Những bài
cùng tác giả
Câu chuyện
một con tem.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng
ra là vào khoảng những năm 1943-1946 gì đó, tôi đang chỉ là một chú bé
nhà quê. Thế giới chung quanh tôi chỉ có mẹ và mấy chị. Nhưng không nhớ
bằng cách nào, tôi được nhìn thấy hình Hoàng Hậu Nam Phương trên mấy con
tem . Chỉ bằng mấy con tem đủ ấp ủ hình ảnh người phụ nữ hiền lành, phúc
hậu đến cả đời. Hình ảnh con tem đó cứ như thế giữ mãi trong lòng, trong
ký ức chả quên được. Con tem nhỏ xíu hình một người phụ nữ, chít khăn
vàng, áo dài. Quá nhỏ để nhận ra chân dung người đó, cũng quá nhỏ để
biết được con người. Vậy mà hình ảnh đó có sức thu hút, đeo đuổi mãi cho
đến bây giờ. Ký vãng sự việc thì có thể quên. Nhưng dấu ấn tình cảm,
niềm kính trọng người phụ nữ đó thì không. Hình ảnh qua con tem nhỏ bé
toả ra sự uy nghiêm, trang trọng, quý phái, nhưng dung dị hiền từ. Dôi
mắt có vẻ buồn, Sống mũi cao. Đẹp không chê vào đâu được. Vẻ đẹp kín đáo,
nhưng có sức thu hút khó quên được. Hỏi nhiều người cỡ tuổi tôi cũng đều
nhận như thế. Nhưng nó lại không có cái nét kiêu kỳ hãnh tiến như những
người sang trọng giầu có. Nhất là con mắt có cái nhìn thẳng thắn, đầy độ
lượng. Nhiều người sau này nhìn ảnh Hoàng Hậu sau cũng phải nhận một
điều: Hoàng Hậu có nét uy nghi, đoan trang và phúc hậu. Chỉ tội buồn.
Sao Hoàng
Hậu lại buồn thế..
Xin
dẫn một chứng từ của một cô nữ sinh thời 1937-1941 nhắc lại kỷ niệm gặp
gỡ Hoàng Hậu Nam Phương, viết trong tập san Đồng Khánh : Hànội, mái
trường thân yêu. Dược sĩ Nguyễn thị Huyền, vửa mất năm ngoái đã viết
lại cảm tuởng của mình như sau :* Ngày Bà Nam Phương đến thăm lớp, cô
Thục Viên, giáo sư Pháp Văn vẫn đứng trên bục giảng chìa tay đứng bắt
tay Hoàng Hậu và từ tốn trả lời các câu hỏi của Hoàng Hậu, không hề mất
chủ động. Trong khi đó Nguyễn tiến Lãng, người đi cùng Hoàng Hậu muốn
tâu gửi gì với Hoàng Hậu đều quỳ xuống đất. Cô xin phép tiếp tục giảng.
Hoàng Hậu dự giảng và sau đó cho gọi học sinh giỏi Văn lớp là chị Nguyễn
thị Thứ lên thưởng cho một bức ảnh do Hoàng Hậu ký tên. Thái độ đường
hoàng của cô đã gây cho chúng tôi một niềm tự hào chính đáng, trong lúc
ấy chúng tôi cũng thích vẻ đẹp dịu dàng Dông Phương và thái độ bình tĩnh
không có vẻ gì hách dịch của Nam Phương Hoàng Hậu*. Một trong những
học trò có mặt bữa hôm ấy là cô Ngô thị Ngà, nguyên giáo sư Trưng Vương
đã cho biết cảm tưởng : Mê cái vẻ đẹp dịu dàng của Hoàng Hậu và vì thế
sau này cô đặt tên cho một cô con gái là Thu Phương, tức Hương mùa thu
nhắc nhớ đến tên Hoàng Hậu Nam Phương, hương miền Nam.
Hôm nay ngồi viết lại một chút
cuộc đời Bà mà hình như Bà đang ngồi trước bàn máy. Sự biết về Bà quá
ít, mầy mò sách vở đủ loại, lục lọi chỗ này chỗ kia cũng chỉ là những
mảnh vụn rời rạc, cũng không thấy bóng dáng Bà đâu cả. Cũng chả thu thập
được nhiều nhọm gì. Người đời coi ra vô tình với Bà đã đành, sách vở sử
học cũng vậy.
Ngay trong hồi ký của vua Bảo
Đại, "Le Dragon d'Annnam", (1)
tôi đã lật đi lật lại nhiều lần, chỉ thấy loáng thoáng từ trang 62 đến
68 nói về cuộc hôn nhân của nhà vua hơn là nói về Hoàng Hậu. Tôi đành
lòng với một ít tài liệu trong báo Indochine vào những năm 1942-43-44
với vài bài của Nguyễn Tiến Lãng và một vài người bạn Pháp của gia đình.
Bài viết về Bà của Cù huy Cận không có trong tay. Cuốn sách quan trọng
của Phạm khắc Hoè : từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc và Kể
chuyện vua quan nhà Nguyễn chỉ được đọc những đọan trích dẫn mà nội dung
quả thực khiếm nhã và tuyên truyền nhiều hơn là sự thực. Một số bài báo
trên các báo chí Hải ngoại thường viết thiếu dữ kiện khả tín, viết cho
có mà thôi.
Vì thế, cũng chả thu tập được
bao nhiêu. Thật là bất công với Bà quá và cũng vô tình quá. Chỉ xin lấy
tấm lòng đáp lại được phần nào hay phần ấy.
1
Thời con gái
Cô
Nguyễn Hữu thị Lan Marie Thérèse là con một nhà điền chủ, đất Gò Công.
