|
Lời nói
đầu:
Bài viết này nhằm trình bày các vấn đề
thực tế của tiếng Hán Việt trong ngôn
tự Việt Nam trên quan điểm thực dụng
đại chúng; bỏ qua các liên quan lịch sử
cũng như lý luận ngôn ngữ học khá khó
cảm nhận được.
Với một đề tài rộng lớn và khó khăn
như vậy thì bắt buộc phải xảy ra sai
sót! Kính mong quý vị rộng lòng tha thứ và
bổ túc hoặc sửa sai cho các sai sót, nếu có.
Tôi xin thành thật cám ơn trước.
1)Tổng
quát:
Khi mới thấy cục xà bông lần đầu tiên
từ Pháp du nhập vào, người Việt Nam không
có tiếng để gọi; vì vậy đọc
tiếng Pháp "savon" theo giọng Việt Nam là
xà bông. Tiếng xà bông được gọi là
tiếng Pháp Việt. Với thời gian sử
dụng lâu dài, chữ xà bông tự nhiên hóa thành
tiếng Việt, gọi là tiếng Việt có
gốc Pháp. Tương tự như vậy, khi ngôn
tự Việt Nam mượn tiếng của Mán, Mèo,
Tày Đen, Tày Trắng, Tày Đỏ, Thổ, Nùng, Lào,
Chiêm Thành, Chân Lạp, Anh, Cambodge, v.v... thì gọi là
tiếng Mán Việt, Mèo Việt, Tày Đen Việt,
v.v...
Trong lãnh vực ngôn tự, không có vấn đề"tự
ái dân tộc", cũng không có chuyện
"tiếng nước tôi giàu có, vẻ vang, hay hơn
hẳn tiếng nước anh" mà chỉ là
một phương tiện để thông đạt
với nhau mà thôị Lịch sử tiếng
Việt Nam cũng na ná như của các nước
khắp nơi trên thế giới: không có chữ thì
cứ tự nhiên mượn mà xài, đơn
giản vậy thôị Chính vì thế mà khi xét
lịch sử ngôn ngữ, người ta kết
luận rằng không có thứ tiếng nào được
gọi là thuần cả. Trải qua khoảng 8,000 năm,
tất cả các tiếng nói đều pha trộn và
vay mượn lẫn nhaụ Rồi với thời
gian, tất cả đều phát triển, trở nên
phong phú và tiến bộ hơn.
Muốn hay không muốn thì đó vẫn là sự
thật. Xin các người Việt Nam "bảo hoàng
hơn vua" không nên nóng giận khi tôi viết:
tiếng Việt chỉ là một thứ tiếng nói
bình thường như mọi thứ tiếng nói trên
thế giới, không nghèo nàn mà cũng không giàu có,
không có gì vẻ vang mà cũng không có gì nhục nhã,
không có gì siêu việt mà chỉ có các đặc
điểm riêng như bất cứ thứ tiếng
nào khác. Tiếng Việt chỉ là một phương
tiện để người Việt thông đạt
với nhau; hãy bỏ qua các mánh khóe tuyên truyền,
kích động tâm lý không đúng đắn.
Nếu có khách quan thì mới biết chỗ hay,
chỗ dở của mình mà sửa đổi cho ngày
càng khá lên; còn như cứ tự cho tiếng nước
mình là "giàu đẹp, phong phú, vẻ vang" hơn
tiếng nước khác thì giống y như việc
so sánh chó nước tôi khôn hơn chó nước
anh, răng bò nước tôi trắng hơn răng bò
nước anh; trong khi thực tế khách quan thì
cứ hễ là chó thì chó ở nước nào cũng
khôn như nhau, cũng biết trung thành với
chủ và bò nước nào thì răng cũng
trắng cả!
Thiết nghĩ việc tán dương tiếng
Việt quá đáng là cố tình nói sai sự
thật, võ đoán và sẽ không thuyết phục
được ai cả, nhất là đám con cháu có
cơ may học được tinh thần phân tích
khoa học của Aâu Tây.
Ngoại trừ các tiếng sử dụng trong đời
sống hàng ngày như: ăn, ngủ, đi,
chạy, cái bàn, cái ghế, cái nhà, con mèo, con
chuột, con chó, cục đường, cục đá,
cục gạch, cây me, cây ổi, cây trứng cá,
v.v... thì tiếng Việt Nam phải mượn
rất nhiều từ các tiếng nói khác, đặc
biệt là tiếng Mường. Thuở ban đầu
lịch sử, có giả thuyết cho rằng
giống người Mường chính là giống dân
nguyên thủy của người Việt bây giờ.
Trong cuốn "Chánh tả tiếng Việt", giáo
sư Lê Ngọc Trụ viết:
"Gốc tích dân tộc và văn hóa ở tại
Bắc Việt. Có lẽ thời thượng
cổ, tổ tiên ta đã cư trú những vùng
triền núi, từ sông Đà (Hắc Giang) tới
Quảng Bình, gần gũi với dân Mường;
dấu vết còn lại là tiếng nói những vùng
nầy cũng cứng và có chỗ tương
tợ tiếng Mường. Thí dụ:
Mường:
ka,
kảy, kốk, kảw
Hà Tĩnh: ga, gái, kộk, gạw
Hà Nội: gà, gái, gốc, gạọ
Dân Mường, dân miền núi, cứ rút lần
rải rác vô dãy núi Hoành Sơn. Họ không bị
ảnh hưởng văn hóa của nước ngoài,
nhất là của hai đại cường quốc
Tàu và Aán nên còn giữ những cổ tục.
Tiếng nói của họ cũng không biến đổi
nhiềụ Nhờ vậy, so sánh hai thứ
tiếng mới thấy tiếng Việt và tiếng
Mường có lẽ do một gốc mà rạ
Dân Việt hay dời dân lập nghiệp, lần
xuống đồng bằng, kiếm chỗ đất
đai phì nhiêu dễ sanh sống hơn; đó là
đồng bằng sông Hồng Hà. (Lúc cổ
thời không tiến vào Nam, xứ Lâm Aáp của người
Chàm vì lẽ núi non cản trở, đất đai
chật hẹp khó sanh sống.) Tiếng nói, nhờ
nước sông Hồng Hà cũng "thanh
dịu" dần."
Có lẽ tiếng Mường là gốc của
tiếng Việt nhưng sau hơn 2,000 năm lịch
sử thì tiếng Việt ngày nay đã rời xa cái
gốc về giọng nói cũng như số lượng
từ ngữ tất nhiên phải nhiều hơn
gấp bội lần do kết nạp thêm tiếng Hán
ở phía Bắc và tiếng Mã Lai (cá, đã,
sẽ, đang), Môn Khmer (đốt, cháy, mặn, chát,
chua), Thái Lan, Chân Lạp, Chiêm Thành ở phía Nam.
Xét về tỷ lệ mượn chữ thì
việc mượn tiếng Hán đặc biệt
nhiều khủng khiếp! Nhiều đến
nỗi hễ cứ nói hoặc viết thì người
Việt Nam, dù có ý thức hay không có ý thức,
đều sử dụng rất nhiều tiếng Hán,
được đọc theo khẩu âm của người
Việt, gọi là tiếng Hán Việt.
