gan ḅ một lá, với gan trân.
Giải (ba-ba) ba chơn, cá lân không vảy,
Dê một sừng, tôm chẳng có râu.
Chó bốn đề, lương vàng cất
cổ,
Gà năm sắc, ngựa trắng đen đầu.
Cua sinh một mắt, lệch sao điểm.
Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu.
g) Ba bậc bộ
hành ở nhà quán (16)
Nhứt quân tử, ăn mứt
gừng, uống nước chè tàu, ngồi chiếu
bông, nằm nhà trong, đánh cờ tiên.
Nh́ quân tử, ăn thịt trâu, uống nước
chè huế, ngồi chiếu kế, nằm nhà
giữa, đánh cờ tướng
Tam quân tử, ăn cơm nguội, uống nước
lạnh, ngồi chiếu manh, nằm nhà ngoài, đánh
cờ chó.
h) Lư-Thường-Kiệt
(x) (x) (x) (17)
Lư-thường-Kiệt người
tỉnh Hà-Nội, huyện Vĩnh-Thuận
làm quan tướng nhà Lư. Thuở ấy bền Tàu
nhà Tống nghe lời Vương-an-Thạch
mà khinh dị Annam, vua Lư-nhơn-Tông mới sai Lư-thường-Kiệt,
với Tông đảng đem 10 vạn binh qua
đánh Tống, lấy đất Châu Khâm, châu
Liêm giết Thương-thủ-Tiết,
lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn
10 vạn con người ta.
Sau Tống sai binh tướng qua
đánh Annam, khi đóng binh tại bờ sông Như-nguyệt,
th́ Lư-thường-Kiệt biết bụng
dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách-qú
với Triệu-tiết đem binh Tàu hơn 87
vạn qua, nao sợ ngă ḷng, th́ dụng mưu mà làm
cho vững ḷng quân. Vậy mới cho người ra
sau bàn-thờ miễu ông Tương-tướng
giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm
bốn câu như sau đây.
Nam quốc sơn-hà nam đế cư,
Tiệt nhiên phân-định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh lính nghe liền vững bụng,
bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lư-thường-Kiệt
là người nhiều mưu-lược, có tài tướng-soái,
làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm-thành,
huân-nghiệp công-trận lớn lắm. Được
tặng là Việt quốc công.
Đời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm
thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch-đại
đế vương.
Tóm lại, Thông Loại Khóa Tŕnh
được coi như nguyệt san văn học,
nội dung gồm có những bài sao lục, một
số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng
văn vần và không có h́nh ảnh trang trí.
E. Nông Cổ Mín Đàm
Là tuần báo phát hành vào ngày thứ
Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng
lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người
cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo
nầy lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương
Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu
Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn
Đồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người
chủ bút vừa kể, c̣n có sự cộng tác
của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương,
Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang
Chiểu, Giáo Sỏi, Đỗ Thanh Phong.
Nội dung báo gồm có luận
thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu,
diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm
và quảng cáo.
Sau đây là một số bài trích
dẫn:
Băo lụt phía Tây-Nam(18)
Trong một năm hai lần băo,
tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương
hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba băo nơi Đông Nam (19)
dân Tây-Nam b́nh tịnh, đến đêm 26 tháng chín băo
nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng
mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Đại Ngăi, Bạc
Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Đốc
và Hà Tiên, cây ngă nhà xiêu, ghe ch́m người
chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm
thương. Chẳng phải băo mà thôi, lại nước
lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều
trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu
khổ, người mắc trước kẻ bị
sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương
dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc h́nh-hài
làm mọi cho người, đói ḷng, dạ không an
con vợ. Thương ôi Đă biết rằng: Trời
c̣n có khi mưa khi nắng, người sao không lúc
thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm
dân luống thảnh-thơi, quen thời-tiết phong
điều vơ-thuận. Xăy một phút trời sanh tai
biến, người không dè phải chịu nghèo nàn.
