|
Những nhà văn quốc ngữ tiên phong là
những người đã dùng chữ quốc ngữ
để phổ biến văn chương, học
thuật trước tiên mà cũng là những người
hô hào truyền bá chữ quốc ngữ đến
đại chúng vào thời kỳ sơ khai.
Những nhà văn tiền phong ấy là Trương
Vĩnh Ký, Hình Tịnh Của, Trương Minh Ký, đã
sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc
truyền bá chữ quốc ngữ. Trong đó Trương
Vĩnh Ký soạn và cho in ra Chuyện Đời xưa
năm 1867, còn Huình Tịnh Của soạn quyển
Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1895.
Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành
những phong trào tiên phong sau nầy.
1. Sự Đóng Góp Của Các Nhà Văn
Tiền Phong
|
Trương Vĩnh Ký đáng được người
đời tôn vinh lên hàng bác học như người
ta đã làm, chính ông là học giả, là nhà văn
tiền phong đã nhìn thấy khả năng chữ
Quốc ngữ và ông đã phổ biến chữ
Quốc ngữ đến quảng đại quần chúng.
Trước ông, chưa có ai làm việc nầy, cho
đến thời đại của ông và công việc
ông làm, cho thấy chữ Quốc ngữ đã
được công chúng dùng đến. Như vậy nó
đã được phổ biến chớ không
phải chờ đợi đến người Pháp,
người Pháp chỉ là kẻ nhúng tay vào cho nó
tiến nhanh, ngõ hầu giúp cho việc cai trị
của họ được dễ dàng. Cho nên người
bình dân chống đối thực dân Pháp, cũng
ngấm ngầm chống lại việc học chữ
Quốc ngữ, nên trong mới có Ca dao trên.
Như đã nói, các nhà văn tiên phong gồm có : Trương
Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của và Trương Minh Ký.
Trong phần nầy, trước tiên chúng tôi muốn dành
một chỗ xứng đáng cho học giả Trương
Vĩnh Ký, vì ông chính là người tiền phong dùng
chữ Quốc ngữ và cổ vũ cho phong trào
học Quốc ngữ.

a) Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
|
Tên thật của ông, là Trương Chánh
Ký sau đổi thành Trương Vĩnh Ký, tên thánh là
Jean Paptiste, tên chữ là Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì
vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus
Jean Paptiste Trương Vĩnh Ký, sanh ngày 6 tháng 12 năm
1837 tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn),
tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An,
tỉnh Vĩnh Long, sau nầy thuộc tỉnh Bến
Tre.
Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh
Thi và Nguyễn Thị Châu, năm 1842, được 5
tuổi, ông học chữ hán với ông giáo Học. Năm
1847, cha ông qua đời trong khi trấn nhậm ở
một vùng gần Nam Vang (Phnom Penh), có lẽ sau đó,
mẹ ông giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu
dắt của vị giáo sĩ nầy, ông học
chữ Quốc ngữ, sau đó giáo sĩ Tám mất, có
nhà truyền giáo người Pháp tên Việt là linh
mục Long, đem về nhà dòng chánh ở Cái Nhum
(Bến Tre) cho học chữ La tinh.
Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835 hạ
Chiếu cấm đạo, nên năm 1848, Linh mục
Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại
Trung Học Pinhalu ở Campuchea, đây là trường
đạo dành để dạy học trò người
Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Hoa
, nhờ ở chung với học sinh các nước
Đông Nam Á mà ông học nói và viết thông thạo các
ngôn ngữ kể trên.
Năm 1851, Trương Vĩnh Ký theo Linh mục Long
qua họctại Tổng Chủng Viện Viễn Đông
Quốc Ngoại Truyền Giáo ở Poulo-Pénang (Hạ Châu).
Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học
về văn chương, khoa học, triết lý qua
chữ La tinh, và ở tại đây, công có dịp
học thêm các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn
Độ và Nhật.
Năm 1858, được tin mẹ mất, ông
rời Poulo-Pénang trở về Cái Mơn, năm nầy
ông được 21 tuổi. Hai năm sau, qua sự
giới thiệu của Linh mục Lefèvre, Trương Vĩnh
Ký ra làm thông ngôn cho Đại úy Jauréguiberry. Năm
1861, ông lập gia đình với bà Vương Thị
Thọ rồi lập gia cư ở Chợ Quán (nay
ở ngay tại góc đường Trần Hưng
Đạo và Trần Bình Trọng, quận 5 Sàigòn). Năm
1862, ông bị chuyển ra làm việc ở Huế.
Năm 1863, Trương Vĩnh Ký được Pháp
phái theo sứ bộ Nam triều do Phan Thanh Giản làm
Chánh sứ, phái bộ sang triều kiến Pháp hoàng
Napoléon III. Nhờ sứ trình nầy, ông có dịp
viếng các nước Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai
Cập, Ý, La Mã. Tại La Mã, ông được Giáo hoàng
Pio IX tiếp kiến, còn trong lúc ở Paris, ông kết
thân với các nhà thông thái, danh vọng nước Pháp
như Paul Bert, Duruy, Littré ... Ông được cử vào
Hội viên của hội chuyên khảo về Nhân
loại, và hội chuyên học tiếng Đông phương.
Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được
bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn
ngữ Đông Phương ở Trường Thông Ngôn
( Collège des Interprètes).
Ngày 16-9-1869, ông được Thống soái Nam Kỳ
Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Định
Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến
năm 1872, Năm nầy ông được thăng Tri
Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng
trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là
giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán
ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).
Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy,
ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo
dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ
của ông là Paul Bert sang làm Thống Đốc Nam
Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân
khấu chánh trị, một bước phù du mà
cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng
một thời đã mai một!
Trước tiên Paul Bert lấy tình thân hữu
nhờ ông giúp cho vài việc liên lạc với
triều đình Huế (1), sau sung Cơ Mật Viện
và làm Giám quan, cố vấn cho vua Đồng Khánh.