Tiếng Hán Việt đã có trong tiếng Việt
Nam ngay từ thuở ban đầu có chủng
tộc Việt Nam (trước thế kỷ I), sau
đó là thời gian bị Trung quốc đô hộ
khoảng 1,000 năm. Trong thời gian này, chữ
viết cho cả nước là chữ Hán. Đến
thời kỳ độc lập, khoảng 1,000 năm
(trừ khoảng 20 năm bị nhà Minh đô hộ
vào đầu thế kỷ XV và 100 năm bị Pháp
chiếm làm thuộc địa), thì chữ viết
vẫn là chữ Hán. Người Việt Nam dùng
chữ Hán trong mọi lãnh vực dùng đến
chữ: công văn, khoa học, lịch sử, giáo
dục, văn chương, v.v... Chỉ mới
gần đây (khoảng 100 năm) thì mới có
lối chữ abc xuất hiện do công sức
của các giáo sĩ truyền đạo Thiên chúa
từ nhiều nước đến Việt Nam như:
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Pháp, v.v...
Trải qua suốt một thời gian khoảng 2,000 năm
sử dụng chữ Hán liên tục như vậy thì
lẽ tất nhiên ảnh hưởng to lớn
của chữ Hán là một sự kiện lịch
sử khách quan trong tiếng nói và chữ viết
Việt Nam.
Tiếng Việt Nam là thứ tiếng tổng
hợp rất nhiều thứ tiếng, trong đó
tiếng Hán Việt ước tính chiếm hơn
70%. Vì tiếng Hán Việt nhiều quá, sử
dụng lâu quá, phổ thông quá và giọng đọc
khác hẳn giọng Trung quốc cho nên có thể nói
rằng đa số tiếng Hán Việt đã
được Việt hóa rồi; hay nói cách khác,
đa số tiếng Hán Việt trong ngôn tự
Việt Nam là tiếng Việt có gốc là tiếng
Hán.
2) Đặc
điểm của tiếng Hán Việt:
Một câu hỏi tất nhiên phải đặt ra là
làm sao phân biệt được tiếng Hán
Việt và tiếng Việt, đặc biệt đối
với những người không học chữ Hán
hoặc chỉ có trình độ Trung Học Việt
Ngữ, hoặc những người Việt quen dùng
ngoại ngữ, lâu dần trình độ hiểu
biết tiếng Việt có thể trở nên kém
cỏi. Có vài cách như sau:
Cách làm biếng là phàm khi gặp chữ Việt nào
mà không hiểu nghĩa một cách rõ ràng hoặc không
chắc viết đúng chánh tả hoặc ít nghe
thấy thì hầu chắc chữ đó là chữ Hán
Việt. Thí dụ: A Phú Hãn (Afghanistan), việt dã
(chạy đua việt dã), thị phi (chuyện
thị phi ở đời), công xúc tu sỉ, bị
vong lục, tối hậu thư, hàn thử biểu,
địa chấn ký, ký âm pháp, trắc địa
học, nhân sinh quan, vũ trụ quan, đàn
việt, tiềm thủy đỉnh, nạn nhân mãn,
thẩm mỹ, quốc sắc thiên hương,
thục nữ yểu điệu , ngũ cốc,
phiếm diện, cảnh sát, bảo tàng viện, hàn
lâm viện, bộ nội vụ, bộ quốc phòng,
bộ ngoại giao, khủng bố, đức mô
khắc lạp tây (democracy), yên tư phi lý thuần
(inspiration), Tòa Bạch Oác, Nữu Ước, Ba Lê,
Hoa Thịnh Đốn, Tây Nhã Đồ, La Tỉnh
(Los Angeles), Thánh Hà Tây (San Jose), Chi Gia Kha (Chicago), Gia Nã
Đại (Canada), Vọng Các (Bangkok), Mạnh Mãi
(Bombay), Đức Lợi (Delhi), Cổ Ba (Cuba), Nã Phá
Luân (Napoléon), Lư Thoa Rousseau), Cam Địa (Gandhi),
Bối Đa Phần (Beethoven), A Lý Sĩ Đa Đức
(Aristote), Phú Lãng Sa (France), Ý Đại Lợi
(Italie), A Mỹ Lợi Gia (Amérique), Aâu La Ba (Europe), Á
Tế Á (Asie), v.v...
Cách ít làm biếng là ngẫm nghĩ nghĩa và cách
dùng của chữ. Nếu một chữ nào đó
đứng một mình, có nghĩa nào đó nhưng
không tạo thành từ ngữ được thì
chữ đó là chữ Hán Việt. Thí dụ:
+++thiên: trời.
Người Việt nói: "tôi nhìn trời", không
nói "tôi nhìn thiên." Tuy nhiên, khi dùng với
chữ cặp đôi, hoặc đồng nghĩa
hoặc phản nghĩa, thì có thể nói :
"của thiên trả địa".
Từ ngữ: thiên tài, thiên tai, thiên tạo, thiên
bẩm, thiên cơ, thiên hạ, thiên văn, thiên tính,
thiên nhiên, thiên lương, thiên lôi, thiên hình
vạn trạng, thiên niên kỷ.
+++địa: đất.
Người Việt nói: "đất này mới
được bón phân", không nói "địa
này mới được bón phân". Từ
ngữ: địa cầu, địa dự địa
lý, địa bàn, địa điểm, địa
đồ, địa hình, địa vâ,t, địa
thế, địa chấn ký, địa chất
học, địa chỉ, địa hạt, địa
lôi, địa phương, địa mạch, địa
từ.
+++nhân: ngườị
Người Việt nói: "dạy con lòng thương
người", không nói "dạy con lòng thương
nhân". Từ ngữ: nhân đạo, nhân tài, nhân
khẩu, nhân lực, nhân tâm, nhân tình thế thái, nhân
sự, nhân loại, nhân bản, nhân ái, nhân
chủng học, nhân chứng, nhân cách, nhân duyên, nhân
đức, nhân phẩm, nhân quyền, nhân sinh quan, nhân
tính, nhân hậu, nhân mãn, nhân nghĩa, nhân viên, thương
nhân, công nhân, văn nhân.
