|
Bố Cái
Đại Vương Phùng Hưng (761-802)
Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống
trị của triều đình Trường An đã
bắt đầu suy yếu. Chiến tranh giữa
"phiên trấn" và "triều đình" -
mà đỉnh cao là loạn An Sử - càng làm cho nhà
Đường lụn bại. Uy quyền của
bọn tiết độ sứ và đô hộ ngày
một tăng, chúng tự ý trưng thu thuế má.
Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định
(miền Việt Bắc), năm 767 giúp kinh lược
sứ An Nam Trương Bá Nghi đánh bại
được cuộc xâm lược của quân
Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó y được
cử làm đô hộ An Nam. Y ra sức bòn rút
của cải của nhân dân ta, đánh thuế
rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại
Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào,
nhân lòng căm phẫn của nhân dân, lợi
dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi
loạn, người hào trưởng đất
Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm,
huyện Ba Vì, Hà Nội) là Phùng Hưng đã phát
động một cuộc khởi nghĩa lớn
chống chính quyền đô hộ.
Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng
không nhiều. Chỉ biết, Phùng Hưng xuất
thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng
đất Đường Lâm. Đường Lâm
xưa kia vốn là vùng đồi gò và rừng cây
rậm rạp, thú vật dữ tợn thường
hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là
Đường Lâm hay Cam Lâm.
Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu
7 đời của Phùng Tói Cái - người đã
từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ,
đời Đường Vũ Đức (618-626)
dự yến tiệc và làm quan lang ở đất
Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng
Hạp Khanh - một người hiền tài đức
độ. Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời
Đường Khai Nguyên, ông đã tham gia cuộc
khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau đó, ông
trở về quê chăm chú công việc điền
viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có
đến hàng nghìn người (theo bia Quảng Bá).
Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người
vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần
được ba người con trai khôi ngô khác thường,
lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo
trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em
thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út
là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến
năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều
mất.
Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng
Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã sử
cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh
Tý (760) (tức 5-1-761) và chết ngày 13 tháng 8 năm
Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong
ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có
sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông
được sử sách và truyền thuyết dân
gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật
hổ ở đất Đường Lâm. Có
lần ông đánh được 2 con trâu mộng
đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục.
Lần khác lại trừ được hổ
dữ, bằng mưu kế, đem lại bình yên
cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường
Lâm còn lưu truyền về câu chuyện đó.
Phùng Hưng còn là vị anh hùng đầu tiên
trong những người con ưu tú của đất
Đường Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người
anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm
lại thành Tống Bình (Hà Nội), trị sở
của chính quyền đô hộ lúc đó và xây
dựng nền tự chủ trong khoảng gần
chục năm.
Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi
dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa
quân tiến lên đánh chiếm được
cả một miền rộng lớn quanh vùng
thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ
chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân;
Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh
xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn
giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình
đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân
thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn
20 năm.
Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng
các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành
Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo
do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ
Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng
Hưng tiến công vây thành. Quân của Cao Chính Bình
(khoảng hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra
chống cự. Cuộc chiến đấu diễn
ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, quân địch
chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố
thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm
rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì
và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất
nước được 7 năm thì mất.
Rất tiếc trong 7 năm ấy, sử sách không
để lại một nguồn tài liệu nào
về ông. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên
nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại
Vương. An nối nghiệp được hai năm
thì chính quyền lại rơi vào tay giặc.
Nền tự chủ vừa mới xây dựng,
chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới
9 năm.
Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng
Đường Lâm kể lại rằng: Phùng Hưng
chết rồi rất hiển linh, thường
hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn
nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu
để thờ tự tại Đường Lâm.
Tương truyền sau này, Phùng Hưng còn
hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng
giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy
vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ quy
mô to lớn hơn trước. Sự ngưỡng
mộ đối với người anh hùng dân
tộc họ Phùng còn thể hiện ở việc
lập đền thờ phụng của nhân dân như
ở đình Quảng Bá (Hà Nội), đình
Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại
áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ Thanh Oai (Hà
Tây),v.v.
Hiện nay dấu vết lăng mộ của Phùng
Hưng còn lại ở đầu phố Giảng
Võ (gần bến xe Kim Mã), vì khi chết, ông
được mai táng ở cạnh phủ Tống
Bình, sau đó mới đưa thi hài về quê hương.
Để tưởng nhớ người anh hùng dân
tộc, Nhà nước ta đã đặt tên
phố Phùng Hưng tại phía cửa Đông
của thủ đô Hà Nội.
|