Ngày 11-11-1887, Paul Bert mất, ông có dịp rời
khỏi sân khấu chánh trị mà cả phía Pháp cũng
như quan lại Nam triều, kẻ không tin cẩn, người
lại không ưa ông. Trở về nhà, ông sáng tác và
vui thú văn chương.
Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn
học Quốc ngữ, đọc Ý sách Chuyện
Đời Xưa để thấy rõ hoài bão
của ông:
Kêu rằng chuyện đời xưa, vì nó là
những chuyện kẻ lớn trước ta bày ra
để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người
ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế.
Ta cũng có thêm một hai chuyện thiết tích mà
có ý vị vui, dễ tức cười, cũng để
cho người ta thấy khen mà bắt chước,
thấy chê mà lánh.
Góp nhóp trộn trạo chuyện nọ chuyện
kia, in ra để cho con nít tập đọc chữ
quốc ngữ, cũng là có ý cho người ngoại
quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập
hiểu cho quen.
Nay ta in sách nầy lại nữa: vì đã hết
đi, cũng vì người ta dùng sách nầy mà
học tiếng, thì lấy làm có ích. Vì trong sách
ấy cách nói là chính tiếng An Nam ròng, có nhiều
tiếng nhiều câu thường dùng lắm. P.J.B.
Trương Vĩnh Ký
Năm 1888, ông xuất bản một nguyệt san
lấy tên là Thông Loại Khóa Trình ( Miscellanées ou
lectures intructives pour les éleves des écoles primaires, communales et
cantonales et les familes), nguyệt san nầy số 1 không có
ghi ngày tháng xuất bản, chỉ có ghi năm 1888,
từ số 3 trở đi có ghi thêm Juillet 1888 và các
số sau ghi mỗi số một tháng kế tiếp. Như
vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) 1888 và số
sau cùng là số 18 năm 1889, in khổ 16cm X 24cm, mỗi
số có 12 trang.
Sau đây trích trang 3 số 1. ( Có hàng chữ Hán : Thường
Bả Nhất Tâm Hành Chánh Đạo)
(Đạo) (Chánh) (Hành) (Tâm) (Nhất) (Bả) (Thường)
(2)

Bảo
Coi sách dạy lắm, nó cũng nhàm; nên phải có
cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú.
Vậy ta tính làm ra một tháng đôi ba kì,
một tập mỏng mỏng nói chuyện sang đàng,
chuyện tam hoàng cuốc chí, pha phách lộn lạo xào
bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà
chẳng phải chơi không vô ích đâu, cũng là
những chuyện con người ta ở đời nên
biết cả. Có ý có chí thì thì lâu nó cũng
thấm, như là trí con trẻ còn đang sáng láng
sạch sẻ, tinh thần còn minh mẫn, tươi
tốt như tờ giấy bạch, như sáp mềm,
vẽ vời, uốn sửa sắc nào thế nào cũng
còn đặng: tre còn măng dễ uốn, con còn
nhỏ dễ dạy.
Phép học là trước học lễ sau
học văn; được cả hai ấy
mới ra con nhà gia giáo, biết phép tắc, lễ nghi,
can thường, luân lý, biết chữ nghĩa văn
chương, kinh sử, truyện cổ tích cổ kim
ấy là đấng đợt con người tử
tế: ở đời dù sao cũng chẳng nao,
chẳng mếch: vì hể người (Đạo) (Tâm)
( Nhân) đạo tâm nhơn, người (Hiếu)
(Tâm) Nhân) hiếu tâm nhơn, người (Hảo)
(Tâm) (Nhân) hảo tâm nhơn, và người
(Thiện) (Tâm) (Nhân) thiện tâm nhơn thì (Hoàng)
(Thiên) (Bất) (Phụ) hoàng thiên bất phụ.
Lấy đó làm mực mà ở thì nên, vì trời
đất không lầm (Thiên) (Địa) (Bất)
(Thác) thiên địa bất thác. Hãy cứ thường
nắm một lòng làm đạo chính thì sẽ qua
truông đời xống (3), xống bình an vô sự.
P. Trương Vĩnh Ký
Chẳng những Trương Vĩnh Ký là một nhà
văn tiền phong xứng danh của nền văn
học chữ quốc ngữ mà ông còn là một
học giả rất nổi tiếng, ông đã
được các vinh dự:
1-10-1863: Lãnh huy chương Dõng sĩ cứu thế
của Tòa thánh La Mã.
27-6-1886: Lãnh huy chương Isabelle la Catholique của Tây
Ban Nha.
15-2-1876: Được cử làm hội viên Hội chuyên
khảo về Văn hóa Á Châu.
07-7-1878: Được cử làm hội viên Hội chuyên
học địa dư ở Paris.
17-5-1883: Lãnh huy chương Hàn Lâm Viện đệ
nhị đẳng của nước Pháp.
17-5-1886: Lãnh Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long
Khánh của Nam triều.
04-8-1886: Lãnh Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ
đẳng của nước Pháp.
03-6-1887: Lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng
của nước Pháp.
Ông cũng có lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất
đẳng của Hoàng Gia Cam Bốt.
Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm Viện
thị giảng học sĩ.
Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
Trong khoảng năm 1873-1874, ông được
liệt vào hàng thế giới thập bát văn hào,
xếp theo mẫu tự như sau :
Bác sĩ Allemand, Banadona d" Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot
(Jules), Đại tướng Chambron, Bá tước
Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat
(Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre-Pontalis
(Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chế Saldonha Oliveirae
Daun.
Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương
Vĩnh Ký không thích con đường chính trị, ông
lại thiết tha với nền văn học chữ
quốc ngữ, ông có chủ đích quay về sự
nghiệp văn chương của mình, khi Paul bert
mất, ông không ngần ngại từ bỏ sân
khấu chánh trị, trở lại nghề dạy
học, viết sách dạy các thứ tiếnng Đông
phương, về phương diện nầy, ông là
nhà ngôn ngữ học quảng bác, vì ông có thể nói
và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn
ngữ Đông phương.