Cách "khó" nhất là học ... tiếng Hán,
nhờ đó mà tự khắc phân biệt được
tiếng Hán Việt và tiếng Việt thuần túỵ
Dưới đây là một số đặc điểm
của tiếng Hán Việt trong ngôn tự Việt
Nam.
a)Về âm vận:
Xét về tiếng nói thì có hai loại: loại
thứ nhất là tiếng biến âm, biến nghĩa
(tonal languages), nghĩa là sự lên giọng hay
xuống giọng làm thay đổi nghĩa của
tiếng (như tiếng của các nước châu
Phi, Nam châu Á, thổ dân Mexico, v.v...) Loại thứ
hai là tiếng bất biến âm, bất biến nghĩa
(nontonal languages), nghĩa là sự lên giọng hay
xuống giọng không làm thay đổi nghĩa
của tiếng (như Nhật Bản, Úc Á, Anh, Pháp,
châu Aâu). Vì vậy, điều đặc biệt
quan trọng trong loại tiếng "biến âm,
biến nghĩa" là phát âm và hiểu đúng nghĩạ
Tiếng Hán và tiếng Việt là loại tiếng
biến âm, biến nghĩa, có nhiều dấu
giọng nên ngoài cách phát âm đúng, dùng đúng nghĩa
chữ còn phải chú trọng đến vấn
đề chánh tả. Lấy thí dụ phát âm
tiếng tinh phải khác với tin, và khi bỏ
dấu vào thì nghĩa chữ tinh khác nghĩa các
chữ tình, tính, tỉnh, tĩnh và tịnh (tin
cậy, tin vui và tinh anh, tinh binh, tinh đời, tinh
ranh, tinh chế, tinh khiết, tinh thể, tình ái, tình
cảm, tình cờ, tình duyên, tình hình, tình nghi, tình
nghĩa, nóng tính, bản tính, tính chất, tính đố,
tính khí, tính mạng, tính nết, tính sổ, tính
từ, tỉnh điền, tỉnh dụng, tỉnh
bơ, tỉnh lẻ, tỉnh giấc, tỉnh khô,
tỉnh ngộ, tỉnh táo, tỉnh trưởng,
thanh tĩnh, tĩnh dưỡng, tĩnh từ, tĩnh
vật, tĩnh trí, tĩnh tọa, tĩnh mịch, tĩnh
tâm, tịnh tiến, tịnh độ, thanh
tịnh.)
Gần đây, khi viết thơ trên lưới
điện toán, một số người Việt
hoặc do không có xóp que tiếng Việt, hoặc do
lười biếng đánh các ký hiệu dấu
VIQR, hoặc muốn che dấu lỗi chánh tả nên
viết không có dấụ Tất nhiên người
đọc có thể đoán nghĩa căn cứ vào
nội dung bài viết nhưng nghĩ cho đến cùng
thì bắt buộc phải bỏ dấu bởi cái
cốt cấu trúc của tiếng Việt là dấu
giọng. Không có dấu giọng thì không còn là
tiếng Việt nữạ
Khác với loại tiếng đa vận (polysyllabic,
nhiều âm tạo ra một nghĩa), tiếng Hán là
loại tiếng độc vận (monosyllabic, một
âm có một nghĩa) và chữ viết là loại
chữ biểu ý, biểu nghĩa (không thể ráp
vần abc mà đọc được) Chính do hai
đặc điểm vừa nêu mà tiếng Hán có
quá nhiều tiếng phát âm giống y như nhau nhưng
nghĩa và cách viết lại khác nhau (gọi là
tiếng đồng âm, dị nghĩa, dị hình.)
Ngay cả chữ viết cùng một hình đồ
giống nhau nhưng có chữ lại bao gồm
nhiều nghĩa khác nhaụ Thí dụ: xét chữ tu
sỉ trong câu "Nếu cởi truồng đi ra
phố là phạm tội công xúc tu sỉ." Trước
hết, nếu biết công xúc tu sỉ là tiếng Hán
Việt thì sẽ giúp viết đúng chánh tả, không
viết cong súc hoặc cong sút tu sĩ. Xét về nghĩa:
*Âm
Tu có sáu kiểu chữ chính,
viết như sau
1) tu: 8
nét, bộ Nhân (người): sửa (tu thân)
2) tu: 11 nét, bộ "Nữ" (đàn bà): chị
(cổ ngữ)
3) tu: 5 nét, bộ "Dương (con dê): có hai nghĩa:
a) thức ăn ngon (trân tu)
b) mắc cỡ, thẹn thùng (hàm tu: có nét thẹn
thùng)
4) tu: 7 nét, bộ "Nhục" (thịt): nem
5) tu: 2 nét, bộ "Hiệt" (đầu):
cần gấp (cấp tu, thiết tu)
6) tu: 12 nét, bộ "Tiêu" (tóc dài): râu tủa
rạ Từ ngữ: liên tu: tua bông sen. Thành ngữ:
Liên tu bất tận: túa ra, tiếp diễn không
ngừng.
*Âm SĨ có sáu kiểu chữ chính, viết như
sau:
1) sĩ: 6 nét, bộ "Khẩu" (cái miệng):
há miệng rạ
2) sĩ: 6 nét, bộ "Tâm" (tim, lòng): lấy làm
nhục (sỉ nhục), xấu hổ.
3) sĩ: 19 nét, bộ "Mịch" (sợi tơ
nhỏ): cái lưới bịt tóc.
4) sĩ: 10 nét, bộ "Y" (áo): cởi áo ra, cách
chức (sĩ khí, sỉ chức)
5) sĩ: 11 nét, bộ "Túc" (chân): dép làm
bằng cỏ .
6) sĩ: 19 nét, bộ "Túc" (chân): giày dép làm
bằng cỏ. Từ ngữ: sỉ lý tương
nghênh: múa giày ra đón (khách).
Trong thực tế, khi nói câu thí dụ nêu trên, người
Trung quốc căn cứ vào nội dung (context)
của vấn đề đang đề cập
để xác định nghĩa của âm. Còn
nếu viết xuống thì vì các chữ đều
biểu nghĩa (và dị hình) nên nhìn vào là
biết nghĩa ngay, không sao lẫn lộn được.
Tiếng Việt Nam cũng là loại tiếng độc
vận nhưng ngày nay người Việt Nam không
viết chữ Hán nữa mà lại viết theo
kiểu chữ biểu âm, ráp vần abc lại để
phản ảnh giọng nói, hay nói cách khác là nói sao
viết vậỵ Khổ nỗi là tiếng đồng
âm nhưng khác nghĩa trong tiếng Việt cũng
nhiều không kém tiếng Hán. Nay dùng hệ thống
biểu âm cho nên người Việt sẽ vô cùng
khó khăn, chỉ có thể căn cứ vào nội
dung để đoán mò mà thôi - đôi khi đoán
được, đôi khi đành chịu thua, không cách
nào để xác định nghĩa của các
chữ Hán Việt đồng âm được!
Trong thí dụ "Nếu cởi truồng đi ra
phố là phạm tội công xúc tu sĩ" có người
đoán lờ mờ là "xúc phạm các vị tu
sĩ (người tu hành)". Rồi làm sao để
đoán nghĩa chữ công? Trong đầu người
Việt có các chữ: công sức, công việc, công
dụng, công lao, công hiệu, công suất, chiến công,
thành công, uổng công, công kích, tấn công, phản
công, công đoàn, thủ công, đấng hóa công, bãi
công, công đức, công trình, công nhân, công
cộng, công dân, công quyền, công hàm, công chức,
công chúa, công lý, bất công, công hữu, công ích, công
khai, công quỹ, công phẫn. Nếu biết
tiếng Hán thì sẽ biết chữ công có bốn
nghĩa chính, viết thành bốn chữ khác nhau:
*công:
chung (công cộng, công dân, công chúng)
*công: kết quả của một hành động nào
đó (công dụng, công lao, công hiệu)
*công: đánh (công kích, tấn công, phản công)
*công: thợ, lao động (công đoàn, thủ công)
Nghĩa
đúng của câu: "Nếu cởi truồng đi
ra phố là phạm tội công xúc tu sỉ" là
"lấy làm nhục nhã, xấu hổ, mắc
cỡ, thẹn thùng khi xúc phạm đến công chúng".