Bố được Tây cho đi học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và cà phê ở cao
nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường ít chữ nên chỉ loay hoay với
ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu
Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến khai thác đồn điền. Vào
thời kỳ đó, khoảng những năm 1920-30, báo Nam Kỳ địa phận ra hàng tuần
đã khuyến khích người Annam khai thác đồn điền, mở mang kinh doanh, kỹ
nghệ để cạnh tranh với người Tây và cả với người Tầu như trong lời mở
đầu của tờ báo: "Tờ báo có ý khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn
phát cho bề đạo việc đời đều thông thuộc. Vì thế trong nhựt báo sẽ biện
luận về những điều đạo lý, phong hóa, bá nghệ, bác học và văn tin... nên
sự gì tốt và hữu ích thì đem đặng vô hết'". (trích lại trong
bài Chữ Quốc Ngữ, giai đoạn sơ khởi của chính tác giả).
Nhà chỉ có hai chị em, chị là
Agnès Nguyễn Hữu Hào đã hẳn có nếp sống văn minh thành thị của lớp dân
giầu có. Cuộc sống hai chị em cứ khách quan mà nói là sung sướng, đầy
đủ, được cưng chiều. Họ đã sống tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng. Và có
lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm
Hoàng Hậu. Theo những bức hình chụp trong tờ Indochine thì cả hai chị em
đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam bình thường. Tôi mê bức
ảnh Hoàng Hậu chải tóc rẽ, vấn khăn và nhìn nghiêng bên trái, không nhìn
thẳng. Những bức ảnh mặc đầm, hay những bức ảnh mặc triều phục, hoặc
ngay cả ngày cưới coi cũng được được vậy thôi. Theo cách nhìn của tôi,
có nhẽ cô Agnès không lấy gì làm xinh xắn lắm, gương mặt xương xương,
thiếu đầy đặn. Nhất là thiếu cái nét đoan trang, dịu hiền như cô Lan.
Tôi cứ nghĩ, phải cám ơn ông cái ông Tây nào đó đã chụp những bức hình
mà Nam Phương Hoàng Hậu đẹp như thế, lột được cả cái hồn, cái phần sâu
thẳm của đời sống bên trong. Phần cô Agnès, có vẻ Tây hơn. Cô đã lấy
chồng sớm, học hành chẳng hiểu đến lớp nào. Ông chồng là bá tước
Didelot, làm công chức cho Tây. Cả quãng đời tuổi thanh xuân này, gần
như không có một ai có thể hé lộ cho biết đời sống hai tiểu thư ra sao.
Nhưng dựa vào một vài sự kiện
mà suy đoán thôi. Chẳng hạn, trong một bài viết của ông Nguyễn Tiến
Lãng, con rể cụ Phạm Quỳnh sau này đăng trên tờ Indochine có kể rằng,
trước ngày đám cưới thì hai chị em đến ở một căn nhà của gia đình ở
đường Nguyễn Du bây giờ, tức quá không nhớ số, trước ngày ra Huế. Điều
đó cho thấy, các cô ở Sài Gòn để đi học chứ không ở Gò Công. Thời đó,
Sài Gòn chỉ rộng như cái bàn tay. (2)
Nhỏ lắm. Bé lắm. Qua khỏi bến Nhà Rồng, sang Khánh Hội là lau sậy. Qua
khỏi Nancy, chợ Quán là đồng không mông quạnh. Chưa tới cầu Trương Minh
Giảng đã là bãi sình rồi. Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi
nhà thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng
nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ này theo thói quen lấy tên
ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Dạt vì chắc là ông đã công hiến nhiều để xây
dựng nhà thờ. Ông Huyện Sĩ lại là bác ruột các tiểu thư.
Nếp nhà như vậy, vừa giầu có,
vừa có ăn học, vừa theo nếp sống Tây phương với tư tưởng tự do phóng
khoáng đã hẳn khác với các "công tử Bạc Liêu" về lối sống, lối nghĩ, lối
giải trí. Lớn lên, cô chị đã yên một bề chồng con, phần Hoàng Hậu tương
lai được cha mẹ gửi sang Pháp học trường Couvent des Oiseaux.
Có dư luận lẫn lộn Couvent des
Oiseaux bên Pháp với bên này, nhân tiện xin làm sáng tỏ thêm vấn đề
này. (3)
Nói thêm chút nữa để chứng tỏ mình có chút uyên bác. Hồi Bà học
Couvent bên Pháp nhà trường hẳn nằm ở phố Ponthieu và Verneuil.
Có sách ghi cô đỗ tú tài Tây
rồi mới về, điều này cũng không khẳng định rõ được. Bảo Đại chỉ ghi:
"Elle vient de terminer ses études au Couvent des Oiseaux, en France".
Tất cả thời gian này, không một ai biết cuộc sống người thiếu nữ Tây
học, duyên dáng, hiền thục ra sao. Chỉ biết, cô đã về nước năm 18 tuổi.
2.
CUỘC HÔN NHÂN CỦA CÔ NGUYỄN HỮU THỊ LAN
Cuộc gặp gỡ
lần đầu.
Có một câu hỏi được đặt ra là
cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã quen và gặp Bảo Đại trong trường hợp nào và ở
đâu. Có một số tác giả cho rằng họ quen nhau trên cùng một chuyến tầu
thủy của hãng Messagerie Maritime về nước như một cuộc tình duyên kỳ
ngộ, lãng mạn. Một hoàng tử gặp giai nhân trên một chuyến tầu, yêu nhau
rồi quyết định chuyện hôn nhân. Trên tờ Indochine, có một vài bài viết
của ông Nguyễn Tiến Lãng, một người thân cận của Hoàng Hậu, nhưng tôi
cũng không thấy đoạn nào nói rõ về vấn đề này. Cho dù có đi cùng chuyến
tầu không chắc gì đã có thể gặp nhau. Nếu có chuyện đó thì vua Bảo Đại
hà cớ gì lại không nhắc đến trong hồi ký trích dẫn sau đây. Cái tật của
người Việt Nam là hễ có một người viết trật là kéo theo cả lô người khác
xuống hố theo. Dù sao, tôi cũng chẳng dám cả quyết gì về điều này.