Viết sách dạy người Pháp học tiếng
Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư
(Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh
Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra
chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến
ngôn ngữ và tư tưởng Đông phương, chính
ở phương diện nầy chúng ta thấy ông là
nhà văn hóa, ở sân khấu chánh trị ông mong
tạo sự thông cảm giữa người Việt và
người Pháp, giữa những xung đột lớn
lao về chánh trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước.
Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng phải nhận ông
vẫn giữ được phong hóa Đông phương,
thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh,
điểm nầy chúng ta xem lại bài di huấn
của ông viết vào ngày 8-11-1870.
"" Người đời sanh ký tử quy,
đàng đi nước bước vắn vỏi
lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể
nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng
phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô
phòng được. Sự sống ở đời
tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi
sương sa; vạn sự đều chóng qua hết,
tan đi như mây như khóị Nên phải liệu
sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho
xong...""
Và sau đây là bài thơ ông sáng tác lúc gần ngày
lâm chung :
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường
quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gửi tên con sách nát,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài !
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.
Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61
tuổi. Mộ của ông hiện ở góc đường
Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng Sàigòn,
trong khuôn viên nhà của ông ngày xưa ở Chợ quán.
Thời Pháp, tưởng nhớ công nghiệp của ông,
người ta đúc tượng ông, một người
nho nhã mặc quốc phục, đầu bịt khăn
đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt
trong khuôn viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh
Độc Lập.
Tại Thủ đô Sàigòn, Bộ Giáo Dục dành
một trường Trung Học Lớn mang tên ông, Trường
Trương Vĩnh Ký nằm cạnh Trường Đại
Học Khoa Học Sàigòn.
Kê ra những sách và bài của ông đã viết
để thấy văn nghiệp của ông đồ
sộ, phong phú và đa dạng (4):
1. Năm 1865 : Cours pratique de langue Annamite, à l"usage du
college des interpretes.
2. Năm 1867 : Contes Annamite (Chuyện đời xưa)
3. "" : Abrégé de Grammaire Annamite
4. Năm 1872 : Grammaire Francaise (Mẹo Luật dạy
tiếng Lang sa)
5. Năm 1875: Petit cours de Geographie de la Basse-Cochinchine
6. "" : Histoire Annamite en vers (Đại Nam quốc
sử diễn ca)
7. "" : Cour de Langue Annamite (autographié)
8. "" : Cour de Langue Mandarine ou de Caractes Chinois
(autographié)
9. "" : Kim Vân Kiều-Poème transcrit pour la première
fois en quốc ngữ avec des notess explicatives, précédé
d"un résumé succinet du sujet en prose et suivi de quelques pièces
de vers relatives à la même histoire.
10. Năm 1876: Manuel des Écoles Primaires-(Syllabaire quốc
ngữ, Histoire Annamite, Histoire Chinoise (en ananmite)
11. "" : Quatre livres classiques en caractères Chinois et en
annamite (autographié)
12. "" : Alphabet quốc ngữ
13. Năm 1877: Sơ học vấn tân Répertoire pour les
nouveaux étudiants en caractères
14. Năm 1879: Cour d" Histoire Annamite, en 2 volumes
15. Năm 1881: Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra
Bắc kỳ năm Ất hợi)
16. "" : Retraite et Apothésose de Trương Lương.
17. "" : Les convenances et les Civilités Annamites.
18. Năm 1882: Saigon d"autrefois.
19. "" : Saigon d"aujourd"hui.
20. "" : Passe-temp (Chuyện khôi hài)
21. "" : Apologie de Trương Lương (Trương
Lương hầu phú)
22. "" : Événement de la vie (Kiếp phong trần, 3è
edition)
23. "" : Fais ce que doit , advienne que pourra (Bất cượng)
24. "" : Devois des Filles et des Femmes.
25. "" : La Bru (Thơ dạy làm dâu)
26. "" : Défaut et Qualités des Filles et des Femmes.
27. Năm 1883: Guide de conversation Annamite Francaise (Sách tập
nói tiếng An-nam Phangsa)
28. "" : École domestique ou un Père et à ses Enfants.
29. "" : Caprises de la Fortune (Thạnh suy bỉ
thời phú)
30. "" : Procription des Corbeaux (Bài hịch con quạ)
31. "" : Un lettré pauvre (Hàn nho phong vị phú)
32. Năm 1884: Grammaire de la Langue Annamite (Sách mẹo
tiếng Annam)
33. "" : Tam tự kinh.
34. "" : Sơ học vấn tân.
35. "" : La Digne (Mắc cúm từ)
36. "" : Jeux et Opium (Cờ bạc, nha phiến)
37. "" : La Bucheron et la Pêcheur (Ngư tiều trường
điệu)
38. "" : Huấn mông ca Transcription et traduction en
annamite et en francais.
39. Năm 1885: Alphabet Francais pour les Annamite.
40. Năm 1886: Conférence sur le Souvenir histoirique de Saigon et de
ses environs.
41. "" : Cours de la Langue Annamite aux Européens-Phrasélogie-Thèmes
versions.
42. "" : Cours d"Annamite aux Élèves Européens-Explication
du Lục Vân Tiên
43. "" : Cours d"Annamite aux Élèves Annamites-Explication
du Lục Vân Tiên
44. "" : Prosodie et Versification Annamite-Cour d"Annamite
aux Élèves Annamite.
45. Năm 1886: Dispute de Mérite entre les six Animaux domestique
(Lục súc tranh công)
46. "" : Maitre et Élève sur la Grammaire Francaise (Thầy
trò về mẹo luật tiếng Phangsa).
47. "" : Kim Vân Kiều en prose-Converti et commenté en
langue vulgaire pour les Élèves Annamite.
48. "" : Théâtre, Comédies, Chants, Chansons Annamite(Hát lý
hò Annam) Cours aux Elèves Annamite.
49. Năm 1887: Cours de caractères Chinois, 2è année-Explication du
Mencius, Thèmes, Versions et explication des pièces officielles.