Một thí dụ khác về khổ nạn đồng
âm: "nam nữ thụ thụ bất thân" Người
không học chữ Hán, đọc câu này thì không cách
nào hiểu được sự khác biệt
giữa hai chữ "thụ thụ". Muốn
hiểu, phải đi về cái gốc chữ Hán.
Một chữ "thụ" có nghĩa là
"chịu nhận lấy (thụ mệnh, thu
nhận), thuộc bộ "Hựu" và chữ
"thụ" kia có nghĩa là "cho, trao cho
(truyền thụ), thuộc bộ "Thủ",
nghĩa của câu này là: người nam và người
nữ không đ ược sờ mó, đụng
chạm, gần gũi, thân mật khi trao đổi
vật gì đó với nhau.
b)
Về nghĩa:
Khi dùng tiếng Hán Việt thì phải lưu ý hai
vấn đề thường xảy ra: trật
tự văn phạm và nghĩa của các tiếng cùng
âm mà khác nghĩa, khác cách viết.
Một số tiếng Hán Việt vẫn còn giữ
âm Hán, khi nói ra thì âm nghe rất giống và khi
sử dụng thì vẫn giữ nguyên cấu trúc văn
phạm của chữ Hán. Thí dụ: mại (bán), mãi
(mua), niên (niên lịch), động (động
từ), đông (mùa Đông), lão (ông lão), cảng
(hải cảng), thủy (thủy thủ), ánh (ánh tà
dương), không (không khí), đậu (đậu
xanh), như (giống như), thân (thân cây), nhung (nhung
lụa), thích (vui thích), phấn (bụi phấn),
xứ (xứ sở), sự (sự việc), diễn
giảng, báo chí, tự điển, mục lục,
họa sĩ, bưu chính, bưu điện, tính tình,
tính mệnh, tính khí, tình dục, tình trạng,
chỉnh đốn, chỉnh lý, chỉnh tề,
chỉnh toàn, chính đại, chính đáng, chính
quả, chính giáo, v.v....
Một số tiếng Hán Việt không còn giữ âm
Hán, khi nói ra thì âm nghe khác hẳn và khi sử
dụng thì tuân theo cấu trúc văn phạm của
chữ Việt, gọi là tiếng Việt có gốc
Hán. Cần lưu ý rằng vào thời xa xưa,
tiếng Hán đã bị đọc trại theo
khẩu âm của người Việt thời đấỵ
Rồi với thời gian trôi qua, cả giọng
đọc của người Trung quốc và
Việt Nam đều thay đổi, cho tới nay thì
một số tiếng Hán Việt hoàn toàn khác
hẳn về âm, không còn hơi hướm đọc
trại nữạ Thí dụ: nhịn (nhường
nhịn) do chữ Hán "nhẫn", gần (xa
gần) do chữ Hán "cận", cứng
(cứng ngắt) do chữ Hán "cang/cương",
chia (phân chia) do chữ Hán "chi", giết
(giết bò) do chữ Hán "sát", thiêng liêng do
chữ Hán "linh", đàn (đàn bò) do chữ
Hán "đoàn", cuốn (cuốn sách) do chữ
Hán "quyển", thơ (thơ ca) do chữ Hán
"thi".
Chữ Hán đã có trước khi có giấy và máy
in (hơn 2,000 năm nay) cho nên việc ghi chép một
chữ rất khó khăn; rồi từ cái khó này mà
có khuynh hướng giản tự hoặc nuốt
chữ (tỉnh lược, ẩn dụng và
khuyết dụng) Xin đơn cử một thí
dụ về trật tự văn phạm thường
gặp như sau:
Thay vì: nhân chi tâm (lòng của người) thì
ẩn chữ "chi", nói: nhân tâm (lòng người)
nhân chi khẩu (miệng của người) thì nói:
nhân khẩu (miệng người)
nhân chi lực (sức của người) thì nói: nhân
lực (sức người)
nhân chi tài (tài của người) thì nói: nhân tài
(tài người)
thiên hạ chi nhân (người ở dưới
khắp bầu trời ) thì nói: thiên hạ (thế
giới loài người)
thục nữ chi yểu điệu: sự yểu
điệu của thục nữ.
Không nói "tâm nhân, khẩu nhân, lực nhân, tài nhân,
hạ thiên, v.v..." Trong thực tế, nếu
đảo ngược trật tự văn phạm
trên đây của chữ Hán Việt để nói
theo trật tự văn phạm Việt Nam thì có ba
vấn đề xảy ra:
*Chữ
Hán Việt trở nên vô nghĩa hoặc tối nghĩa:
Không được đảo trật tự của
các chữ: tương quan, quan trọng, cơ quan, cơ
thể, thời cơ, hiếu danh, hiếu sắc,
thị hiếu, hý kịch, hý trường, phương
diện, phương pháp, phương trình, cảnh
sát, Nho giáo, nho sĩ, hải cảng, hải quân,
hải phận, hành khách, du khách, khách sáo, nhan
sắc, nhan đề, thanh lâu, cao lâu, đa cảm,
đa đoan, đa nghi, đa tạ, ưng thuận,
nhàn nhã, thiếu phụ, sản phụ, quả
phụ, sơn cước, sơn dân, độ lượng,
chế độ, báo cáo, cáo phó, nguyên cáo, bị cáo,
cáo trạng, quảng cáo, duy vật, duy tâm, yếm
thế, yếm nhân, thương hàn, tử thương,
ngoại thương, nội thương, bản
chất, bản doanh, nhiệm vụ, đảm
nhiệm, quyền lực, quyền hạn, quân
dịch, phục dịch, tai hại, quan niệm, chánh
phạm, tòng phạm, tương đối,
tuyệt đối, toàn quyền, tư bản, vong
bản, bản ngã, lợi dụng, cố chấp,
cố thủ, v.v...
*Chữ
Hán Việt sinh ra nghĩa khác:
Đảo chữ bộ hạ thành hạ bộ. Tương
tự như vậy, xin tự đảo các chữ
dể thấy nghĩa đổi: quả nhân,
phạm tội, phân hóa, ai cảm, tận lực, khách
quan, hiếu sự, vi phạm, thực hiện,
chiến tranh, sĩ tử, công lao, tước
chức, thủ hạ, đầu hàng, v.v...