Dẫu tiên-tri cũng khó thở-than, v́ dân-vật thường
không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành
tiên thành phật cùng địa-phủ thiên-đàng,
th́ nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ
go; bằng mà luận trái phải việc đời,
lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng
lâu th́ sợ cực; những điều ấy người
cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để
lo chuyện bao đồng. Ôi thôi ! Hể trời
khiến tai-nàn người chịu, xót t́nh thương
nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa
bỏ lều tranh, đă rơ trước tam-phân đảnh
túc; bởi Chiếu-liệt đốc-thành kỉnh-sĩ,
nên người đành tận-tụy cúc-cung. V́
một người, chịu nhọc một ḿnh; làm
hết sức, chớ cơ trời nào dám căi. Thương
trăm họ nên phân trái-phải, hết sức ḿnh
cho trọn phận làm người, há cầu ai
rằng phải rằng chăng, điều phải
chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi !
Bị bị tai tai trời trời
khiến khiến hại hại người người
đời đời hết hết tưởng tưởng
chơi chơi th́ th́ phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài
tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho
bổn quán, như trúng th́ xin phụng lại một
tháng nhựt-tŕnh xem chơi.
Chủ bút
Đọc đoạn văn vừa trích,
chúng ta thấy chủ bút cũng như những người
viết khác, c̣n chịu ảnh hưởng của
cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn
biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây,
không dụng lối biền ngẫu, họ viết y
như câu nói, đó là nét đặc trưng của
văn chương miền Nam.
Trường Tabert(20)
Mỗi năm hễể sau ít ngày
ăn lễ sanh-nhật, th́ trường học Taberd
phát phần thưởng học tṛ rồi đặng
băi trường. Khi phát phần thưởng mời
cha mẹ học tṛ đến xem hát cho vui. Trường
dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho
người có con học vào trường ấy và
dục ḷng trẻ nhỏ vui và siêng học, học
đạo đức, học lễ nghi, học văn
chương, học vẽ lại thêm học hát xướng.
Đến lúc làm điều vui, cũng c̣n kiếm điều
cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời
lấy nhơn-nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi
mà có ư khuyên người làm phải, dạy trẻ ḷng
lành, xem đáng cám ơn người bày biện, ḷng
tốt thương người, tập rèn cho con em
phải cách.
Lời Rao
Thường thường hể làm
cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng.
Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải
mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn-Hữu-Phước
làm tri huyện tại hạt G̣ Công, rao cho chư
vị đồng bang và người khách đặng
rơ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay
tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ
chồng tôi mà nó không nghe lời dạy-dỗ ,
cứ theo hoang-đàng phóng-tứ. Nếu ai có cho mượn,
mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ
chồng tôi không biết đến.
Tự hậu không ai được
phép nói động đến vợ chồng tôi
về tên Vạng thiếu nợ.
Tri huyện Nguyễn-Hữu-Phước
Sau đây là mẫu tin đăng trên
Nông Cổ Mín Đàm năm 1915, chúng ta thấy những
người viết văn lúc đó vẫn c̣n
chịu ảnh hưởng cách hành văn biền
ngẫu, những người viết tin, lồng vào
đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên
vẫn c̣n dùng :
Rồi trái oan
Một phu-nhân ở đường
d" Espagne (21) ngó qua chùa
chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay
đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời,
tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà
liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi
nợ phong trần trả sạch c̣n cái giây oan trái
buộc ràng. Bởi v́ không rơ cơ quang, quan mới
lập đàng tra vấn. Vấn cho rơ v́ sao mà tự
tận, có phải v́ t́nh trường mà giận
hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận
nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn
lấp.
Tuy nhiên cũng có người hành văn
không dụng lối biền ngẫu nên vừa
ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như
đoạn văn sau đây :
Lê-văn-Búp ở
Thủ-Dầu-Một đi xách nước giếng
hồi nào không biết, đến chừng người
nhà hay tri hô lên th́ thấy anh Lê-văn-Búp trồng
chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước
nên mới té dọng đầu xuống giếng.
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương
dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông
Cổ Mín Đàm và bản dịch Tam Quốc Chí
đăng trong báo nầy, kư kên Canavaggio, nhưng theo
Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương
Khắc Ninh.
Sau đây trích một bài dịch Hán
văn của Nguyễn Chánh Sắt :
Chuyện mộ Tào Tháo
Phía ngoài thành Hứa-Đô có một
cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên th́
bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có
một người kia xuống tắm, giây phút
nổi lên như bị đao búa chém đứt ra
từng khúc. Sau có một người cũng bị như
vậy, thiên-hạ thất-kinh lấy làm lạ. Quan
phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt
nhiều dân khiêng đất đốn cây chận
ngọn nước sông lại, lúc nước cạn
rồi th́ thấy dưới sông có cái hang sâu, trong
ấy có đặt những xa máy tinh những gươm
bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào
thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống
điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra
mới biết là mộ của Tào Mạnh Đức.