50. "" : Vocabulaire des Mot usueles, Noms et termes Techniques,
Scientifiques, et Administratifs.
51. "" : Livres Élémentaire de 3.000 caractères (Tam thiên
tự giải nghĩa).
52. "" : Résumer de la Chronologie de l"Histoire et de la
Production de l"Annam en Tableau Synoptiques (Ước lược
sự tíchnước Nam)
53. "" : Précis de Géographie
54. "" : Les six Annimeaux domestiques (Lục súc)
55. Năm 1888: Đại Nam thập nhứt tỉnh thành
đồ.
56. "" : Miscellanées ou Lectures instructives pour les Élèves
des Écoles primaire, communales et cantonales et les Familles.
57. Năm 1889: Poème populaire (Lục Vân Tiên)
58. "" : Poème populaire (Phan Trần)
59. "" : Cours de Siamois
60. "" : Cours de Langue Malaise, professé et autographié jusqúà
là 7è lecon.
61. "" : Đại Nam tam thập nhứt tỉnh
địa đồ
62. "" : Quatres Livres classiques en Caractères Chinois et en
Annamite-Grande Étude Invariable Milieu.
63. "" : Grand Dictionnaire Annamite Francaise-1er feuille comme
spécimen
64. Năm 1890: Cours de Cambodgien (Ecriture et langue)
65. "" : Vocabulaire du Cours d"Annamite.
66. "" : Vocabulaire du cours de Caractères Chinois.
67. Năm 1891: Cours de Littérature Chinoise.
68. "" : Cours de Littérature Annamite.
69. "" : Programme Générale d"Études des les Écoles
Annamites.
70. "" : Modèles des Pièces officielles et administratives en
caractères.
71. "" : Généalogie de la Famille de P. Trương Vĩnh
Ký.
72. "" : Sĩ viên thi thảo.
73. "" : Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature
annamite, relié.
74. Năm 1894: Cours d"Annamite parlé (vulgaire)
75. "" : Grand Dictionnaire Francais-Annamite (invachevé)
76. ( 5 ) : Grammaire de la Langue Chinoise (Mẹo chữ Nhu)
77. "" : Grammaire Annamite en Annamite (Mẹo tiếng
Annam)
78. "" : Langage de la Cour en Extrême-Orient
79. "" : Vocabulair Francais-Malais
80. "" : Guide de la Conversation Malaise-Francaise
81. "" : Vocabulair Francais-Cambodgien
82. "" : Guide de la Conversation Cambodgienne-Francaise
83. "" : Vocabulaire Francais-Siamois
84. "" : Vocabulaire Siamoise-Francaise
85. "" : Cours de la Langue Birmane
86. "" : Vocabulaire Birman-Francais
87. "" : Guide de la Conversation Birmane-Francaise
88. "" : Cours de Ciampois
89. "" : Vocabulaire Ciampois-Francais
90. "" : Guide de la Conversation Ciampoise-Francaise
91. "" : Cour de la Langue Laotienne
92. "" : Vocabulaire Laotien-Francais
93. "" : Guide de la Conversation Laotienne-Francaise
94. "" : Cours de la Langue Tamoule
95. "" : Vocabulaire Tamoul-Francais
96. "" : Guide de la Conversation Tamoule-Francaise
97. "" : Cours de la Langue Indoustane
98. "" : Vocabulaire Indoustan-Francais
99. "" : Guide de la Conversation Indoustane-Francaise
100. "" : Minh tâm-La précieux Miroir du Coeur (en 2 vol)
101. "" : Cours de la Géographie de l"Indochine avec carte générales
et partiuculières en six parties: 1. La Cochinchine-francaise, 2.
L"Annam central, 3. Le Tonkin, 4. Le Cambodge, 5. Le Siam, 6. La
Birmanie.
102. "" : Cours d"Annamite écrit (Mandrin ou de caractères
chinois)
103. "" : Mencius-(Quatre Livres) No 3
104. "" : Luận ngữ (Quatre Livres) No 4
105. "" : Dictionnaire Chinois-Francais-Annamite.
106. "" : Annam Politiqye et Social
107. "" : Dictionnaire biographie Annamite (ou De Viris
illustribus regni Annamitici)
108. "" : Flore Annamite
109. "" : Produits de l"Annam
110. "" : Dictionnaire Géographie Annamite.
111. "" : Les Droits de l"Annam dans la Vallée du Mékong (Mémoire
sur)
112. "" : Recueil de Chansons populaire Annamites
113. "" : Recueil d"Oraisons funèbres Annamites
114. "" : Recueil de pièces de théâtre Annamite
115. "" : Sujets Histoiriques des Poèmes Annamites
116. "" : Étude comparée sur les Langues, Écritures, Croyances,
et Religions des Peuples de l"Indochine.
117. "" : Combinaisiondes systèmes d"écritures idéographique,
hiérogkyphique, phonétique, alphabétique
118. "" : Étude comparée des Langues et des Écritures des trois
branches linguistique.
119. Năm 1937: Petit Dictionnaire Francais-Annamite à l"usage des
écoles et des bureaux.
Sau khi kê các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký,
chúng ta thấy khoảng thời gian 33 năm với 119
tác phẩm chúng ta được biết đến, có
thể có những tác phẩm đã bị thất
lạc nên không có trong danh sách nầy.
Văn nghiệp để lại đồ sộ,
phong phú, đa dạng, gồm nhiều địa
hạt như : Triết học, Văn học, Sử
học, Địa lý... Riêng về ngành ngôn ngữ
học, ông đã viết nhiều sách dạy tiếng
Á Châu như : Trung Hoa, Lào, Kam pu chia, Thái Lan, Miến
Điện, Mã lai, Ấn Độ chứng tỏ ông là
nhà thông thái hiếm có, danh tiếng của ông
chẳng những chỉ có ở trong nước mà còn
có ở nước ngoài thời bấy giờ.
Cho nên về văn học chữ quốc ngữ, Pétrus
Trương Vĩnh Ký thật xứng danh là một nhà
văn tiền phong.