*Chữ Hán Việt vẫn giữ nghĩa:
Đảo trật tự các chữ Hán Việt sau
đây thì thành trật tự văn phạm Việt
Nam nhưng không đổi nghĩa: Đông phương,
Tây phương, sắc tướng, thương
tổn, thương cảm, quyền uy, bản nguyên,
lợi ích, lợi hại, lợi danh, ân ái, ân oán,
thù hận, oán thù, phá hủy, cầu nguyện,
ước nguyện, hoang phí, hư thực, cổ tích,
nam tính, nữ tính, đấu tranh, trang nghiêm,
phần mộ, phản bội, tạ từ, xưng
hô, luận đàm, lạc lưu, luật pháp, liên
kết, kết cấu, kết giao, biến cải,
tranh đoạt, trang điểm, ưu điểm,
nhược điểm, thần thánh, xuất phát,
hoảng hốt, hao tổn, bệnh tật, gia tăng,
tăng giá, mưu kế, độc kế, ác độc,
tàn bạo, lão ông, tiên ông, từ biệt, giao phó,
tra khảo, vinh hiển, vinh quang, sung bổ, thánh kinh,
ái tình, v.v...
c)
Luật hỏi ngã:
Giọng phát ra ngang bằng, cao hay thấp, khứ hay
nhập quyết định đánh dấu hỏi
hay ngã. Quy ước về dấu hỏi, ngã
rất tinh vi, tùy theo giọng đọc mà có
luật hẳn hoị Đây vừa là cái khó,
vừa là cái hay của chánh tả tiếng Việt.
Trong tiếng Hán Việt thì luật hỏi ngã
phải theo luật tứ thanh do Thẩm Ước là
nhà văn nổi tiếng thời nhà Lương,
(Tề 479-501, Lương 502-556, Trần 557-587) đề
rạ Vũ Đế nhà Lương hỏi Thẩm
Ước rằng: "Thế nào là tứ thanh: bình,
thượng, khứ, nhập?" Đáp: "Xin
đọc theo giọng của bốn chữ thiên,
tử, thánh, triệt."
Nghĩa là: những chữ đọc giống âm thiên
thì gọi là bình thanh, những chữ đọc
giống âm tử thì gọi là thượng thanh,
những chữ đọc giống âm thánh thì
gọi là khứ thanh, những chữ đọc
giống âm triệt thì gọi là nhập thanh.
Trong cuốn Văn Pháp Chữ Hán (cổ Hán văn)
của Phạm Tất Đắc, trang 1085, viết:
Ý nghĩa của tứ thanh được giải
thích bằng bốn câu thơ về thời
Đường:
"Bình
thanh thương cảm mà yên ổn,
Thượng thanh cao giọng như nâng lên,
Khứ thanh trong trẻo mà vẳng xa,
Nhập thanh ngắn tiếng mà thúc bách
(Bình thanh ai nhi an,
Thượng thanh cao nhi cử,
Khứ thanh thanh nhi viễn,
Nhập thanh đoản nhi xúc).
Về thời Minh, tăng sĩ Chân Không đặt
ra bốn câu ca để hình dung tứ thanh:
Bình thanh đường phẳng chẳng gập
ghềnh,
Thượng thanh hô cao sức kiện cường,
Khứ thanh rõ ràng thương cảm đường
xa,
Nhập thanh ngắn, thôi thúc, gấp thâu tàng.
(Bình thanh bình đạo mạc đê ngang,
Thượng thanh cao hô mãnh lực cường,
Khứ thanh phân minh ai viễn đạo,
Nhập thanh đoản xúc cấp thâu tàng)."
Mỗi thanh lại chia ra hai bậc: bổng và
trầm mà thành ra tám cung bậc. Bậc bổng
gồm những dấu: bình (không dấu), thượng
(dấu hỏi), khứ (dấu sắc), nhập
(dấu sắc đi với các chữ có chữ c,
ch, p, t ở cuốị) Bậc trầm gồm
những dấu: bình (dấu huyền), thượng
(dấu ngã, nặng), khứ (dấu ngã, nặng), và
nhập (dấu nặng đi với các chữ có
chữ c, ch, p, t ở cuối).
Nói tổng quát, luật hỏi ngã cho cả hai
tiếng Hán Việt và Việt là: thanh có gốc
chữ là dấu hỏi, sắc hoặc không dấu
thì đánh dấu hỏi và thanh có gốc chữ là
dấu huyền, nặng, ngã thì đánh dấu ngã.
Nếu không biết cách phân tích gốc chữ
(tự nguyên) thì chỉ còn cách là học thuộc lòng
hoặc học mẹo mà thôi!
Thay vì phân tích về luật hỏi ngã khá rắc
rối, khó áp dụng được trong thực
tế thì giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có giới
thiệu một mẹo rất hay; đó là "mình
nên nhớ viết là dấu ngã". Nghĩa là
nếu gặp một chữ Hán Việt bắt đầu
bằng một trong những âm đầu của
những chữ trong câu trên thì cứ mạnh tay
bỏ dấu ngã. Một ngoại lệ duy nhất:
chữ ngải trong ngải cứu (tên một cây
thuốc). Thí dụ:
* M (mình): mỹ
mãn, mẫn cảm, mãnh hổ, mẫu số, mãng xà,
miễn dịch, mã lực, giờ mão, kiểu
mẫu, mãn khóạ
*N
(nên):
truy
nã, trí não, nam nữ, nỗ lực.
*NH
(nhớ):
nhũng
nhiễu, nhã nhặn, nhẫn nại, nhuyễn
thể, nhiễm độc, nhãn hiệu, thổ nhưỡng.
*V (viết):
vũ
lực, vãng lai, vãn cảnh, vĩnh viễn, hùng vĩ,
vĩ tuyến
*L (là):
phụ lão,
nguyệt liễm, kết liễu, lữ khách, lễ
độ, thành lũy, lãnh đạm, lẫm
liệt
*D (dấu):
dã man, dũng
cảm, dung dưỡng, dĩ nhiên, diễm lệ,
diễn viên
*NG
(ngã): ngôn
ngữ, tín ngưỡng, ngưỡng mộ, nghĩa
cử, nghiễm nhiên, hàng ngũ, ngũ sắc,
vị ngã, Nguyễn Du.
Còn tất cả tiếng Hán Việt không bắt
đầu bằng các âm M, N, NH, V, L, D, và NG thì
cứ bỏ dấu hỏị Tuy nhiên, cần lưu
ý khoảng 20 chữ dưới đây không tuân theo
luật vừa nêu:
kỹ
(kỹ thuật, kỹ xảo, kỹ nữ), bãi (bãi
chức, bãi khóa), bĩ (bĩ cực, vận bĩ),
hữu (bằng hữu, hữu ích, hữu khuynh),
phẫu (giải phẫu), cữu (linh cữu),
tiễn (tiễn biệt, tống tiễn, hỏa
tiễn), tiễu (tiễu trừ, tiễu phỉ),
trẫm (tiếng vua xưng), trĩ (ấu trĩ,
chim trĩ), trữ (tích trữ), huyễn (huyễn
hoặc), hỗ (hỗ trợ), hỗn (hỗn
loạn, hỗn hợp), hãm (giam hãm, hãm hại),
đãng (phóng đãng, quang đãng), quẫn (khốn
quẫn, quẫn bách), xã (xã hội), hoãn (trì hoãn),
quỹ (thủ quỹ, quỹ tích), suyễn
(bệnh suyễn), cưỡng (cưỡng ép),
tuẫn (tuẫn nạn), đễ (hiếu đễ),
sĩ (kẻ sĩ)
Đọc
thêm:
Khi sáng tạo ra hệ thống chữ viết abc, các
vị cố đạo không dùng lối viết
"biểu ý" của chữ Hán (symbolic system) mà
lại dùng hệ thống ký hiệu để
"biểu âm", nghĩa là "nghe nói ra sao thì ký
âm như vậy" (phonetic system), lấy giọng nói
miền Bắc làm tiêu chuẩn để xác định
giọng nói và cách viết chung cho cả nước.
