|
I- TỪ HỌ HỒNG BÀNG
ÐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU
HỌ HỒNG BÀNG
Việt Nam tổ chức thành xã hội từ
khoảng gần 3000 năm trước Tây Lịch
(Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18
đời kéo dài 2621 năm (2879-258 TCN). Ðây chỉ là
một truyền thuyết và chúng ta có thể
tạm chấp nhận được, để
giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà
chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh
đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh
Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc
Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây
giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại,
ở địa phương còn có quan võ gọi là
Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu,
đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về
vật chất còn thô sơ, có những tục
vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo
chế độ mẫu hệ... tôn thờ các
sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần
sông, Thần gió...
Ðến đời Hùng Vương thứ 18, Thục
Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương
thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 TCN.
AN DƯƠNG VƯƠNG -
TRIỆU ÐÀ
Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước
Tây lịch hiệu là An Dương Vương,
đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây
dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy
giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất
thiên hạ, sai Ðồ Thư mang quân sang đánh Âu
Lạc. Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Ðồ Thư
bị giết, quân Tần phải rút lui . Ðây là
lần đầu tiên Âu Lạc chống lại quân
xâm lược từ phương Bắc của Trung
Hoa .
Ít lâu sau, Triệu Ðà từ quận Nam Hải
(Quảng Ðông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An Dương
Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự
tử. Từ đó Triệu Ðà sát nhập Âu
Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng
Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua
lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng
đô ở Phiên Ngung (Quảng Ðông)
NHÀ TIỀN HÁN XÂM LĂNG NAM VIỆT
Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại
Tiền Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao
thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương
là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương
đều bất tài nhu nhược. Ðời vua Ai Vương,
nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương
vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương
đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng
Lữ Gia can ngăn không được, phải
bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi
lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn
bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng
Lỗ Bác Ðức sang đánh, Lữ Gia yếu
thế bị bắt giết, mở đầu cho
một thời đại Bắc thuộc đen
tối của dân tộc.
II- THỜI ÐẠI BẮC
THUỘC
BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 TCN - 39 SCN)
Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền
đô hộ đầu tiên của phương
Bắc lên nước ta . Nam Việt bị đổi
thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao
Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận nhỏ,
mỗi quận có quan lại người Tàu cai
trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc
lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ
năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta
chịu trăm điều khổ sở vì các thái
thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn
ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi
tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình
Trung Hoa
CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI
BÀ TRƯNG
Năm 34 SCN, Tô Ðịnh làm Thái thú quận Giao
Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng
vô cùng oán hận. Tô Ðịnh giết Thi Sách là con
Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu
việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng
Trắc cùng với em Trưng Nhị nổi lên đánh
đuổi Tô Ðịnh báo thù cho chồng rửa
hận cho nước, Tô Ðịnh thua chạy về
Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ
của nhà Hán đối với Nam Việt lần
thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở
Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán
là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho
đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy
đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ
đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần
thứ hai .
BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI
Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã
Viện cho tổ chức việc cai trị chặt
chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc
tướng bị tước hết quyền hành, nước
ta coi như một phần đất của Trung Hoa
. Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách
đồng hóa dân ta: cách ăn mặc, nhà ở,
phong tục, học hành, lễ giáo ... đều
bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên
nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều
tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên
rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò
ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm
(43-544) trải qua các triều đại khác nhau
của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh chịu
những áp bức của người Tàu đô
hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài
đăng đẳng đó, cũng có cuộc
khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không
thành công trong việc đánh đuổi người
Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc
của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao
đến các cuộc khởi nghĩa sau này.
CUỘC KHỞI NGHĨA
CỦA LÝ BÔN CHẤM DỨT BẮC THUỘC LẦN
HAI - NHÀ TIỀN LÝ (544-602)
Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất
Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư
làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán
giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước
ở cạnh Giao Châu thường sang cướp phá
luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn
người huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên
đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm
Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm
vua hiệu Lý Nam Ðế, đặt tên nước là
Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần
thứ hai, đồng thời tạo được
một thời gian độc lập lâu dài của dân
tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô
hộ. Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước
ta, Lý Nam Ðế già yếu trao quyền lại cho
Triệu Quang Phục chống cự với quân Tàu,
cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy
về nước, Lý Nam Ðế đã mất,
Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu
Việt Vương. Ðến năm 571 Lý Phật
Tử là cháu Lý Nam Ðế cướp ngôi Triệu
Việt Vương, tự xưng là Hậu Lý Nam Ðế.