Nhưng
một điều không cần bàn cãi nữa là căn cứ vào tập hồi ký "Le Dragon
d'Annam" của vua Bảo Đại là đúng nhất. Vua Bảo Đại cho biết ông đã gặp
Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tầu, ông đã gặp vào
cuối năm 1932. Xin trích dẫn ý của vua sau đây: "C'est alors qu'à la fin
de l'année, m'étant rendu pour quelques jours à Đà Lạt où
séjournait également le gouverneur général Pasquier, celui-ci, à
l'occasion d'une rencontre dans les salons du Langbian Palace, me
présente une jeune fille qui était en compagnie de Mme Charles,
Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Hào, appartient à une famille de riches
propriétaires terrien de Cochinchine. Catholique, comme ses parents
elle vient de terminer ses études au Couvent des Oiseaux, en France.
Elle a dix huit ans. (Sách đã dẫn trang 63) Đọc đọan văn trên, thấy
có gì là lạ. Chẳng hiểu tại sao cả đám người tai to mặt lớn lại không
hẹn mà gặp nhau ở Đà Lạt. Có bà Charles, người đỡ đầu cho Bảo Đại đi
cùng với cô Lan, bà lại là bạn của gia đình Nguyễn Hữu Hào. Có bài viết
nói ông Lê Phát Đạt dẫn cháu gái đến ra mắt Bảo Đại. Cô cháu gái lại ỉ
ôi năn nỉ chán mới chịu đi, ăn mặc sơ sài thôi. Tôi thiết nghĩ, ông Đạt
không đủ tư cách để đường đột dẫn cháu gái ra mắt Hoàng Thượng, nếu
không có một sắp xếp trước. Cùng lắm ông chỉ là người thừa hành thôi.
Đích thị là có sắp xếp trước, có toan tính trước giữa bộ ba toàn quyền
Pasquier, ông bà Hào và chủ chốt là bà Charles. Cho dù trước đó có gặp
nhau trên tầu trên bè gì cũng không quan trọng. Sau buổi gặp gỡ ở Đà
Lạt, kể như định mệnh đã được an bài rồi. Sự sắp xếp này cũng rất bình
thuờng và tự nhiên ở cương vị của Bảo Đại. Vấn đề chính là họ đã yêu
nhau và quyết định đi đến hôn nhân: "Après quelques entretiens, un
tendre sentiment nait entre nous. Nous nous promettons de nous revoir".
Những trở
ngại của cuộc hôn nhân.
Theo vua Bảo Đại, từ ngày hồi
hương, rất nhiều những tin đồn chung quanh việc chọn một người vợ cho
Ông. Bà Từ Cung đã đành, các vị quan lớn trong triều, mỗi người đều có
người của mình để đề cử. Vua đã hẳn biết được điều đó và Ông đã nhiều
lần cho biết ông quyết định không chấp nhận chế độ đa thê vẫn thường
thấy ở Việt Nam, về những tệ trạng tranh dành ngôi thứ giữa anh em hoặc
anh em cùng cha khác mẹ đến chỗ đâm chém nhau. Vua Minh Mạng có đến 170
người con và để tránh cảnh tranh giành ngôi thứ, vua Minh Mạng đã đặt ra
tên gọi theo thứ tự đến 20 đời kế tiếp nhau để những dòng họ theo đó
theo thứ tự mà kế vị. Hai mươi đời đó được khắc vào tờ giấy bằng vàng và
tên gọi một người như thế được coi n giấy Hộ tịch của mình.. Hai mươi
chữ đó nằm trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà câu dầu gồm những chữ :
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thể Thoại Quốc Gia Xương
Nhưng mới tới chữ thứ năm
trong bài thơ thì triều đình nhà Nguyễn đã không còn nữa, mặc dầu tên
của vua Bảo Đại được lót bằng chữ Vĩnh có nghĩa là muôn đời. Những ý
nghĩa đó còn được tìm thấy trong những chữ tỉnh Thừa Thiên, Vạn Thọ,
Long Sàng, chỗ ở của Bửu Long được gọi là Tứ Phương Vô Sự.
Đã hẳn, hai ông bà Charles, bố
mẹ đỡ đầu của vua không thể không bận rộn trong việc kiếm tìm một người
vợ cho vua. Cái khó là ở chỗ đó. Quá nhiều người, quá nhiều đề cử, nếu
không nói là những âm mưu gây ảnh hưởng nên dễ gây bất đồng ghen tỵ, nói
ra nói vô.
Nhưng trở ngại lớn nhất là cô
Nguyễn Hữu Thị Lan là người theo đạo Ky tô giáo. Theo vua Bảo Đại, khi
trở về Huế, ông đã bầy tỏ ý định lấy vợ người theo đạo Kitô giáo và là
người đã được đào tạo ở Tây phương. Nghe tin đó, hẳn nhiên là Bà Từ Cung
không đồng ý vì bà mong muốn một cô dâu theo truyền thống Á Đông. Quan
lại cũng ngấm ngầm chống đối. Tứ phía chống đối dựa trên quyền lợi cá
nhân cũng có, phe phái, miền cũng có, nại cớ nguyên tắc truyền thống
cũng có. Cô dâu "Mới Quá". Chữ "Mới" có vang vọng muốn đồng nghĩa với
thiếu văn hoá đạo đức cổ truyền. Người ta e ngại cũng phải. Cứ nói tiếng
Tây líu la líu lo cũng đủ ngại rồi. Sự nghi kỵ, thành kiến tranh chấp,
hiểu lầm còn đầy dẫy trong dân gian, nhất là trong đầu mỗi người. Đặt
mình vào địa vị vua và hoàng hậu tương lai mới hiểu được sự cam go không
thể vượt qua được của cuộc hôn nhân này. Rồi vấn đề giáo dục con cái
theo đạo Ky tô giáo nữa. Sẽ giải quyết ra sao khi hoàng tử kế nghiệp vua
phải cử hành lễ Tế Nam Giao hoặc thờ cúng tổ tiên. Lấy ai là người gìn
giữ nếp sống, văn hóa cổ truyền, cúng giỗ tổ tiên của cha ông để lại.