Chính vì vậy mà người miền Bắc không
viết sai chánh tả nhiều như người
miền Trung và miền Nam.
Trong quá trình lắng nghe giọng miền Bắc,
rồi dùng bộ chữ La tinh để ký âm thì các
cố đạo không đủ chữ để ghi
cho hết các giọng của tiếng nói Việt
Nam. Do đó, họ phải sáng tạo ra thêm ký
hiệu na ná như nguyên tắc chế biến
chữ của người La Mã khi mượn bộ
chữ Hy Lạp.
Vào khoảng 1000 năm trước Tây lịch, người
Phoenicians và Semite (nay là người Do Thái, Ả
Rập sống ở miền Đông Mediterranean)
khởi sự dùng các ký hiệu hình đồ
(graphic signs) để ghi lại âm thanh của
tiếng nói. Người Hy Lạp mượn hệ
thống chữ viết này để lập ra
bộ chữ Hy Lạp. Rồi người La Mã mượn
từ bộ chữ Hy Lạp để tạo ra 23
chữ cái La tinh. Đến thời Trung Cổ,
bộ chữ này được gọi là Trung
Cổ Hy Lạp (Medieval Greek) với khá nhiều
cải thiện và được sử dụng trong
khoảng từ năm 800 đến 1500. Cuối cùng
là hệ thống chữ viết ngày naỵ Trong quá
trình sáng tạo bộ chữ La tinh, người La Mã
đã biến chế, thêm bớt chữ Hy Lạp
để có thể phiên âm tiếng nói La tinh. Dưới
đây là vài thí dụ:
+++ Vì cần phân biệt 2 âm g và k, nhưng bộ
chữ Hy Lạp không có, cho nên họ đã lấy
chữ C, thêm một dấu gạch ngang chữ C
để tạo ra chữ G.
+++ Người Hy Lạp cả chữ I cho nguyên âm I
và bán nguyên âm Y; do đó, để phân biệt
với chữ I, người La Mã móc thêm một
dấu hình lưỡi câu để tạo thành
chữ J.
+++ Chữ R của Hy Lạp: người Hy Lạp
viết chữ R giống như chữ P, vì vậy,
để phân biệt với chữ P sẵn có, người
La Mã quẹt thêm cái đuôi để tạo ra
chữ R.
+++ Các chữ F, U, V, W và Y đều phát xuất
từ hình đồ Y của người Phoenician.
+++ Người La Mã dùng chữ Y cho nguyên âm
"U" và bán nguyên âm "W" và từ đó mà
sinh thêm ra phụ âm "V" bằng cách cắt cái
đuôi của chữ Ỵ Vào thế kỷ 17,
chữ U được sáng tạo và kéo dài mãi
đến thế kỷ 19 thì mới thực sự
được hoàn chỉnh về nhiệm vụ
của nó trong hệ thống chữ cái: V được
dùng để khởi sự một chữ (phụ
âm) và U (nguyên âm) có thể ở bất cứ
vị trí nàọ
+++ Chữ W được sáng tạo trong thế
kỷ 7 ở Anh để ghi bán nguyên âm "w",
đọc là "double -u" bởi vì cách viết
của hai chữ "u" dính lạị Tuy nhiên,
do phát minh ngành in cách nay khoảng chừng 500 năm,
chữ W được in thành hai chữ V: người
Pháp đọc là "double-v" nhưng người
Anh vẫn đọc "double-u".
+++ Chữ Y đầu tiên được dùng để
ghi âm "u", tức upsilon. Dần dần bị
sử dụng lẫn lộn với I; tuy nhiên, ngày
nay mọi người đã xác định và quy
ước rõ ràng Y là bán nguyên âm và I là nguyên âm.
3)
Tiếng Hán Việt trong ca dao Việt Nam:
Tiếng Hán Việt có ảnh hưởng quá
sức to lớn trong tiếng nói Việt Nam! Cứ
mở bất cứ tài liệu, báo chí Việt Nam nào
ra thì người ta sẽ thấy đầy rẫy
tiếng Hán; thậm chí ngay cả trong hình thức văn
chương truyền khẩu, bình dân nhất là ca
dao, vốn được xem là dùng toàn tiếng
Việt thuần túy, cũng tràn đầy tiếng
gốc Hán. Thử lấy một thí dụ là bài ca
dao "Lỡ Làng" trong cuốn Hán Văn Giáo Khoa
Thư của Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng
Giao. Bài này làm theo thể thơ lục bát biến
thể, thuần túy Việt Nam (gieo vần ở lưng
chừng câu (yêu vận) trái với cách gieo vần
của thơ Hán là gieo vần ở chữ cuối
câu cước vận):
Trèo lên
cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm
xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
(bản HVGKT: Sao anh không hỏi những ngày còn không?)
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu!
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra ?
Thoạt đọc thì ai cũng cảm thấy
chỉ có hai chữ "tầm xuân" (nghĩa là
tìm xuân, tên một loài hoa) là tiếng Hán Việt,
ngoài ra bài ca dao dùng toàn tiếng Việt thuần túy.
Tuy nhiên, xem kỹ thì không phải vậy. Những
tiếng Hán Việt vẫn còn giữ nguyên âm Hán là:
hoa, tầm xuân, đồng, không, như, câu.
Những tiếng Việt có gốc Hán là: hái do
chữ Hán "thái", vườn do chữ Hán
"viên", cà do chữ Hán "gia", xanh do
chữ Hán "thanh", biếc do chữ Hán "bích",
tiếc do chữ Hán "tích", thay do chữ Hán
"tai", lồng do chữ Hán "lung". Toàn bài
có 71 chữ, trong đó tiếng Hán chiếm 11
chữ, tiếng Hán Việt chiếm 10 chữ và
tiếng Việt thuần túy chiếm 50 chữ.
Chú thích:
Cần lưu ý rằng có tiếng vừa là
tiếng Hán, vừa là tiếng Việt thuần túy.
Trong bài ca dao trên, các tiếng Hán "tầm, đồng,
và câu" vừa là tiếng Hán, vừa là tiếng
Việt, có nghĩa khác nhau như sau:
*Tầm (Hán): khoảng cách 8 thước Tàu (tầm
nhìn), bến so^ng, hâm lại, một loại cỏ,
một loại cá, cái chảo lớn; nghĩa trong bài
là tìm (tầm nã, tầm chương trích cú,
tầm sư học đạo).