Trích Văn:

CƯƠNG TỪ THỨC TRUYỆN (
6)
Năm Quang-thái đời Trần, ở trong xứ
Hóa-châu (Huế, ngũ quang) có tên Từ-Thức
vốn dòng-trâm anh. Cha người xưa dự bực
công khanh, nhờ ơn vua nên mạng tù thân, làm quang
Tể-huyện coi hạt Tiên-du. Gần miền có
một chùa tên là Lam-tích, góp thâu cảnh bầu thiên,
mẫu-đơn một đóa sen mấy nhành,
tiếng đồn khắp hết gần xa, trẻ già
náo-nức yến anh dập diều.
Từ-Thức cũng ra đi coi cho biết, tới
nơi hoa mẫu-đơn, bỗng đâu xảy
gặp một người xinh tốt lịch-sự quá
chừng quá đỗi, trên trời cũng ít có, dưới
đời thì hản không. Thấy nàng (Giáng-hương)
bị kẻ giữ hoa bắt cầm, thì thương
mới đòi trẻ tùy-nhi mà biểu nó đi hỏi
vì cớ làm sao làm vậy? Người ta nói nàng coi hoa
nên bị bắt. Từ-Thức rằng trọng
vọng gì thứ ấy, mà khách tiên phải tay phàm
nhủm-nha như vậy. Bèn bước tới cổi
áo gấm ra cho thằng canh, mà xin tha cho nàng đi.
Nàng tiên cám ơn Từ-Thức hết lòng.
Rồi từ tạ trở về cõi tiên. Chàng
Từ-Thức từ ấy những thương
những nhớ luôn luôn, nên buồn đi chơi mãi,
những say cảnh vật thú vui. Sau treo ấn-tín
từ chức quờn đi. Sắm thuyền tớ
thầy đi lưu-linh dạo cảnh chơi, đụng
hang nào ghé hang nấy coi; khỏi Xích-bích tới Viên-đào,
trải qua non nước khắp nơi. Ngày kia trông ra
cửa Thần-phù, (7) ngoài xa biển, ở bắc
quấc chạy qua nam phương, mới nói với nàng
Giáng-hương mà xin về thăm quê đặng có
phú trối việc nhà cho an rồi hãy trở lại
non tiên mà ở mãn kiếp cùng nhau. Nàng Giáng-hương
mới năn nỉ cầm ở lại, mà chàng
Từ-Thức rằng-rằng quyết một xin
về. Đem nhau vào chầu chúa Tiên coi thử người
phán dạy lẽ nào. Chúa tiên phán rằng chàng còn lòng
tục chưa dời, còn nhớ tưởng sự
đời bấy lâu thì thôi, về thì cho về, cho xe
tiên đưa về. Giáng-hương mới trao
một bức thơ phong làm của đưa chàng.
Chàng Từ-Thức cầm thơ từ tạ ra
về. Tới nơi thì đã vật đổi sao
dời khác xưa. Tìm nhà nhà chẳng còn; tìm người,
người những mặt lạ cả; không thấy
lấy một người quen, hỏi ông bà già cả,
thì nói không biết, nói tên nói họ ra cũng không ai
biết; các ông già nói: từ thuở nhỏ có nghe nói
tên ấy họ ấy mà biết đã mấy đời
rồi bây-giờ còn ở đâu mà tìm?
Từ-thức ngơ ngáo không biết làm sao,
muốn trở lại non tiên cùng nàng Giáng-hương,
hay đâu sự dở-dang ra rồi; xe mây đưa mình
nó đã đi mất đi. Một mình bơ vơ ngao
ngán, mới mở thơ ra mà coi, thì biết đã
đành cách-biệt, không còn lẽ trở lại
nữa được. Thở than than thở ra đi,
chun vào ở núi Huỳnh-sơn, ở ăn đó làm
sao thì biệt tích không rõ đặng. (Miscellanées
No 8 Decembre 1888, trang 15-16)

ĐỐI ĐƯỢC VỢ
Anh học trò khó lịch-sự bảnh bao người,
đi khuyên giáo, tới nhằm cái nhà kia giàu có. Trong
nhà thợ đương làm ầm ầm ạc
ạc, cũng có tiếng thầy lang ( thầy
thuốc) với thầy pháp tới đó nữa.
Con gái nhà ấy đã đúng tuổi chưa có
chồng, thấy vậy thì thương, ra nói rằng:
"" Thôi đừng có đi khuyên giáo làm chi mà
xấu hổ đạo học trò, để tôi ra cho
một câu đối, ai đáp được trúng ý tôi
thì tôi sẽ lấy người ấy làm chồng.
Ai nấy nghe ham chợp rợp. Xin ra câu đối
đi. Cô ấy ra rằng:
"" Đế Nghiêu, đế Thuấn, đế
Võ; Võ, Nghiêu, Thuấn, tam đế truyền hiền
"".
Chú thợ mộc hớp tớp đối lại
rằng:
"" Bào rà, bào tách, bào xoi; xoi, rà, tách, ba bào
phạt mộc "".
Thầy pháp cũng nóng đối rằng:
"" Lôi thiên, lôi tướng, lôi bồng;
bồng, thiên, tướng, tam thiềng trừ quỉ
"".
Thầy chùa xen vào đối rằng:
"" Bồ đề, bồ Tát, bồ lương;
lương, Đề, Tát, tam bồ cứu khổ
"".
Thầy lang lại đối rằng:
"" Huỳnh cầm, huỳnh bá, huỳnh liên;
liên, cầm, bá, tam huỳnh giải nhiệt "".
Anh học trò lịch ịch ở sau, đối
rằng:
"" Vương Văn, Vương Khải, Vương
Thang; Thang, Văn, Khải, tam vương kế thánh.
Đối trúng ý, trúng đề, cô ấy
chấm được.