Có một số tác giả đã viết
không đúng về vấn đề này. Nhất là giới Công giáo. Chẳng hạn cho rằng vua
Bảo Đại là người đã theo đạo Ki tô giáo. Thật ra đối với vấn đề tôn
giáo, ông Bảo Đại rất thoáng, minh bạch và rất trung lập. Ông không theo
đạo nào cả. Như ông viết: "Au palais, il n'y avait qu'un Dieu:
L'empereur, fils du ciel". Vậy không hề có chuyện đó. Ngay cả các
Hoàng tử, Công Chúa chưa chắc gì đã rửa tội, theo đạo Ki tô giáo. Một
điều nữa, dư luận vẫn cho rằng Hoàng Hậu Nam Phương phải xin phép
Vatican rồi mới được lấy chồng. Nhưng theo hồi ký của Vua Bảo Đại, chỉ
sau khi làm đám cưới xong, ông mới gửi thư cho Giáo Hoàng Piô 11 một lá
thư qua trung gian người Pháp, vì thời đó ta chưa có liên lạc ngoại giao
với Vatican. Nếu Hoàng Hậu muốn xin phép thì phải gửi thư qua các cha
cố, theo hệ thống nhà đạo. Cho đến nay, chả có bằng cớ gì, chả có văn
bản nào cho thấy có phép chuẩn cả. Có thể chỉ là đồn đại. Vua Bảo Đại
gửi thư cho toà thánh không phải để xin phép, xin tắc gì cả mà bầy tỏ
lập trường và quan điểm của vua Bảo Đại. Hãy xem ông viết: "Cette lettre
avait moins pour but de régler la question personnelle de mon mariage
et de l'éducation envisagée pour mes enfants que d'apporter et de
provoquer des éléments de réponse à un conflit ouvert depuis des
siècles et, plus encore, de faciliter la rencontrre entre deux mondes:
l'Occidental et l'Oriental, à travers notre pays d'Annam, 'terre de
rencontres', et à travers ma personne qui, pour la première, et
vraisemblablement pour la dernière, par l'éducaion recue, réunissait les
conditions d'une véritable confrontation entre deux civilisations". Đoạn
văn trên của vua Bảo Đại giúp dẹp hết những bàn tán bên lề, những chuyện
tủn mủn thổi phồng về chuyện đám cưới của ông với cô Nguyễn Hữu Thị Lan.
Những trở
ngại mà cô dâu tương lai gặp và phải đương đầu.
Đặt mình vào địa vị Hoàng Hậu
Nam Phương mới thấy thấm thía được những trở ngại, những khó khăn mà Bà
phải chịu đựng. Thật quả không dễ gì lấy được một ông vua và cũng không
dễ gì làm Hoàng Hậu. (4)
Nhưng lịch sử cũng cho thấy không thiếu trường hợp trước đây xứ Nam Kỳ
mà có lần vua Bảo Đại đã gọi là miền đất hứa đã cống hiến cho triều
Nguyễn những người con gái tài ba và sắc đẹp:
Bà Từ Dũ, tức cô Phạm Thị
Hằng là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự Dức. Bà là tiêu biểu cho một
lớp người phụ nữ đức hạnh, có học vấn, làm gương sáng cho mọi người
trong triều đình.
Sau đó đến bà Hồ Thị Hoa, vợ
vua Minh Mạng và cuối cùng là
Cô Nguyễn Hữu Thị Lan.
Tên của bà là Nam Phương Hoàng
Hậu mang ý nghĩa đó, chỉ thị đó là Hương thơm của miền Nam. Tên đó
biểu thị cả nết lẫn người đem lại vinh dự cho người dân xứ Nam Kỳ.
(LTS: tác giả ghi chữ đậm)
Nhưng cái khó lớn lao nhất Bà
phải đương đầu vì Bà là người Công giáo. Những chỉ dụ cấm đạo hồi nào
mới chỉ vừa ráo mực. Lòng người chưa ổn. Điều đó cũng chứng tỏ Bà là
người có cá tính, can đảm và trung thành với đạo giáo của Bà. Giả dụ một
người đàn bà khác thì sao? Sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và bằng bất cứ
giá nào để được làm Hoàng Hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu được nhân
cách của Bà, cái cao quý của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay thẳng
của một người đàn bà có giáo dục. Chỉ về một điểm này thôi, Bà là người
đáng nể trọng. Qua những người phục vụ chung quanh vua và Hoàng Hậu sau
này, mọi người không kể bất cứ ai đều bầy tỏ lòng kính trọng và quý mến
cái nhân cách của Bà.
3.
NGÀY ĐÁM CƯỚI
Mọi
chuyện đã xong. Dư luận cũng tạm ngưng tiếng nói. Những đám mây mù đã
tan. Phần lớn nhờ vào sự cương quyết đến cứng rắn của vua Bảo Đại. Huế
chờ đón một biến cố có một không hai trong lịch sử triều Nguyễn, một mẫu
nghi thiên hạ đến từ miền Nam với những sắc thái mới đến làm xôn xang
mọi người. Một cô gái xinh đẹp nhất miền Nam, Tây học, con nhà danh gia
vọng tộc cộng thêm là một người Ki tô giáo. Bấy nhiêu thứ đụng vào những
sắc thái truyền thống, cổ truyền đã gắn bó với Huế từ cả mấy trăm năm
nay. Huế cổ kính, Huế lãng mạn, Huế trầm mặc, Huế khép kín, Huế đẹp, Huế
thơ. Huế có tất cả, trừ một làn gió mới. Chuyện đó đã xảy ra.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1934,
người con gái đến từ phương Nam mang theo cả cái hương thơm miền Nam đã
quyết định bước qua ngưỡng cửa hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do tình yêu
gắn liền với định mệnh, một định mệnh không khỏi có trớ trêu, vào buổi
sáng mùa xuân đó, cả một cuộc đời mới đã mở ra. Bỗng chốc cô trở thành
Hoàng Hậu của cả nước. Từ nay, không còn ai nhắc đến cái tên
Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan nữa. Cô là Nam Phương Hoàng Hậu.