*Tầm (Việt): bậy, vớ vẩn (nói tầm
bậy, tầm phào)
*Đồng (Hán): cùng như một (đồng
bọn, đồng âm, đồng bào, đồng
ca, đồng cam cộng khổ, đồng bệnh
tương lân), đứa bé (tiểu đồng),
con ngươi (đồng tử); nghĩa trong bài là
đồng (kim loại)
Tiếng đồng đã biến nghĩa theo
thời gian. Nguyên người xưa đúc tiền
bằng đồng nên hai chữ đồng tiền
có nghĩa đơn giản là tiền làm bằng
đồng. Nhưng về sau, tiếng đồng không
còn được hiểu là chất đồng
nữa mà biến thành một tiếng mới
với một nghĩa mới dùng để chỉ cái
vật tròn tròn, dẹp dẹp, có lỗ (vuông
hoặc tròn) dùng để định giá trị
đồ vật. Thí dụ: đồng xu, đồng
bạc. Rồi về sau nữa, khi giấy bạc
xuất hiện, mỗi tờ giấy thay cho mỗi
đồng bạc tròn tròn trước kia cũng
được gọi là đồng. Thế là
chữ đồng là chất đồng đến
chữ đồng là đơn vị tiền tệ
ngày nay có cả một sự cách biệt về nghĩa
khá xa.
*Đồng (Việt): đồng ruộng, đồng
áng, đồng bóng. Ca dao:
Rủ nhau đi cấy, đi cầy,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cầy vợ cấy, con trâu đi bừa.
*Câu (Hán): đều, cong, bắt (câu lưu, câu thúc),
rãnh nước, lưỡi câu, ngựa con chạy
giỏi (thiên lý câu)
*Câu (Việt): câu văn, chim bồ câu, rau câu, câu
chuyện, câu nệ.
Bây giờ hãy xét một bài ca dao khác mà tôi không
nhớ tựa đề, chỉ còn lưu lại
một cảm tình, khâm phục cho ý chí cần cù
kiếm sống của người dân quê lam lũ
Việt Nam (chân phải cứng và đá phải
mềm!):
Người
ta đi cấy lấy công,
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông nước, trông mây,
Trông mưa, trông gio', trông ngày, trông đêm,
Trông sao chân cứng, đá mềm,
Trời trong bể lặng mới yên tấm lòng.
Bài này chỉ có một tiếng Hán Việt vẫn
còn giữ nguyên âm Hán là: công. Những tiếng
Việt có gốc Hán là: trông do chữ Hán "trướng",
cứng do chữ Hán "cang, còn đọc là cương",
yên do chữ Hán "an". Toàn bài có 42 chữ,
trong đó tiếng Hán chiếm 1 chữ, tiếng Hán
Việt chiếm 11 chữ và tiếng Việt
thuần túy chiếm 30 chữ.
Sự kiện lẫn lộn tiếng Hán, Hán
Việt và Việt thuần túy đòi hỏi người
Việt phải học kỹ lưỡng tiếng
mẹ đẻ của mình để có thể
hiểu, nói và viết tiếng Việt thành
thạo, đúng chánh tả và dùng đúng nghĩạ
Không phải cứ sinh ra là người Việt thì
tự nhiên biết nói tiếng Việt đúng
giọng, xài đúng nghĩa và viết đúng chánh
tả! Để hiểu tiếng Việt cho thấu
đáo thì bắt buộc phải hiểu cái gốc
chữ Hán của nó; giống như muốn hiểu
tiếng Pháp thì phải lần về cái gốc La
tinh, Hy Lạp vậy.
4) Cách
dùng chữ Hán Việt:
Trong văn học, một số rất đông người
Việt chủ trương không dùng tiếng Hán
Việt, nhất là trong khoảng 700 năm phát
triển nền văn chương chữ Nôm
(thế kỷ XIII - XIX). Gần đây là phong trào
Tự Lực Văn Đoàn, với nhiều nhà văn
như Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Công Hoan
viết tiểu thuyết chú trọng phổ biến
tiếng Việt thuần túy.
Văn thơ, tiểu thuyết, ca dao, tục ngữ
dùng tiếng Việt giản dị, dễ hiểu nên
tạo một cảm giác gần gũi, thân mật,
đi thẳng vào tâm não của người đọc.
Thí dụ: bài thơ Đường luật "Thu
Điếu" của Nguyễn Khuyến (1835 - 1910),
người duy nhất đỗ đầu cả ba
kỳ thi chữ Hán trong lịch sử Việt Nam (còn
gọi là Tam Nguyên Yên Đổ):
Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng nước theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ bay vèo.
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần, câu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đây là bài thơ tả thu nổi tiếng
nhất trong văn thơ Nôm, cho đến nay chưa
thấy bài nào có thể so sánh được! Nét
độc đáo của bài thơ là chỉ với
56 chữ bình dị mà tạo nên một phối
hợp rất đắc thể so với mọi ràng
buộc gắt gao của thể thơ Đường.
Vượt lên trên kỹ thuật dùng chữ và âm
vận, bài thơ còn vẽ nên một bức tranh
thu êm đềm ở miền quê Việt Nam, với
màu sắc và đường nét thật nhẹ nhàng:
một chiếc thuyền nhỏ lờ lững trong
ao, nước trong nhưng lạnh lẽo (gợi ý
thời gian là mùa thu), rồi sóng nước gợn
tí, lá vàng bay, phía trên là những từng mây lơ
lửng trôi, để rồi lồng trong khung
cảnh đó là một thi nhân:
Tựa
gối ôm cần, câu chẳng được.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Lời thơ dễ dàng, âm điệu đơn
giản nhưng không chút tầm thường;
nhất là cách dùng tử vận "eo" với các
chữ Việt Nam thuần túy: lạnh lẽo, trong
veo, bé tẻo teo, sóng biếc, hơi gợn tí, bay vèo,
lơ lửng, vắng teo, tựa gối, đớp
động, chân bèo" đã khiến bài thơ
rất đắc cách, mang lại một cái gì thong
dong, nhàn hạ vốn dĩ thân quen trong tâm hồn
người Việt.
Tuy tiếng Việt thuần túy có nhiều đặc
điểm hay một cách riêng (có nhiều tiếng
tượng thanh, tượng hình hơn so với các
tiếng khác: gió thổi ào ào, suối chảy róc rách,
mưa tí tách rơi, lom khom nhổ mạ, lững
thững dạo chơi) nhưng phải biết cách
sử dụng.
Trong thời gian trước năm 1975 và sau đó
độ năm năm, chánh quyền miền Bắc
hô hào sử dụng tiếng Việt thuần túy.
Thay vì dùng chữ "phi cơ trực thăng,
thủy quân lục chiến, bảo sinh viện,
hội Hồng Thập Tự" thì dùng "máy bay
lên thẳng, lính thủy đánh bộ, nhà đỡ
đẻ, hội Chữ Thập Đỏ".
Chữ máy bay lên thẳng có thể chấp nhận
được nhưng lính thủy đánh bộ thì
nghe kỳ quá. Thủy và bộ là tiếng Hán
Việt đi với hai tiếng Việt lính và đánh
nghe loạc choạc, loảng xoảng. Nhà đỡ
đẻ, hội Chữ Thập Đỏ thì nghe
tục và xoàng quá, làm mất đi cái nghiêm
chỉnh và tầm cỡ của bệnh viện và
hội.