May cha chả là may; sẵn nhà, sẵn cửa,
sẵn cơm, sẵn gạo; nhảy phóc vô đó
một cái, sướng đã nên sướng ! (Chuyện
khôi hài - Passe-temps - bài số 9)
(1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang
30-32
(2) Chúng tôi dùng chữ trong ngoặc thay cho chữ Hán.
(3) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa
chánh tả, xống: sống
(4) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite.
b) Huỳnh Tịnh Của (1834-1907)
|
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh
Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông
thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được
bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công
việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm
quyền Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong
cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan
trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá
trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm
Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895
từ mẫu tự A đến L, tập II in năm
1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in
tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat
& d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2
tập của quyển tự vị nầy.
Là tự vị quốc âm nên mỗi chữ ông ghi
chữ Nôm rồi tới chữ quốc ngữ có ký chú
n: nôm, c: chữ (từ Hán Việt), sau đó mới
giải nghĩa, nếu là từ Hán Việt, đôi khi
ông thêm câu chữ Hán vào, ví dụ : chữ Quấc
trang 217 tập II .
(Chữ Nôm) Quấc n (Coi chữ quốc)
Con ---. Thứ chim đồng cao giò và hay kêu,
chữ gọi là (Đỗ)(Quyên), (Đỗ)( Võ),(Tử)(Qui)
Đỗ quiên, đỗ võ, tử qui.
Dò --- . Dài giò
Cách hành văn của ông rất mộc mạc và bình
dân, cho đến nay chưa tìm thấy tác phẩm nào
ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông
cho chúng ta thấy, ông đã chú trọng vào việc
điển chế và phổ biến chữ quốc
ngữ.
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Chuyện giải buồn (1880)
- Chuyện giải buồn, cuốn sau (1885)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập I (1895)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập II (1896)
- Tục ngữ, cỗ ngữ, gia ngôn (1896)
- Gia lễ quan chế
- Ca trù thể cách
- Bạch Viên Tôn Các truyện
- Chiêu quân cống Hồ truyện
- Thoại Khanh Châu Tuấn truyện
- Thơ mẹ dạy con
- Quan Âm diễn ca
Trích văn :
CHUYỆN KÝ VIÊN
Ông Ký-viên, thuở còn đi học, dạo ra ngoài
đồng, thấy có ba ông già chừng bảy, tám mươi
tuổi, tóc râu trắng bạc, lum khum cuốc đất,
công việc làm như kẻ còn trai. Ông Ký-viên hỏi:
- Ba ông tuổi tác chừng ấy, tiếp dưỡng
thế nào, mà sức lực còn mạnh thể ấy ?
Một ông trả lời rằng: Thất nội cơ
thô xú (nghĩa là trong nhà vợ thô kém); một ông
đáp rằng: Vãn phạn giảm sổ khẩu
(nghĩa là: cơm chiều bớt và miếng); ông
thứ ba đối lại rằng: Dạ ngọa
bất phúc thủ (nghĩa là: Đêm nằm
chẳng úp đầu). Ông Ký-viên bèn nối ba câu
ấy mà rằng : Chỉ tại tam tẩu ngôn,
Sở dĩ thọ trường cửu (nghĩa là:
ý chỉ thay lời ba ông, chỗ do sống lâu xa)
Chính là lời dạy người ta muốn hưởng
tuổi xa, thì phải tiết ẩm thực, viện
sắc dục, vẫn hợp với lời Tiền
Kiên ca rằng: Thượng sĩ dị phòng, Trung
sĩ dị bị, phục dược bách lõa, bất
như độc ngọa; (nghĩa là: kẻ thượng
sĩ riêng phòng, kẻ trung sĩ riêng mền; uống
thuốc trăm viên, chẳng bằng nằm riêng)
Đính vận cả hai bài ca:
Thất nội cơ thô xú
Vãn phạn giảm sổ khẩu
Dạ ngọa bất phúc thủ
Chỉ tai tam tẩu ngôn!
Sở dĩ thọ trường cửu. ( Trích
Miscellanées)
c) Trương Minh Ký (1855-1900)
|
Trương Minh Ký có biệt hiệu là Thế
Tải, ông sanh ngày 23-10-1855 tại Gia Định, là
học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và
giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền
Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên
tờ Gia Định báo, Thông Loại Khóa Trình cũng
như viết sách dạy Pháp văn.
Trương Minh Ký không được người ta
chú ý nhưng vừa là môn đệ, vừa là người
cộng tác thân cận với Trương Vĩnh Ký, xét
qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông
một chỗ đứng trong các nhà văn tiền
phong chữ quốc ngữ.
Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương
Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, chuyên dịch
chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn
vần nhiều hơn văn xuôi.
Ông có được ân thưởng:
- Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier
d"académie)
- Kim Khánh bội tinh của Nam triều và Hoàng gia Cam
Bốt.
Ông mất vào ngày 11-8-1900, mộ ông được
chôn cất trong nghĩa trang gia đình, nơi Trương
Gia Từ nằm trên đường Lý Thường
Kiệt, Gò Vấp, Gia Định ( Gần Tổng Y
Viện Công Hòa).