Lòng chắc đầy cảm xúc suốt
hành trình từ trong Nam ra Huế, chen lẫn lo âu và sung sướng, trong niềm
hân hoan không gì tả xiết, mỉm cười chấp nhận những gì sắp tới xảy ra
cho mình, trong cảm thức mình là người độc nhất có cái vinh dự làm Hoàng
Hậu cả nước. Và trong phẩm phục áo mầu vàng, một ân huệ đặc biệt mà vua
đã dành cho nàng, đầu nàng đội mũ có kết trân châu bảo ngọc, đi hia mũi
nhọn, tay cầm hốt ngà tiến vào hoàng cung.
Từ bên ngoài nhà khách trú của
hoàng cung, cô đã bước lên xe hơi để đi vào Cấm Thành, qua cửa Hiển Nhơn
mà hai bên có những người lính hầu, chân quấn xà cạp, đứng nghiêm chỉnh
như những tượng gỗ.
Buổi lễ đã được diễn ra từ
điện Cần Chánh. Hãy nghe Hoàng Thượng kể lại: "J'ai en effet, décidé
d'élever ma femme à la dignité d'impériatrice dès notre mariage,
alors que jusque-là ce titre n'était attribué qu'à la reine-mère, après
le décès de l'empereur. Revêtue de la longue et ample robe de Cour,
chaussée de costumes à la pointe retounée, coiffée d!une sorte de bonnet
enrichi de pierreries, pour la première fois dans l'histoire de l'Annam,
une femme s'avance seule, saluée par toute la Cour. Toujours
seule, elle pénètre dans la grande salle òu je l'attends, assis sur
un trône bas" (trang 64). Vâng, bây giờ, chung quanh
đầy bá quan văn võ, Bà vẫn "seule" và cả đời bà sau này cũng
"toujours seule". Trong suốt hơn 10 năm sống ở Huế, Bà vẫn seule như
thế giữa đám thị nữ, quan thần, dòng tộc, giữa những sắc thái dị biệt
miền, tiếng nói, tôn giáo, nếp sống văn hoá, học vấn. Chỉ những sự khác
biệt đó thôi cũng đẩy Bà vào tư thế một mình Và đã theo đuổi suốt cuộc
đời còn lại của Bà. Ôi nhận xét của Bảo Dại trong ngày đám cưới không
ngờ có tính cách định mệnh oan trái của đời Bà.
Sau buổi lễ, vua đã đưa Hoàng
Hậu về điện Kiến Trung mà trước đó Ngài đã cho sửa chữa lại thành một
cung điện có những tiện nghi mới theo những tiện nghi bên Âu châu, trong
đó có phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng làm việc. Và nhất là
phòng tắm và vệ sinh. Hồi còn trẻ, có dịp ra Huế khá nhiều lần, ở lâu
đến một tháng hơn tháng là thường. Tôi chỉ có một thắc mắc: Chẳng biết
vua chúa, cung phi đi cầu và tắm rửa ở đâu. Cả ngàn người như thế, không
thấy một cái cầu tiêu nhà tắm nào. Đó là nét lạ của Huế. Ai hiểu Huế hơn
thì xin chỉ cho. Hiểu ra rồi thì không khỏi buồn cười một mình. Từ nay,
Bà ra vào điện Kiến Trung mà trọng trách của Bà là cùng với vua cai trị
thần dân, đặc trách lo về những vấn đề xã hội theo lời yêu cầu của chính
vua Bảo Đại.
Để kết thúc phần này, xin dẫn
lời kể của vua Bảo Đại cho thấy vai trò quan trọng của ông bà Charles
trong cuộc hôn nhân này: "Le soir du mariage, nous invitons M. et Mme
Charles à diner. Estimant leur mission accomplie ils vont
repartir pour la France". (trang 64)
Phải nhìn nhận
ở đây, lần đầu tiên, vai trò người phụ nữ đã thay tên đổi họ và đã hẳn,
cách này cách khác đã ảnh hưởng trực tiếp trên xã hội người phụ nữ Việt.
4. ĐỜI
SỐNG GIA ĐÌNH CỦA HOÀNG GIA
Hoàng
Hậu là phụ nữ đầu tiên có tân học, ảnh hưởng nếp sống, nếp nghĩ Phương
Tây, trọng tinh thần dân chủ, trọng ý thức xã hội. Bà không phải là
người chỉ quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm đó thắp sáng lên,
rồi tíu ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như một thứ đồ giải trí
cho vua. Bà tham dự vào tất cả. Họp với các quan bộ lễ, bàn và nghị sự
tổ chức các buỗi lễ tế Nam Giao hay lễ Vạn Thọ. Chẳng hạn, lễ Vạn Thọ
khánh tiết mừng sinh nhật vua thường được diễn ra trong điện Thái Hòa.
Tổ chức lễ Bái Khanh cho mọi người có dịp bầy tỏ lòng trung thành đồng
thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài đường, các học sinh đi diễn hành,
tay cầm cờ Long Tinh, hát bài đăng đàn diễn hành qua cửa Ngọ Môn. Bên
trong hoàng thành thì tổ chức các màn múa hát do các nữ học sinh trung
học trình diễn và màn dâng hoa cho Hoàng Thượng và Hoàng Hậu. Nên nhớ là
không có những màn hát hoặc tuồng tích cổ nữa. Cũng nên nhớ là con trai
chỉ được đi diễn hành ngoài đường, ở ngoài hoàng thành mà thôi. Chỉ nhớ
lại các buổi lễ chúc thọ vua với lề lối tổ chức, cho nữ sinh vào ca hát,
dâng hoa, người ta hiểu những quyết định đổi mới đến từ đâu rồi.
Bà cũng là người phụ nữ đầu
tiên ở nước ta cùng vua tiếp khách ngoại quốc như Thống chế Tưởng Giới
Thạch, Quốc trưởng Shianouk. Cái mà bây giờ người ta gọi là vai trò đệ
nhất phu nhân.