Trong những năm gần đây, có lẽ vì đã
tới tận mức của sự thái quá nên
từ khuynh hướng "dùng tiếng Việt
thuần túy" lại đổi sang dùng toàn
tiếng Hán Việt. Cái gì cũng vậy, hễ rơi
vào thái cực là saị Bây giờ, báo chí Việt
Nam rất sính tiếng Hán Việt. Vào tháng 5, 2001, tôi
về Việt Nam nghỉ hè, mua một số báo như:
Công An, Pháp Luật, Phụ Nữ, Thanh Niên để
tự tìm hiểu về tiếng Việt ngày naỵ
Càng xem tôi càng kinh ngạc: tại sao họ lại
ưa chuộng tiếng Hán Việt dữ quá! Các
chữ : bức xúc, ách tắc, giai điệu quê hương,
chiến sĩ đặc nhiệm, chiến sĩ
trinh sát, chiến sĩ hình sự, thông báo chiêu sinh,
tài khoản, nghệ nhân, nghệ sĩ nhân dân,
v.v... rõ ràng là rất khó hiểu đối với
đại chúng. Buông xấp báo ra mà tôi cảm
thấy tối tăm mặt mũi, lỗ tai lùng bùng.
Phải chăng sính dùng tiếng Hán Việt để
chứng tỏ sự thông thái uyên bác?
Thực ra, khách quan mà nói thì tiếng Hán Việt
đã có một thời gian dài được tôn
trọng. Nó được xem là loại ngôn ngữ
bác học, thậm chí là tiếng để nói
với thần thánh và người chết. Ngày xưa,
người Việt Nam phải khấn tổ tiên
bằng tiếng Hán Việt, khấn nôm (tức
tiếng Việt thuần túy) là vô lễ. Người
xưa cũng không bao giờ dám dùng giấy có ghi
chữ Hán để gói các vật dơ bẩn. Có
lẽ do truyền thống xa xưa này mà tiếng Hán
Việt thường được coi là sang hơn
tiếng Việt thuần túy. Gọi "thầy
cả, thầy giáo, người phụ giúp thầy
giáo, thầy cãi, thầy chùa, thầy thuốc,
thầy lang, thầy bói, thầy coi tử vi, thầy
pháp, thầy tướng, thầy coi sao" nghe không
sang bằng "linh mục, giáo sư, phụ
khảo, phụ giáo, luật sư, nhà sư (đôi
khi nịnh bợ nên đặt ra các chức vị
đại đức, thượng tọa), bác sĩ,
tử vi gia, pháp thuật gia, tướng số gia,
chiêm tinh gia, v.v..." Trong thực tế sinh hoạt
cũng như sách vở, cái tính chất
"sang" này đã tạo ra không biết bao nhiêu
lố lăng, khôi hài lẽ ra phải cười nhưng
tồi tệ quá đến nỗi có khi không sao cười
được!
Tiếng Hán Việt được chuộng có
lẽ vì nghe kêu. Điều này thấy rất rõ
qua cách đặt tên con cái của người
Việt Nam. Đặt tên Ái thay cho Yêu, Bạch thay
cho Trắng, Bảo thay cho Báu, Bân thay cho Mộc
mạc, Bích thay cho Xanh, Cường thay cho Mạnh,
Diễm thay cho Đẹp, Diệp thay cho Lá, Giang thay
cho Sông, Đắc thay cho Được, Lương
thay cho Tốt, Trúc thay cho Tre, Hoa thay cho Bông, Lâm thay
cho Rừng, Quyên thay cho Đẹp, Nguyệt thay cho
Mặt trăng, Thủy thay cho Nước, Liên thay
cho hoa sen, Mỹ thay cho Đẹp, Giai thay cho Đẹp,
Minh thay cho Sáng, Hải thay cho Biển, Sơn thay cho Núi,
Long thay cho Rồng, v.v... Rất hiếm thấy cô gái
nào có tên Trần Thị Đẹp, Nguyễn
Thị Nước, Phạm Thị Xanh. Ở
ngoại quốc, sau 1975, một số đông người
Việt Nam chỉ giữ họ, còn tên thì đổi
ra John, Tom, Jack, Linda, Monique, Jane, Susane, Yvonne, v.v.....
Đọc tên John Tran, Monique Nguyen, Yvonne Phạm nghe cũng
ngồ ngộ.
Về mặt ngôn ngữ học, căn cứ vào
nguyên tắc đồng nhất và thuần túy, người
ta chủ trương nếu một khi dùng tiếng
Hán Việt cho một từ ngữ nào thì phải dùng
toàn tiếng Hán Việt, không nên chen lẫn vừa
tiếng Hán Việt, vừa tiếng Việt
thuần túy. Tuy nhiên, có vài trường hợp không
xác định được, các tự điển
không thống nhất với nhau. Thí dụ: nói chánh
trị hay chính trị? Aâm Hán là chính, âm Hán
Việt là chánh. Người Việt Nam dùng lẫn
lộn chánh và chính trong tất cả trường
hợp, nhưng khi gọi các người đứng
đầu thì luôn luôn dùng chữ chánh (chánh
tổng, chánh văn phòng, chánh án).
Thực tế dùng chữ một cách dễ dãi
của người Việt đã tạo ra nhiều
từ ngữ ghép tiếng Hán Việt và tiếng
Việt thuần túy, xài bởi nhiều người
và quá lâu cho nên mặc dù nghe lỉnh kỉnh nhưng
phải chấp nhận, không sao bác bỏ được.
Thí dụ: (chữ Hán Việt viết nghiêng và đậm)
nghĩ ngợi, danh tiếng, thuyền bè, thơ văn,
sách vở, công việc, thì giờ, làng xã, trí óc, xương
cốt, xác thịt, đường lộ, cầu
đường, hồ ao, đầu đuôi, chủ
tớ, sức lực, lo liệu, tranh dành, cầu
xin, ẩn náu, sinh đẻ, sao chép, nịnh bợ,
thiêu đốt, thay thế, chiếm đóng, trao
tặng, thoái lui, náo nức, hung tợn, ngu dại,
liều mạng, thanh vắng, yên lặng, tài
giỏi, v.v...
Kết
luận:
Điều đáng lưu ý là cố gắng dùng
tiếng Việt thuần túy khi có thể được;
không có thì mới dùng tới tiếng Hán Việt
để tránh bị gọi là "trưởng
giả học làm sang, dốt hay nói chữ."
Đừng gượng ép dùng tiếng Hán Việt;
những tiếng Hán Việt nào đã phổ thông,
đã Việt hóa rồi thì tha hồ xài. Được
vậy thì giọng nói, câu văn nghe mới tự
nhiên. Trong trường hợp cần nghiêm trang như
đặt tên trong giấy khai sanh (khác với tên
tục - để kiêng - như thằng Cu, cái
Tẹo), tên cơ quan, tên tổ chức hoặc
cần diễn tả ý tứ một cách trang
trọng, gọn gàng và chính xác thì nên dùng tiếng
Hán Việt bởi vì tiếng Hán Việt mang theo nó
tất cả cái sâu sắc, súc tích, chính xác
của tiếng Hán.