Ðể rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu
sang đánh Lý Phật Tử đầu hàng. Một
lần nữa nước ta lại bị lệ
thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt
của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài
trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần
chống người Tàu từ phương Bắc
của dân tộc ta về sau này .
BẮC THUỘC LẦN
THỨ BA (602 - 938)
Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng
đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Ðường
diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Ðường
và đổi tên thành An Nam Ðô Hộ Phủ. Chính sách
cai trị của nhà Ðường khắc nghiệt
nhất so với các triều đại khác của
Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam
Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian
khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người
tỉnh Hà Ðông nổi lên chống với quân Ðường,
chiếm giữ một phần đất ở Hoan
Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu
thế thua chạy rồi bị bệnh mất. Sau
cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Ðường
lại càng siết chặt việc cai trị hơn
trước nữa . Năm 791, Phùng Hưng người
tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Ðường
về Tàu, lo việc cai trị sửa sang lại nước
được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng
An lên thay nhưng thế lực đã suy yếu
phải hàng nhà Ðường khi xâm chiếm nước
ta lần nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa
.
THỜI KỲ CHUYỂN
TIẾP ÐỘC LẬP VỚI DƯƠNG DIÊN
NGHỆ - NGÔ QUYỀN ( 931-938 )
Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao
Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương
Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán,
Lý Tiến thua chạy về Tàu\. Dương Diên
Nghệ tự xưng làm Tiết Ðộ Sứ cai
trị Giao Châu . Năm 937, Dương Diên Nghệ
bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết
để chiếm đoạt quyền hành. Bấy
giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ
từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết
đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm
938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước
ta do sự cầu cứu của Kiều Công Tiện
- trước khi chết. Thắng trận Bạch Ðằng
Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời đại
Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường
tự chủ cho dân tộc lâu dài từ năm 938
trở về sau .
III-
THỜI ÐẠI ÐỘC LẬP
NHÀ NGÔ (938 - 965)
Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương
(939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Ðông Anh
(Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây
dựng một nền tự chủ vững bền
cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm
944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày
một suy yếu vì triều đình không có
được những bậc công thần gánh vác
việc nước. Ðến năm 965 đời vua
Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào
tạo lấy cho mình một thế lực riêng không
tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh
lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ
quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là
một sứ quân. Năm 968 Ðinh Bộ Lĩnh
dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Ðinh.
NHÀ ÐINH (968 - 980)
Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư
tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là
Ðinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Ðại
Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có
công chăm sóc, sửa sang lại đất nước
sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà
Ðinh cố lo tổ chức việc binh , có được
10 đạo quân hùng mạnh so với thời
bấy giờ. Về sau Ðinh Tiên Hoàng ham mê tửu
sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến
đời vua cuối cùng là Ðinh Tuệ mới sáu
tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái
Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập
đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để
đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Ðinh
mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.
NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)
Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Ðại Hành Hoàng
Ðế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm
Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta . Vua
Lê Ðại Hành chăm lo việc cai trị, tổ
chức quân đội, mở mang nông nghiệp,
đúc tiền, đào cảng, mở đường
giao thông...
Năm 1004 vua Lê Ðại Hành mất, các vị vua
về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác,
nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm
1009 về tay nhà Lý.
NHÀ LÝ (1010 -1225)
Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác
lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên
khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang
giữ chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ lên
ngôi . Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ,
dời đô ra thành Ðại La tức Hà Nội bây
giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ
về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện
hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo
... được tổ chức chu đáo . Nhất
là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn
(1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta
được tổ chức, văn học
được chú trọng, quân sự cũng hùng
mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Ðản mang quân
sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc
Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành
(1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành
phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng
quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt
đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:
Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả
binh quyền cho Trần Thủ Ðộ, nghe lời
Trần Thủ Ðộ truyền ngôi cho Công Chúa Lý
Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu .
Trần Thủ Ðộ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình
là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm
1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.
NHÀ TRẦN (1225 -1400)
Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là
Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều
do Trần Thủ Ðộ quyết định.
Trần Thủ Ðộ định lại việc
việc cai trị, tổ chức một triều
đình có nếp, ấn định thuế má,
mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng
được đặc biệt chú trọng để
tránh hiểm họa phương Bắc. Văn
học đã mở mang rộng rãi, Nho học,
Phật giáo, Lão giáo đều được
triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn
nổi tiếng như Mạc Ðĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê
Văn Hưu ... được nhắc nhở trong
thời đại này .
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa,
biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên và làm rung
chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang
bắt đầu đánh nước ta . Tuy nhiên,
chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị
đánh bại tan tành không còn manh giáp phải
chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất
bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt
Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước
bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50
vạn quân do Thoát Hoan, Toa Ðô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm
chiếm nước ta . Trước thế giặc
quá mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương
Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Ðồng
thời triệu tập các bô lão ở diện Diên
Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến - các
bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc
cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như
nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về
giữ những nơi hiểm yếu . Về sau
với những danh tướng tài giỏi như
Trần Hưng Ðạo, Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải,
Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh
giặc của toàn dân, nên Toa Ðô đã bỏ xác
với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã
Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50
vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không
đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai
nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân
tộc Việt khi đã mở rộng đế
quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Ðể phục thù, nhà Nguyên đình lại việc
đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta
. Thuyền chiến, lương thực, khí giới,
quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà
Trần biết được điều đó cũng
lo phòng bị đối phó với giặc. Năm
1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn
quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn
sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi
nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi
dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi
cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta
bắt được thuyền lương của
giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Ðồn làm
cho quân Mông Cổ run sợ - để rồi
một lần nữa sóng nước Bạch Ðằng
đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã
Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân
ta bắt được. Trên đường
chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn
bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho
một trận tơi bời, chạy trối
chết về Tàu .
Ðạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng
dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm
Nga-la-tư rộng lớn, đánh tan các đội
kỵ binh Âu Châu, làm run chuyển một phần
lớn vùng này, với ba lần thất bại,
đã phải cúi đầu trước sức kháng
cự của dân tộc Việt mà từ bỏ
mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà
Nguyên bị diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược,
triều chính không người coi sóc, binh bị sao lãng
để ba lần quân Chiêm Thành đánh phá đến
tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế
Bồng Nga lại kéo quân sang đánh, bị Trần
Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm
mới yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp
lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm mưu
diệt trừ các thế lực của nhà Trần
dần dần, cho đến năm 1400 thì soán đoạt
ngôi của Thiếu Ðế. Nhà Trần mất
nghiệp sau 175 năm trị vì.
NHÀ HỒ (1400-1407)
Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là
Hồ Quý Ly, đặt tên nước Ðại Ngu,
đóng đô ở Tây Ðô (Thanh Hóa) Nhìn chung, nhà
Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm
được rất nhiều như: giảm
thuế đinh, thuế điền, đặt ra
thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và
những người không có ruộng đất
được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng
kiến in giấy bạc để thay cho tiền
đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm giàu
cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng
thay đổi rất nhiều: đặt ra thêm môn
thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng
dạy khắp trong nước và soạn thảo công
văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời
nhà Trần suy yếu đi nhiều vì thiếu
những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ
lại đặt ty y-tế để lo việc
thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng
chú ý rất nhiều đến việc tổ
chức binh bị để tránh hiểm họa phương
Bắc. Năm 1042 nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành,
di dân vào khai phá Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay,
mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về sau khi quân Minh sang đánh với chiêu
bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều cựu
thần còn tưởng nhớ tới thời vàng
son của nhà Trần nên theo giặc rất đông,
đồng thời quan niệm về chiến
thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm 1407,
Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt
giải về Tàu, giữa đường tự
tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.