Bà cũng là Hoàng Hậu đầu tiên
xuất cung, tham gia các sinh hoạt xã hội như đã đi thăm các cô nhi viện,
trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế, Hànội, các cô nhi viện hoac cơ sở Xã
hội v.v..
Ngày chủ nhật, Bà đi lễ nhà
thờ Phủ Cam như mọi người dân bình thường. Cũng là chuyện lạ. Dó là
người phụ nữ theo Kitô giáo đầu tiên trong ngôi vị Hoàng Hậu, ngôi vị mà
ngày nay nghĩ lại cũng khó mà tưởng ra là có thực. Sáng sớm tinh mơ, Bà
ra khỏi Hoàng Cung, không ngồi kiệu với màn che phủ kín làm bà khó chịu
như ngồi trong cũi. Nội điều đó thôi cũng có thể gây ra những xầm sì to
nhỏ. Lần đầu tiên, trong Hoàng cung, triều dình nhà Nguyễn, vóc dáng một
người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh
hoạt cung đình : giản dị hoá lễ nghi, giản dị trong những tương quan
giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưỏng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét
những xun xoe xu nịnh, những lời xàm tấu. Lần đầu tiên, một người phụ nữ
Việt Nam củng vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai trò đệ
nhất phu nhân như bây giờ. Toàn quyền Decoux đã hết lời khen ngợi bà là
người đức hạnh, nề nếo, một sự tổng hợp hai nền văn hoá đạo đức Dông
Tây. Về phía quốc tế, Hoàng Hậu đã nhận được những bằng khen của Hàn Lâm
Viện Y khoa Pháp và của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.
Chắc chắn và không thể chối
cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng
Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý
tưởng cho tất cả giới phụ nữ Việt Nam noi theo.. Nhất định giới phụ nữ
Việt Nam nhờ vào Bà đã trở thành tấm gương để mọi phụ nữ noi theo. Hình
ảnh người phụ nữ nhờ đó được cải thiện, nâng cao và đổi mới.
Bà có năm người con lần lượt
là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và Bảo Thắng. Ngày
thái tử Bảo Long ra đời, mồng 4 tháng 01, năm 1936 đã thi hành đúng như
trong sách Hội Điển, người ta đã bắn 7 phát súng thần công để loan báo
tin mừng. Phải bắn 7 phát, vì theo tục lệ, đàn bà 9 vía còn đàn ông 7
vía.
Gia đình Hoàng gia theo lối
sống mới ra bên ngoài như vua thường lái xe đi nghỉ hè ở Nha Trang, Đà
Lạt... (5) Hoặc đi trên
du thuyền Phi Long, đi câu cá ở biển Nha Trang để tránh nóng oi bức ở
Huế. Cũng tại Đà Lạt, gia đình Hoàng gia có dịp đoàn tụ với ông bà bá
tước và các con của gia đình này. Đôi khi Hoàng Hậu cũng theo vua đi câu
hoặc đi săn thú rừng ở Ban Mê Thuột hay Đà Lạt.
Đây là những ngày tháng tương
đối êm đềm và hạnh phúc của đời Bà.
5.
NHỮNG NGÀY THÁNG ĐEN TỐI
Có được hơn mười năm êm ấm
hạnh phúc. Những tháng ngày còn lại báo hiệu những đám mây mù phủ kín
tâm tư. Tháng 9 năm 1945, vua Bảo Đại do sự thúc ép của Việt Minh buộc
phải từ chức, thoái vị và nhận chức cố vấn bù nhìn cho Hồ Chí Minh. Cuộc
tiễn đưa cựu Hoàng ra Hà Nội đầy bất trắc rủi ro. Rủi ro về chính trị đã
đành. Vậy mà rủi ro đến hạnh phúc gia đình lại là điều có thực. Những
tin đồn về những cô gái Hà Nội và cả những mệnh phụ đã không thư từ mà
vẫn tới Huế. Lý Lệ Hà là một trong số những người đó. Trong hồi ký của
Trần Văn Đôn, ông đã nói trắng ra một mệnh phụ phu nhân, bà TVC nữa. Sự
đời sao có thể éo le thế.
Trong dịp Phan Khắc Hòe về
Huế, người đã bán đứng Bảo Đại, Hoàng Hậu đã hỏi thẳng Hoè về Lý Lệ Hoa.
Hoè xác nhận là có thực còn nói thêm đó là một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị
xúc phạm nặng nề, nhưng vẫn giữ sự im lặng vốn có của Bà, vẫn nhờ Hòe
cầm một số tiền gửi ra cho Bảo Đại chi dùng. Chẳng hiểu Phạm Khắc Hoè và
Việt Minh có dính dáng gì đến việc hủ hoá của Bảo Đại hay không. Nào ai
biết được. Những người như ông Mai Văn Hàm đã tài trợ cho Bảo Đại ăn ở
Hà Nội lẽ nào hại Bảo Đại đến thế. Nhưng hoàng thân anh em họ với Bảo
Đại không lẽ cũng có cổ phần vốn phá hoại gia đình ông Bảo Đại chăng?
Chuyện đời khó biết được.
Danh sách những người đẹp lăng
nhăng với Hoàng thượng thêm dài, một cô gái Tầu Hồng Kông, Phi Anh và
nhất là Mộng Điệp.
Không thiếu những mệnh phụ tỉ
tê, xàm tấu với Bà. Bà nghe đã nhiều, thường giữ thái độ im lặng, có thể
phần không muốn nghe, phần đã quá rõ, phần tự ái không muốn ai nhắc tới.
Có thể còn muốn bảo vệ uy tín hoàng tộc và cho cả con cái Bà. Cứ thế, Bà
ẩn nhẫn chịu đòn một mình theo cái cách của người được ăn học, ngưới có
nhân cách.
Bà
đã tự chọn con đường của mình phải đi, từ giã vinh hoa, phú quý và nhất
là chấp nhận sự quên lãng của Hoàng thượng.
Vì vậy, kể từ năm 1950, dòng
họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không còn ở trong mắt Bà nữa.
