|
Hồ Quý Ly (1336 - 1407)
Ông có hai người cô đều được
vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều
trở thành mẹ nhà vua Trần, do đó ông
sớm được đưa vào triều đình.
Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng
cục Chi hậu (1371), đến vua Trần
Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại
sứ, lại gả con gái là công chúa Huy Ninh.
Ông là người có nhiều năng lực về
chính trị, kinh tế, văn hóa.
Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy
yếu cực độ, đất nước
nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, ông không
chịu nổi. Ông được cử giữ
chức cao nhất trong triều. Năm 1395 Thượng
hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được
cử làm Phụ chính Thái sư, tước Trung
tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm
trọn quyền hành trong nước.
Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên
nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại.
Chưa được một năm, Hồ Quý Ly
theo cách nhà Trần, nhường ngôi cho con là
Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng Hoàng.
Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên
quyết định dùng chữ Nôm để
chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho
dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên
tập thiên "vô dật" để dạy cho
con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo
dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.
Về mặt xã hội, ông thiết lập sở
"Quản tế" (như ty y tế ngày nay).
ở các lộ, ông đều lập một kho
lúa gọi là "Thường bình", lấy
tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm
mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.
Ông thực thi lại chính sách phân phối
ruộng đất, quy định trong nước
chỉ trừ đại vương và trưởng
công chúa, còn không người nào được
phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng
thừa phải nộp lại cho Nhà nước.
Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà
quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ
bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không
được quá số quy định.
Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng
việc phát hành tiền giấy đầu tiên
ở Việt Nam.
Trước sự lăm le xâm lược của
nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh
quân đội, xây thành, đóng thuyền
chiến, v.v...
Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quý Ly
là tích cực, với mong muốn xây dựng
một nước Việt Nam cường thịnh,
tư tưởng đổi mới của ông cũng
rất đáng trân trọng song những cải
cách của ông chưa mang lại những kết
quả đáng kể.
Triều Hồ thành lập chưa được
mấy năm thì quân Minh tràn sang xâm lược.
Hồ Quý Ly tổ chức cuộc kháng chiến,
song "quân nhà Hồ trăm vạn nhưng không
một lòng", Hồ Quý Ly không thể cố
thủ bằng cách dựa vào thành quách, cho nên sau
6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh
bắt đưa về Trung Quốc.
Tuy thất bại, nhưng ông là người có
tinh thần tự chủ cao. Đáp lời người
Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam,
ông tự hào viết nên một bài thơ:
"Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan Đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ngọc ủng khai tâm tửu
Kim đao chước tế lân
Niên niên nhị tam nguyệt
Đào lý nhất ban xuân"
Tạm dịch:
"An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Y quan chẳng kém Đường
Dao vàng cá nhỏ vẩy
Bình ngọc rượu lừng hương
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vườn".
Khi còn nắm chính quyền, ông cương
quyết đề cao công tác giám sát, chống thói
xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua
khiến quốc pháp bị xem thường. Với
quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử
Trừng là người có trách nhiệm, ông
gửi lời trách cứ trong một bài thơ:
"Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh"
Tạm dịch:
"Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!"
Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương
quyết phế bỏ. Kẻ giáo điều theo
chính thống thì cho rằng thế là thoán
nghịch, nhưng nhà sử học công minh thì
không thể không thừa nhận đó là việc
cần làm, nếu đứng trên lập trường
vì quyền lợi đất nước, chứ
không vì quyền lợi của một cá nhân,
một dòng họ. Đối với nhà vua bất
tài mà tham quyền cố vị, ông có bài thơ
Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:
"Tiền hữu dung ám quân
Hôn Đức cập Linh Đức
Hà bất tảo an bài
Đồ sử lao nhân lực"
Dịch là:
"Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!".
(Bản dịch của Tuấn Nghi)
|