NHÀ HẬU TRẦN (1409 - 1413)
Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu
chiếm luôn nước ta . Trước dã tâm đó
của quân Minh, con cháu của nhà Trần và
nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không
muốn làm nô lệ, bất hợp tác với chúng.
Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống
đối của con cháu nhà Trần được
sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người
tài giỏi .
Năm 1407, Trần Quỹ con thứ của vua
Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Ðịnh Ðế
chiêu mộ quân chống giặc Minh. Ðầu năm
1409 thì Giản Ðịnh Ðế vào Thanh Hóa để
phụ với Trần Quý Khoách là cháu Trần
Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Ðược
nhiều người tài giỏi giúp sức nhà
Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi cho
đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước
ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên Tàu.
NƯỚC TA THUỘC NHÀ MINH
(1414 - 1427)
Ðến năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước
ta, một chính sách rất chặt chẽ và khắc
nghiệt về mọi phương diện. Về hành
chánh phân chia nước ta ra làm nhiều cấp
để cai trị, nhiều thứ thuế mới
được đặt ra, bắt dân lên rừng săn
ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng.
Ðồng hóa dân ta với Tàu bằng mọi cách,
chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh
của Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá
của ta từ đời Trần trở về trước
thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân
ta phải thờ cúng Thần thánh của Trung hoa theo
các phong tục Trung Hoa .
MƯỜI NĂM KHÁNG CHIẾN
CHỐNG QUÂN MINH (1418 - 1427):
LÊ LỢI
Lê Lợi là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh
Hóa), trước sự tàn ác dã man của quân Minh,
năm 1418 Lê Lợi được nhiều người
tài giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa
đánh đuổi giặc Minh. Trong giai đoạn
đầu Lê Lợi phải vất vả rất
nhiều, có lần phải xin tạm hòa với
giặc, phải để cho gia đình bị
giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng
thân cận là Lê Lai liều mình cứu khỏi vòng
vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng
giặc nhiều trận, vây tướng Minh là Vương
Thông ở Ðông Ðô (Hà Nội), chém Liễu Thăng
ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải
cứu Vương Thông.
Cuối cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu
hàng để kết thúc 10 năm gian khổ giành
độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.
NHÀ HẬU LÊ (1428-1527)
Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê
Thái Tổ, đặt tên nước là Ðại
Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất
nước ra làm 5 đạo, đặt quan cai
trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng
quốc đứng đầu các quan, có Thượng
Thư đứng đầu các bộ Lại,
Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Nông nghiệp được
khuyến khích, đắp đê để tránh
lụt, mở thêm đồn điền, khai
khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ
ràng, và định lại phép cân đo . Bộ
Luật Hồng Ðức ban bố vào triều vua Lê
Thánh Tôn rất hoàn bị được xem như
khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn
học cũng được chú trọng đặc
biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình
đặt ra lệ xướng danh, khắc tên vào
bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người
thi đỗ tiến sĩ để khuyến khích
việc học. Rất nhiều văn tài đã
xuất hiện cũng như những tác phẩm văn
chương giá trị được viết trong
triều đại này . Tuy nhiên, Phật giáo và Lão
giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường
bước cho Nho giáo đang phát triển vượt
bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý
rất kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần
mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Trong các năm
1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá
đến tận kinh đô Chiêm là thành Ðồ Bàn,
bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về
Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm
rồi cho quân ở lại giữ, sau đó
đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền
lập ra đất Quảng bây giờ. Từ đó,
Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường
tiến cho các Chúa Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh dẹp quân
Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây
Nghệ An khi hai xứ này liên kết nổi lên
chống lại Ðại Việt. Tuy nhiên, bắt
đầu từ năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy
dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê
Chiêu Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị
vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn bạo
... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá,
triều đình không dẹp được.
Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh
lẫn nhau cho đến năm 1527 thì bị Mạc
Ðặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau
100 năm trị vì.
NHÀ MẠC (1527-1592)
Mạc Ðặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lên
làm vua hiệu là Minh Ðức, vẫn giữ nguyên
nề nếp cũ của nhà Lê chứ không sửa
đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không
thu phục được lòng dân còn tưởng
nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người
nổi lên chống phá.