Năm 1950, con gái út mới 8
tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà. Bà có thể làm gì được để gánh
nổi cái gia tài Bảo Đại đã để lại. Bà quyết định mang các con sang Pháp,
phần lo chuyện học hành của chúng là chính, phần tránh xa những nhớp
nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay còn ai. Gần không còn ai.
Bà ra đi, Bảo Đại càng đi
xuống. Nay thì có những tôi thần như Bảy Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp
cho ông tất cả những gì cần thiết ở đời: tiền bạc và gái đẹp.
Phải chăng, ông chán ngán thế
sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải chăng ông chán ngán tình đời đi tìm
quên đời bằng thân xác người phụ nữ. Lấy cái gì để bào chữa cho ông
trong việc phẩy tay chuyện đất nước. Viết về ông thấy cả đời ông chẳng
làm đuợc tích sự gì, ông chỉ làm được một điều tốt là cả đởi làm chính
trị ông chẳng làm hại ai bao giờ, dù là những người đã bỏ ông như Ngô
Đình Diệm và nhất là Hồ Chí Minh. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao giờ
thấy ông hạch tội hay nặng nhẹ với những người như ông Ngô Đình Diệm.
Vậy mà tôi vẫn oán giận ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc
hiểu hơn ai hết. Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đã quá muộn rồi. Nói gì
nữa bây giờ cũng vô ích.
Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày
còn lại ở bên Pháp đã từng bước, bước đến chỗ để về. Mỗi ngày, mỗi năm
tháng cứ héo mòn đi như cái cây không có nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn
lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm chán với cuộc sống thực
bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong. Nổi cô đơn từ mọi phía, nỗi cô đơn cã
đời. Dến như tôi có thể dám thốt ra lời này : Chỉ nhìn con mắt, cảm
nghiệm được đời bà là một niềm cô đơn. Dừng ai hạch hỏi tôi tại sao nói
thế.
Lại thêm vật chất không dư giả
như trước nữa, sức khỏe suy yếu vì bệnh suyễn và tim. Tháng ngày vẫn
trôi qua, dần dần những trông đợi thù đáp nơi người, niềm hy vọng có
ngày trở lại bị xói mòn sẽ dấy lên những câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự
đa đoan, về tình người và cuối cùng về tình vợ chồng.
Bà sống cô đơn thế nào thì mất
im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai
hoàng tử và ba công chúa sau mới về. Thực sự chỉ có hai người giúp việc
bên cạnh lúc Bà mất.
Phần đời Bà, còn rất nhiều
điều chưa được sáng tỏ còn nằm trú ẩn trong vùng bóng tối của đời Bà.
Nhưng phải chăng chính cái phần bóng tối này lại là nơi trú ẩn an toàn
nhất mà Bà muốn giữ lại đem về bên kia thế giới.
Và nếu thực sự như thế thì
chúng ta chỉ còn biết tôn trọng ý nguyện của Bà và phải chăng Bà đã ra
đi và không còn gì để nhắn gửi và nói lại nữa. Một ngôi sao đã đổi ngôi.
Số phận Bà có gì trùng hợp với phận người phụ nữ nói chung. Có lẽ cần
suy nghĩ thêm vẫn chưa muộn.
Nguyễn văn
Lục
Chú thích
(1) Trong cuốn Thuyền ai
đợi bến Vân Lâu của Nguyễn Lý Tưởng có đặt vấn đề vua Bảo Đại là con ai?
Xét ra cũng là một đề tài lý thú để bàn. Do sự quan hệ với một vài liên
hệ với hoàng tộc, tài liệu cho biết, Bảo Đại là con vua Khải Định, nhưng
mẹ là bà Hoàng Thị Cúc vốn chỉ là người hầu trong cung. Khải Định hình
như không có con, nhưng khi bà Hoàng Thị Cúc có mang thì Thái Hậu, Đức
Chánh Cung tra khảo đánh đập, hoàng tử Bửu Đảo, tức Khải Định đã đứng ra
xin như sau: "Thưa A, thai nhi trong bụng Hoàng Thị Cúc chính là con của
hài nhi. Vì dòng dõi của mình (vua Đồng Khánh) hiếm muộn, nên ả tha cho
Hoàng Thị Cúc và cho phép hài nhi được cười nàng làm thiếp. Ấy là theo
lời kể lại của bà Nguyễn Thị Vy, cháu nội ông Nguyễn Hữu Độ (Phụ chính
đại thần vua Đồng Khánh). Một dẫn chứng khác qua lời nói lại của ông Bửu
Uyển thì trước 75, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại), lúc đó đã ngoài 80, đã
kể lại cho con cháu nghe, trong đó ông Bửu Uyển cũng có mặt. Theo đó,
Đức Từ Cung cho biết, lúc làm gái hầu cho Ngọc Lâm Công Chúa, con vua
Đồng Khánh. Công Chúa thường sai bà mang thư cho Bửu Đảo, (hai nguời
trao đổi thơ xướng họa với nhau). Hai người ăn nằm với nhau, sau đó bà
có thai và sinh ra Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại sau này. Cả hai nguồn tin
đều xác nhận Bửu Đảo ăn ở với Hoàng Thị Cúc, rồi có con. Chính sử không
có, đành tin vào những nhân chứng sống. Điều chính là bà Hoàng Thị Cúc,
sau này là Đức Từ Cung là mẹ vua Bảo Đại. Chừng đó đủ rồi. (Xem Thuyền
Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 395-401, của Nguyễn Lý Tưởng)
(2) Theo Hoeffel, trích
trong Indochine "Bài La région Saigon, Cholon". Sài Gòn, Chợ Lớn lúc bấy
giờ chỉ rộng có 5000 mẫu Tây, chiều dài từ Đông sang Tây là 15 kilô mét
và chiều rộng có vỏn vẹn 6 kilô mét.
(3) "La naissance de
Dalat", của ông A.Baudrit viết: Đà Lạt được khám phá ra vào năm 1893.
