|
Dòng họ Nguyễn làm Chúa, Vua từ 1558 đến
1945, con cháu rất đông. Để khỏi
phải nhầm lẫn về thế, thứ, thân, sơ
và người trong họ, các Chúa và các Vua
Nguyễn đã ban hành những nguyên tắc đặt
tên và tên đệm cho con cháu trong họ mình.
Việc đặt tên do Vua Minh Mạng chủ trương
để áp dụng cho hai mươi đời tính
từ Vua Thiệu Trị về sau, chia làm 4
"loại" :
1. Từ Vua Minh Mạng trở về trước
(tức Vua Gia Long ngược lên thêm 9 đời chúa).
2. Những con cháu của chính Vua Minh Mạng.
3. Những con cháu của Anh, của Em Vua Minh Mạng
4. Họ của một số con cháu khác (Công tính)
I- Những con cháu thuộc
thế hệ Vua Minh Mạng trở về trước
:
Gồm có con cháu 9 đời chúa, anh em Vua Gia Long, anh
em Vua Minh Mạng
Chúa Tiên (1558-1613) từ ngoài bắc vào, mang họ
Nguyễn tức Nguyễn Hoàng. Tương truyền
rằng khi bà vợ ông nằm nơ thấy thần
nhân cho tờ giấy viết đầy cả
chữ Phúc. Nhiều người đề nghị
lấy chữ Phúc đặt tên cho con thì bà cho
rằng nếu đặt tên cho con thì chỉ
một người được hưởng Phúc,
còn lấy chữ Phúc đặt làm tên đệm
thì mọi người đều được hưởng
Phước. Bà đặt tên cho con là Nguyễn
Phước Nguyên, nhánh họ Nguyễn vào nam làm chúa
đổi thành Nguyễn Phước bắt đầu
từ đó. Từ Nguyễn Phước xuống
đến vua Minh Mạng đều mang họ
Nguyễn Phước (Vua Minh Mạng là Nguyễn Phước
Đảm). Những người này cùng họ
với vua Minh Mạng được nhà vua đặt
là Tôn Thất. Con gái của Tôn Thất gọi là Tôn
Nữ.
Một số thân tộc thuộc dòng những con
trai khác của Nguyễn Hoàng còn ợ lại đất
bắc thì đổi ra thành họ Nguyễn Hựu.
IỊ Những con cháu của Vua
Minh Mạng :
Vua Minh Mạng cho làm riêng cho con cháu mình bài Đế
Hệ Thi 20 chữ dành cho 20 đời :
Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Qúy Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thụy Quốc Gia Xương
Con Vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên
Tông (Vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương),
Miên Trinh (Tuy Lý Vương).
Chỉ có những người trong Đế Hệ
Thi mới được làm vua : Miên Tông (Vua
Thiệu Trị), Hồng Nhậm (Vua Tự Đức),
Ưng Chân (Vua Dục Đức), Bửu Lân (Vua Thành
Thái), Bửu Bảo (Vua Khải Định), Vĩnh
San (Vua Duy Tân), ....
Con gái và cháu gái của Vua Minh Mạng có cách đặt
tên riêng. Nói chung, con gái hay cháu gái của Vua Minh
Mạng nói chung đều áp dụng theo một cách
đặt chữ lót sau đây :
Con gái của vua là Hoàng Nữ, khi được
sắc phong thì trở thành Công Chúa, và có tên
hiệu riêng. Ví dụ Hoàng nữ Tring Thận (em
ruột Miên Thậm) được phong làm Lại
Đức Công Chúạ
Công chúa về sau có anh hay em được làm vua thì
được gọi là Trưởng Công Chúa (để
phân biệt với Công Chúa của Vua đang trị
vì), có cháu làm vua (vua tại vị gọi bằng cô)
thì được gọi là Thái Trưởng Công Chúạ
Con Trai của Hoàng Tử là Công Tử, chị em gái
của Công tử là Công Nữ , con gái của Công
tử là Công Tôn Nữ, con gái xủa Công tôn nữ
là Công tằngTôn nữ, xuống một bậc nữa
gọi là Công huyền Tôn nữ, ..... Nhưng để
đơn giản đời kế tiếp chỉ
gọi là Tôn nữ với ý nghĩa là cháu gáị
III- Những con cháu của anh
và em vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng có 1 người anh (Hoàng Tử
cảnh) và 9 người em trai có con cháu. Những người
này là phiên dậu gần gũi nhà vua. Để
phân biệt với các Tôn Thất khác (con cháu
của 9 đời chúa Nguyễn), Vua Minh Mạng cho
làm 10 bài Phiên Hệ Thi, mỗi bài có 20 chữ dùng
làm chữ lót sau Tôn Thất cho 20 đời con cháu
của Anh và Em Vua Minh Mạng.
Bài I dành cho con cháu Hoàng Tử Cảnh, anh cả
của Vua Minh Mạng :
Anh Duệ Mỹ Duệ Anh Cường
Liên Huy Phát Bội Hương
Lệnh Nghi Tàm Tốn Thuận
Vị Vọng Biểu Khôn Quang
Dòng này đến đời thứ tư có một
người rất nổi tiếng là ông Cường
Đễ (Kỳ Ngoại Hầu) giữ cương
vị minh chủ của Việt nam Quang Phục
hội do nhà cách mạng Phan Bội Châu sáng lập
|