Quan phủ bèn dạy phá ḥm ra, lấy xương
đem chôn nơi khác. C̣n những ngọc ngà châu báu
liệm trong ḥm, th́ lấy hết mà bỏ vào kho.
Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi
hai cái mă nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái
lại c̣n một cái nầy nữa. Ấy vậy th́
gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng c̣n gian trá.
Song đă ngoài ngàn năm mà một nắm xương
tàn c̣n chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại
mà coi, th́ gian trá cho lắm lại có ích ǵ.
Rút trong LIÊU TRAI CHÍ DỊ
dịch ra
Tân Châu, NGUYỄN CHÁNH S¡T
Và sau đây là phần Nhàn Đàm
đăng vào năm 1908 (không rơ số mấy)
CON VOI VỚI CON TRÂU
(tranh công)
Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài
rừng, xăy gặp con voi đứng lại mà đàm
luận việc công cán với nhau, th́ con Voi thấy
con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực
mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm
vậy, th́ con trâu trả lời rằng:
Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao
dày lắm, biết mấy đời vương, giúp
trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác
nhỏ nhen chớ trong ḷng sẵn có ba lá sách, nhưng
vậy cũng biết đặng đường nhơn
nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài.
Con voi nói lại rằng: Nè c̣n công
cán tao cao dày lắm, nhơn v́ trước tao giúp cho
vua Thuấn đă cày nên ruộng, bởi vậy sau
đây người ta tặng kêu tao là ông-tượng,
nên tao biết tao phải lớn hơn hết.
Con trâu trả lời: Phải ông
thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái
vóc và khoe ḿnh nên người ta gọi là ông tượng,
và h́nh thù th́ lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ
nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không
chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước
xem sau có một ḿnh ông bụng lớn và bao tử cũng
lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà
lại xông lớn đống, hể ai đi có
gặp nói phẩn của ông-tượng là vậy
đó.
Nguyễn Quang Trường
Tự Cửu Viễn
Cũng ở trang 6 tờ báo nầy có
đăng những quảng cáo như sau :
NHÀ ĐÓNG SÁCH J. VIẾT-LỘC &
CIE
ở đường d"Ormay
số 61, Sàig̣n
LÊ-VĂN-NGÀN, kế vị
Kính cùng chư quư vị đặng
rơ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới
làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang
cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay
của mấy thầy Viết-Lộc và Công-ty.
Vậy xin trong lục châu cùng châu
thành Saigon Chợlớn tưởng t́nh anh em chúng tôi
trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người
nam ta cho tấn tới theo đường thương
măi.
Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong
chư quư vị ai c̣n thiếu bạc hay là có
muốn mua cái chi th́ x́n từ ngày nay đến sau
phải gửi cho thầy Lê-văn-Ngàn.
C̣n nhà J. Viết-Lộc & Cie có
thiếu của ai th́ hạn trong một tháng phải
đem tờ giấy chi đến tại nhà nầy mà
tính. Bằng quá hạn nầy rồi th́ chúng tôi
chẳng biết tới nữa.
Saigon, le 16 Juin 1908
Phần quảng cáo đa số là
của người ngoại quốc, đủ
chứng tỏ thuở ấy người Pháp và
Ấn chiếm hầu hết việc thương
mại ở Sàig̣n. Đây là một mẫu quảng cáo
hàng :
Tiệm Bán Hàng Hoá
Ông Courtinat và Công-Ty
ở đường Catinat, Saigon
Số 96-98-100-102-104-106-108
Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng
tây, đủ thứ, đủ màu;
Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn
rửa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây
Hongkong, xe máy từ 55 đồng;
Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá
gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu
thơm đủ thứ;
Ghế Thonet mặt cây tốt lắm;
Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ;
Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và
nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng
đồ hành lư;
Máy nói hiệu Pathé;
Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ
thứ;
Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng;
Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon
xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lănh sữa xe hơi.
Tại nhà nầy chẳng thiếu món chi mà lại
giá rẻ.
|