Trong đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng
Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532,
lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn
rồi bắt đầu công cuộc trùng hưng nhà
Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu
hiểm họa xâm lăng của phương
Bắc. Năm 1540 Mạc Ðăng Dung phải đầu
hàng, dâng đất cho nhà Minh để được
bãi binh & phong chức Ðô Thống Sứ.
Sau cùng, Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt
giết được Mạc Mậu Hợp năm
1592, nhà Mạc coi như mất ngôi\. Con cháu chạy
lên Cao bằng nương nhờ thế lực nhà
Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào
năm 1667.
NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1532-1778)
Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt đầu vào
năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy
giờ nhà Lê đã suy yếu lắm rồi, chỉ
còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất
Bắc năm 1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm
1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng mang quân
đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để
rồi mất hẳn nghiệp vào năm 1778 ở
đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh
bị đánh tan do sự cầu cứu của Lê
Chiêu Thống.
IV
- THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH (1572-1802)
TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH:
Ngay sau khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn nhỏ, binh
quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh
Kiểm thì mầm móng chia rẻ Trịnh-Nguyễn
đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh
quyền, Trịnh Kiểm dùng mưu giết
Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói
với chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm
cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy
nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh
Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để
kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi
cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một
chuyến đi dẹp loạn trốn được
vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh
Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh
Tùng lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình
phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến,
mở mang thương mại . Mở trường võ
bị, đặt lệ thi võ, sai người
viết sử lại, khắc bảng gỗ in sách
vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh
dẹp các cuộc nổi loạn... thực quyền
nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp
nhau chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng
tổ chức việc hành chánh, đặt thuế
xuất nhập cảng, mở cảng Hội An,
đặt lệ thi để chọn nhân tài,
mở trường đúc súng đại bác,
tập bắn... Nhưng công nghiệp quan trọng
nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ
cõi về phương Nam. Lúc vào trấn Thuận Hoá,
lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Ðịnh
ngày nay, sau các Chúa Nguyễn lần lượt
chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu
nhận đất Thủy Chân Lạp từ tay người
Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam
phần ngày nay .
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân
đánh lẫn nhau, chiến trường thường
là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7
trận đánh không phân thắng bại cuối cùng
năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước,
lấy sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa
bình kéo dài được 100 năm, cho đến lúc
anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui
Nhơn thì chấm dứt.
Cũng trong thời gian phân tranh này, người Âu
Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt Nam
ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong
việc buôn bán và truyền đạo Thiên Chúa.
Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi
bời xa xỉ không lo việc nước, triều
thần lộng quyền, lòng dân không còn phục
nữa giặc cướp nổi lên đánh phá
khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây
Sơn dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn
cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy thoát và
dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Ðồng thời vua Lê Chiêu Thống nhu nhược
không tổ chức được triều chính khi
anh em Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh xong
rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn
Huệ ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống
chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ Lê
mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định
được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh
lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước ta,
Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho
đến năm 1802 Gia Long mới thống nhất
được đất nước.
NHÀ TÂY SƠN (1778-1802)
Anh em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh
Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa,
quy tụ được rất nhiều người
bất mãn với chế độ nổi lên
chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương
phúc Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng
khổ sở.
Ðầu tiên anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn,
rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn Phú Xuân
(Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là
Nguyễn phúc Ánh chạy vào Gia Ðịnh. Nhưng sau
đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa
Nguyễn từ Nam đánh ra, Tây Sơn ở
giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để
quay vào đánh Chúa Nguyễn. Từ đó Nguyễn
Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy
đất Gia Ðịnh, Chúa Nguyễn bị bắt
giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm
1777, chấm dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng
đế, đặt niên hiệu là Thái Ðức,
lấy thành Ðồ Bàn làm kinh đô, phong tặng cho
Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nhân khi miền
Bắc có loạn năm 1782, vua Tây Sơn sai
Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận
Hóa, sau đó Nguyễn Huệ ra Bắc truyền
hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết
được Trịnh Khải năm 1786, họ
Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn Huệ
được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và
gả con gái là Công chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua
Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị
bất tài nhu nhược các tướng chuyên
quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc
lần thứ 2 bắt giết các tướng có ý
phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm người
trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực
đã suy tàn cơ nghiệp nhà Hậu Lê từ năm
này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu
Thống cầu cứu nhà Thanh nhưng cũng không
thành công.