Văn nghiệp của ông gồm có:
- Phong thần bá áp khảo
- Ấu học khải phong
- Trị gia cách ngôn
- Cổ văn chơn bửu
- Pháp học tân lương (Cours gradué de Langue-Francaise)
1895
- Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature Annamite, relié
1891
Trích văn:

GÀ ĐẺ TRỨNG VÀNG
Tham thì thâm. Tôi muốn dẫn chứng lời
nầy là thuật chuyện con gà thường bửa
đẻ ra một trứng vàng, củ gà tưởng
trong mình con gà có một cái kho vàng. Nó đem làm
thịt đi, mổ ra coi thấy cũng giống như
gà thường vậy. Ấy bởi bổn thân làm cho
mình phải mất của quí trọng của mình. (Gia
Định báo số 18 ngày 6-5-1882)
NỮ NHI CA
Ăn vóc học hay
Một ngày một lớn
Bớt giỡn bớt chơi
Cười cười nói nói
Khoe giỏi khoe khôn
So hơn tính thiệt
Cướp việc tranh công
Ăn chùng nói vụng
Làm nũng khóc la
Nghịch cha nghịch mẹ
Hiếp trẻ đánh em
Nhem thèm sắp nhỏ
Điều có nói không
Đòi bồng đòi ẫm
Đi tắm không kỳ
Mặt lỳ mày lợm
Đóng khớm, đóng hờm
Đổ cơm đổ cháo
Vọc gạo giỡn tiền
Bông kiềng vòng chuỗi
Đòi cổi đòi đeo
Leo trèo nhảy múa
Chưỡi rủa rầy la
Gần xa nghe tiếng
Làm biếng ngủ ngày
Từ rày bỏ hết
Có nết có na
Thờ cha kính mẹ
Thương trẻ mến em
Dưới êm trên thuận
Đi đứng dịu dàng
Ra đàng tề chỉnh
Cung kính khiêm nhường
Kẻ thương người mến
Ai đến hỏi chào
Có sao nói vậy
Mắt thấy tai nghe
Còn e lầm lỗi
Phước tội chẳng chừng
Nên đừng nói bậy
Kẻ vạy người ngay
Mặc ai phải chẳng
Ngay thẳng thiệt thà
Việc nhà lần học
Kẻ tóc chơn tơ
Ngày giờ phải tiếc
Cứ việc làm ăn
Cho bằng chúng bạn
Việc bán việc buôn
Học khôn học khéo
Thêu kiểu vá may
Hàng ngày ra sức
Bánh mức nem bì
Món chi cũng giỏi
Mới gọi gái lành
Rạng danh thục nữ
Quân tử hão cừu
Danh lưu hậu thế
Dạy để mấy lời
Phen người dồi ngọc
Trương Minh Ký làm
(Miscelanées số 8 Decembre 1888 trang 15)
CHỨC CẨM HỒI VĂN
Chàng vâng hoàng chiếu thú an biên,
Đưa tới Hà kiều rẻ thảm riêng,
Ngậm thở ngùi than ngừng giọt lụy,
Ân tình xa cách chớ hề quên.
*
Đi ra tin đứt có dè sao!
Màn trướng đầu xuân ấm đặng
nào !
Dưới bụi quỳnh diêu rêu biếc láng,
San hô trong trướng bụi hồng bao.
*
Nỗi lìa thuở ấy bắt kinh hoàng,
Đem giũ lòng đâu gặp lại chàng;
Lòng ước làm trăng ngoài biển cả,
Hoặc làm mây nước chói cao san.
*
Mây móc hàng năm thấy mặt chồng,
Hàng năm trăng biển giọi soi cùng,
Bay đi bay lại cho gần được,
Muôn dặm thấy nhau kẻo đợi trông.
*
Đường sá vơi vơi cách trở thay !
Hờn chàng ngoài ải ở lâu ngày;
Thuở đi đưa đó lau vàng lá,
Ai ngỡ hoa mai nở bấy chầy.
*
Trăm hoa rộn rực sớm chào xuân,
Ai đó mà xuân giục kẻ than,
Đầy đất dương sà vì đó vén,
Bông rời không kẻ quét đầy đàng.
*
Thiệt thơm xuân sớm lối ngoài vườn,
Ôm lấy tần tranh tới hoa đường.
Ngâm khúc Giang nam vì đó khảy,
Tình sâu xin gửi thấu lòng chàng.
*
Bắc phương hiểm trở vượt non sông,
Muôn dặm non từ dứt nẻo thông,
Trấp bạc gối đầu dầm áo
lụy,
Chữ vàng xiêm giẻ thảy xười bông.
*
Ba xuân hồng nhạn tiếng qua sông,
Ấy đó người lìa đứt ruột trông,
Chửa đứt dây đờn lòng đã đứt,
Đã xong mối thảm, khúc chưa xong.
*
Chàng nay nhớ thiếp nặng bằng non,
Thiếp cũng nhớ chàng mỗi phút luôn,
Một bổn dệt đem dâng cúng chúa,
Cầu tha chồng thiếp sớm về cùng.
Trương Minh Ký

2. Việc thúc đẩy sử dụng
chữ quốc ngữ của người Pháp.
|
Từ năm 1867, quyển Chuyện đời xưa
của Trương Vĩnh Ký ra đời và trước
đó năm 1865 tờ Gia Định báo được
in bằng chữ quốc ngữ, nhà cầm quyền Pháp
tại miền Nam đã thấy phương tiện
truyền thông bằng chữ quốc ngữ cho người
Việt Nam có khả năng thích hợp hơn chữ
Pháp, chữ Hán hay chữ Nôm, vì nó dễ học, người
Việt nhờ chữ quốc ngữ mà thông hiểu
trực tiếp ngôn ngữ của mình. Về điểm
nầy chúng ta có thể đọc một đoạn văn
trong Gia Định báo:
"" Thầy Ký ( Trương Vĩnh Ký )
dạy học, có làm sách mẹo dạy tiếng Lang-sa,
có làm ra chữ quốc-ngữ để người ta
dễ học, những người ký-lục giỏi cùng
siêng-năng sẽ lo mà học chữ quốc-ngữ vì
có hai mươi bốn chữ mà viết đặng muôn
ngàn chuyện, chữ chi mắc rẽ cũng viết
đặng, không phải như chữ ta (8), học già
đời mà còn có những chữ lạ viết không
ra, ở đây có Phủ Tường (9) đã học
dặng chữ quốc-ngữ, viết đặng,
đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu,
ra công học một đôi tháng thì thuộc hết
"" (Gia-định báo, ngày 15-4-1867) (10)
Hơn 10 năm sau, nhà cầm quyền Pháp quyết
định dùng chữ quốc ngữ để làm văn
tự chánh thức cho miền Nam. Sự việc nầy
không phải chánh phủ Pháp muốn khai phá cho dân
Việt, mà đây cũng chỉ là một trong
những mưu đồ thôn tính Việt Nam. Chẳng
hạn như :
Ngày 1-2-1862: Lập khám đường ở Côn Nôn
- 2-4-1863: Đặc nhượng cho hảng tàu Nhà
rồng (Messageries Maritimes) một sở đất
với tánh cách vĩnh viễn.