Sau đó mãi đến năm 1898, người ta mới khai thác được một vùng để làm một
cái vườn với mục đích cung cấp rau cho đoàn nguời lên công tác. Vì thế,
vườn rau đặt tên là "Ferme de Dankin". Sau đó, tác giả tự đặt câu hỏi
"Est-ce alors que commenca la création de Dalat". Hỏi rồi tự mình trả
lời: "Pas encore". Nhưng điều sau đây mới thực sự quan trọng và có ý
nghĩa. Trong một bài báo khác giấy nhiều chỗ đã mủn và rách, vừa đọc,
vừa đoán mò không rõ tên tác giả có ghi chép: vào năm 1934, Giáo Hoàng
Pio 11 mới yêu cầu mẹ bề trên Cả của dòng đưa các sơ ra hải ngoại. Cái
duyên là họ đã quyết định sang truyền giáo ở bên Việt Nam. Vì thế, họ đã
thiết lập hai trường: một ở Đà Lạt, một ở Hà Nội, khu Ngọc Hà. Nhưng mãi
đến năm 1937, trường sở mới được xây dựng xong. Trong khi đó Cô Nguyễn
Hữu Thị Lan đã làm đám cưới với vua Bảo Đại từ năm 1934. Như thế cả hai
chị em quả thực không thể nào học Couvent des Oiseaux được. Chỉ có sau
này, khi đã lên ngôi Hoàng Hậu, bà có ghé thăm trường mà thôi.
(4) Năm 1927, có bài
viết "Le mariage d'une princesse d'Annamite" trên báo Thần Kinh. Tờ Nam
Phong , năm 1923, số 69 cũng có bài viết tương tự. Năm 1934, trên
Bulletin des Amis du vieus Hue ( BAVH ), trang 145-168 , trong một bài
viết có nhan đề "Cérémoniale d'autrefois pour le mariage des princesses
d'Annam" của L. Sogny. Khi các công chúa được 16 tuổi thì bắt đầu phải
để ý đến chuyện gả chồng cho các cô rồi. Thoạt đầu, người ta chọn ra một
danh sách các con, cháu, ngay cả đến chắt các công thần nộp lên vua. Vua
chấm dấu đỏ vào tên anh nào, anh đó có may mắn được làm phò mã. Sự cố
xảy ra sau đây thêm phiền phức vô kể. Lúc Thiệu Trị mất theo tục lệ, mọi
chuyện cưới hỏi phải ngưng để tang vua cha. Đến Tự Dức thứ tư, nghĩa là
năm 1854, số các công chúa chưa chồng trong 3 năm lên đến 30 cô, tất cả
gồm các con của Minh Mạng, Thiệu Trị gom lại. Lúc đó, nhiều công chúa đã
quá tuổi 16 thuộc loại già cỗi (Abricot murissant), chưa có ai rước đi.
Trong số các công chúa, nhiều cô xấu xí lại càng khó kiếm chồng hơn. Dư
luận thời đó đồn thổi có nhiều con trai các công thần sợ phải lấy mấy
công chúa hoặc vì quá lớn tuổi, hoặc xấu không hợp nhãn đành đánh bài ba
chân bốn cẳng chốn mất dạng. Triều đình không biết làm thế nào đành phá
lệ tuyển bổ xuống hàng quan lại thường. Nào đã xong, còn xem tuổi tác
công chúa có hợp không đã. Rồi cho tên tất cả những ứng viên đó vào
trong hộp sắt, lắc đều, công chúa bắt trúng tên ai thì nguời đó đuợc làm
phò mã. Công chúa chỉ biết mặt lúc đám cưới nên cũng tìm đủ cách để xem
mặt phò mã tương lai là ai. Cũng nhiều cảnh cuời ra nước mắt.
Thủ tục cưới hỏi cũng nhiêu
khê phiền toái lắm, vất vả lắm. Từ lễ nạp thai đến vấn danh, rồi nạp
trưng, nạp cát, sau đến lễ thân nghinh và hiệp cẩn, công chúa và phò mã
ăn chung một miếng thịt một con vật, rồi uống rượu.
Mọi chuyện xong thì mỗi phò mã
được thưởng 3 nghìn lạng bạc để mua nhà ở, gọi là phủ, cộng với 3 vạn
lạng để sắm sửa quần áo, đồ dùng và đồ trang sức v.v.. Ngoài ra, phò mã
còn có 50 người hầu, có một đội trưởng do triều đình ứng trả chi phí
lương bổng.
Ôi trùng trùng điệp hết lễ này
đến lễ kia. Cưới xong cũng trầy da, chóc vẩy. Cũng nên nhớ, chỉ có vua
là có cung phi cung nữ, bao nhiêu cũng được. Còn phò mã thì không được
quyền có vợ hai, chỉ trừ khi công chúa không có con.
(5) Nhân đây, có đọc
được một bài báo khá lý thú, đề cập đến đến chuyện du xuân đặc biệt của
vua Đồng Khánh. Bài báo còn lý thú hơn nữa là tác giả Phan Thuận An, tự
nhận là "nhà nghiên cứu Huế". Gọi là nghiên cứu chứ thật ra ông đã dịch
và chép nguyên con một bài của Cosserat, trong BAVH, Huế từ trang 301
đến trang 306, có nhan đề là "Les Fêtes du Tết en 1886 à Hue. Promenade
du roi". Trong đó, Cosserat chép lại bài tường thuật của phóng viên báo
Figaro, lúc đó cũng có mặt ở Huế. Thật ra chả nên làm thế để làm gì. Nội
dung bài báo lại tỏ ra không nắm vững cho lắm. Từ lúc thay thế vua Hàm
Nghi, Đồng Khánh chỉ là thứ bù nhìn dễ sai bảo của người Pháp. Vì thế
tướng Prudhomme, lúc đó đang ở Huế đã yêu cầu nhà vua phải xuất hiện
ngoài hoàng cung để cho dân chúng biết là vua không bị quản thúc. Mục
đích của Prudhomme chỉ có vậy. Và đơn giản chỉ có vậy .
Sau 40 năm
tưởng nhớ Hoàng Hậu
Nguyễn
văn Lục
© http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
N
|