Cũng trong thời gian đó thì anh em Tây Sơn
bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu
Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang
20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn
Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên
hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc.
Với những trận đánh ở Hà Hồi,
Ngọc Hồi, Ðống Ða .... Hứa Thế Thành, Tôn
Sĩ , Sầm Nghi Ðống... bỏ xác tại
trận và 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong vòng
5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu
bỏ cả ấn tín Lê Chiêu Thống vội vã
chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng
rồi chết ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách
được nhiều việc, chuẩn bị binh lính
để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được
mấy năm rồi mất sớm, truyền ngôi
lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế
lực Tây Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam ,
Nguyễn-phúc-Ánh được nhiều ngươ
;øi tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi
mạnh lên, để đến năm 1802 thì
dứt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước
sau gần 200 năm phân chia nội chiến.
V-NHÀ NGUYỄN (1802-1945)
Lên ngôi năm 1802, Nguyễn phúc Ánh lấy hiệu là
Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước
Việt Nam, tổ chức triều chính, mở trường
học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi
để chọn người làm quan, Nho học
được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm
lo tổ chức quân đội, đánh dẹp các
cuộc nội loạn nhất là dưới
thời Minh Mạng, Tự Ðức. Về luật pháp
cũng được sửa đổi ít nhiều
qua bộ luật Gia Long, triều đình còn
khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh
dẫn nước vào ruộng và tiện việc
giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người tinh thông
Nho học và được du học ở các
quốc gia Tây phương. Khi về nước
đã dâng lên vua Tự Ðức những bản điều
trần xin cải cách canh tân xứ sở. Nhưng
triều đình Huế bấy giờ chỉ là
những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng
Ðông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám
bỏ cũ theo mới . Nên trước kia trong các năm
1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến
xin thông thương, buôn bán đều bị từ
chối; cho nên những bản điều trần
của Nguyễn Trường Tộ cũng chịu
chung số phận, các quan lại già nua tham quyền
cố vị lo sợ những người mới
tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình
cũng rối ren do đó dần dần những
đề nghị của Nguyễn Trường
Tộ bị bỏ dở không thực hiện gì
cả.
VI
- CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO
VIỆT NAM (1858-1884)
Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt
đầu dòm ngó đến Việt Nam trong việc
mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp
bắt đầu xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm
sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa
triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại
diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp ba
tỉnh miền Ðông Nam phần Gia-định, Ðịnh-tường,
Biên-hòa mở đầu cho những hòa ước
sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào
tay Pháp. Năm 1863, Phan Thanh Giản cầm đầu
phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất,
nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan
Thanh Giản được cử làm Kinh-lược-sứ
ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và
Hà tiên để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống
thuốc độc chết, ba tỉnh thất
thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp.
Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất
Bắc, Nguyễn Tri Phương được
cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh
Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri Phương
cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành
mất.
Trước thất bại này, triều đình
phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp
Tuất (1874), nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam
Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho
Việt Nam. Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất
Bắc, Hoàng Diệu được cử là
Tổng Ðốc Hà nội để lo đối phó
với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân đánh Hà-nội
lần thứ hai, vì có người phản bội
đốt kho thuốc súng nên thành Hà-nội
thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết,
đất Bắc lọt vào tay Pháp lần nữa .
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua
Tự Ðức băng hà, triều đình Huế
bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và
Tôn Thất Thuyết trong vòng mấy tháng phế
lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm
Nghi Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất
Thuyết và các văn thân tổ chức đánh úp
Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng
không thắng được. Kinh đô Huế
thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn
Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra
Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu
gọi các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu
nước.
Triều đình Huế còn lại phải ký với
chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp
nhập sự đô hộ của Pháp ở Bắc
Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc
địa. Nhà Nguyễn mất thực quyền
bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi
vào vòng đô hộ của thực dân Pháp kể
từ đó.
|