- 29-6-1864: Chỉ thị tổng quát về nền hành
chánh và cai trị nhân dân bản xứ.
- 24-9-1864: Nghị định ban hành Đạo
chỉ dụ ngày 24-7-1864 ấn định tổ
chức nền tư pháp trong các tỉnh của Pháp
ở Nam Kỳ.
- 21-12-1864: Ban hành ở thuộc địa những
điều luật của các bộ luật Pháp áp
dụng ở Nam Kỳ do chỉ dụ ngày 24-7-1864.
- 7-3-1865: Nghị định ban hành chỉ dụ trên
đây, đặt ra những tòa án tại Sàigòn.
- 13-9-1873: Nghị định qui định việc bán
thuốc phiện ở Nam Kỳ.
Tiếp theo cũng trong mưu đồ thiết lập
vững mạnh và lâu dài nền cai trị đất
Nam Kỳ, nhà cầm quyền Pháp đã ban hành Nghị
định số 82 ngày 6-4-1878, nội dung như sau:
Điều thứ 1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm
1882 tất cả văn kiện chính thức, nghị
định, quyết nghị, sự vụ lệnh, án
lệnh, chỉ thị và các văn kiện khác đều
sẽ viết, ký và công bố bằng chữ La-tinh.
Điều thứ 2. Cũng kể từ ngày
ấy, sẽ không được ban cho bất cứ
một bổ nhiệm nào, một thăng cấp nào
trong hàng nhơn viên phủ, huyện và tổng, cho
bất cứ là ai mà không đủ sức viết công
văn bằng Quốc ngữ.
Điều thứ 3. Cũng kể từ ngày
ấy và dĩ chí ngày 01-01-1886, hương thân nào cũng
được miễn thuế thân, hương hào nào
cũng chỉ đóng phân nữa thuế thân và
biện lại nào cũng được miễn sưu,
nếu họ đủ sức viết công văn
bằng Quốc ngữ.
Điều thứ 4. Kể từ ngày 01-01-1886, không
ai được lãnh các nhiệm vụ trên đây,
nếu không biết Quốc ngữ đàng hoàng.
Tuy nhiên, biện pháp nầy chỉ được
miễn cho những người nào trước thời
gian đó đã được chú ý vì họ sốt
sắn và lương thiện trong lúc thi hành các
nhiệm vụ ấy. Thống đốc Nam
Kỳ
Lafont (11)
Nghị định 82 nầy chỉ nhằm bó
buộc và khuyến khích những người làm
việc cho Pháp từ cấp huyện, tổng và làng xã,
là cấp thừa hành để giúp cho công cuộc cai
trị của họ được dễ dàng, thuế
vụ không bị thất thu.
Như vậy chúng ta thấy rõ Nghị định 82
đã thúc đẩy cho việc sử dụng chữ
quốc ngữ trở nên chánh thức tại Miền
Nam.
Thời kỳ chữ quốc ngữ phát
triển chính là thời kỳ nầy trong tiến trình
hình thành của nó. Cho đến nay, chúng ta biết Gia
Định báo là một sản phẩm đầu tiên
sử dụng chữ quốc ngữ, nhằm phổ
biến nghị định, tin tức... thuộc về
nhà cầm quyền chủ trương, còn quyển
Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký
có chủ đích phổ biến chữ quốc ngữ
cho người Việt, rồi sau đó, trên Gia Định
báo ngoài Trương Vĩnh Ký làm Chánh Tổng Tài còn
có sự cộng tác của Huình Tịnh Của, Trương
Minh Ký đã dùng nó làm phương tiện phổ
biến chữ quốc ngữ đến đại chúng.
Trương Vĩnh Ký là nhà thông thái, quảng bác
ngữ học nhưng ông hành văn rất giản
dị, bình dân, viết cũng y như câu nói. Đến
Huình Tịnh Của và Trương Minh Ký lời văn
cũng bình dị nhưng câu văn lại nhẹ nhàng
hơn. Tuy Trương Minh Ký ít người biết
đến, nhưng ông là người cộng tác
gắn bó với Trương Vĩnh Ký trên Gia Định
báo và Thông Loại Khóa Trình, còn Huình Tịnh Của
được nhiều người biết đến
nhờ quyển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị
của ông.
Các nhà văn tiền phong kể trên rất có công
trong việc truyền bá chữ quốc ngữ vào
thời kỳ phôi thai, nhờ đó đến đầu
thế kỷ thứ hai mươi, văn học
quốc ngữ miền Nam cũng tiên phong trong các
bộ môn văn học.
Tôn vinh những nhà văn quốc ngữ tiên phong
miền Nam như Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh
Của, Trương Minh Ký bởi sự nghiệp văn
học của họ và nhiệt tâm truyền bá chữ
quốc ngữ vào thời buổi sơ khai, đáng cho
chúng ta ngưỡng vọng. Và nhờ họ mà Văn
học Việt Nam sau nầy phát triển nhanh chóng
khắp mọi miền đất nước.
*
(1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang
30-32
(2) Chúng tôi dùng chữ trong ngoặc thay cho chữ Hán.
(3) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa
chánh tả, xống: sống
(4) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite.
(5) Không ghi năm tháng.
(6) Chép nguyên văn.
(7) Có lẽ thợ nhà in đã bỏ sót mất
một đoạn: Từ Thức gặp lại Giáng Hương
ở cõi tiên, được tác hợp thành vợ
chồng.
(8) Chữ Nôm
(9) Tôn Thọ Tường
(10) NGUYỄN BÁ THẾ, Tôn Thọ Tường, Tân
Việt. Sàigòn 1957 trang 29
(11) Bản dịch của nhà văn Thuần Phong Ngô Văn
Phát.
|