|
Thi nhân và anh hùng Quang
Khải, tự Chiêu Minh, sinh vào mùa đông năm Tân
Sửu (1241), là con trai thứ ba Trần Cảnh
(Trần Thái Tông). Dưới triều Trần Thánh
Tông, ông giữ chức Tướng quốc thái úy,
tước Đại vương; được
thăng chức Thượng tướng Thái sư
dưới triều vua Nhân Tông. Cùng với
Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải cũng
là một nhân vật trọng yếu của vương
triều, đã đóng góp nhiều công sức vào
sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
đặc biệt là trong cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên - Mông (1284 - 1288), ông
đã tham gia trận phản công lớn, đánh
tan quân giặc ở Hàm Tử và Chương Dương,
giải phóng Thăng Long.
Trần Quang Khải là người học rộng,
biết nhiều, văn võ song toàn, ngoài ra ông còn là
một nhà ngoại giao, nhà thơ có tài.
Trong số các thi sĩ - chính khách thời Trần,
Trần Quang Khải có lẽ là người để
lại cho người đọc một ấn tượng
tươi tắn mà sâu đậm. Trước
hết, tuy chỉ còn lại vẻn vẹn có 10 bài
thơ thôi (Trong 10 bài thơ này thì có một bài
Đề đền Bạch Mã, chỉ được
chép trong Việt điện u linh tập, một bài
Hạ Hồ Thành trúng Trạng nguyên, e không đúng,
và một bài Đề dã thự trùng với bài Tĩnh
Bang cảnh vật của Trần Tung trong Thượng
Sĩ ngữ lục. Điều kiện tư
liệu hiện nay chưa cho phép khẳng định
dứt khoát vấn đề tác giả đích
thực của các bài đó), song, thơ ông bài nào
cũng mang cốt cách khoáng đạt của
một thi nhân cỡ lớn. Trần Quang Khải có
làm thơ xã giao thù tạc cũng là cái thù
tạc không cần phải gắng gượng hay
khách sáo, mà trái lại dung dị, tự nhiên,
hiếm người có được:
Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân quệ,
Cộng xướng thù gian, tích đối sàng.
(Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh) (Tức Sài
Thung)
(Vừa nói cười đó mà thoắt đã
ngậm ngùi dứt áo,
Tiếc những lúc hai giường đối
diện, xướng họa cùng nhau).
Và Trần Quang Khải có ngắm nhìn đồng
quê trong tư cách một vị chủ nhân trang
trại thì vẫn là cái nhìn đột xuất, tình
tứ khác thường:
Dã thự tân khai, cảnh vật tân,
Phương phi đào lý, tứ thời xuân.
Nhất thanh ngư địch, thanh lâu nguyệt,
Kỷ phiến nông thoa, bích lũng vân.
(Đề dã thự)
(Trang trại mới mở, cảnh vật thật
mới mẻ,
Đào mận tốt tươi, xuân suốt
cả bốn mùa.
Một tiếng sáo trẻ chăn trâu, xanh thêm
mặt trăng trên lầu,
Vài tấm áo tơi nông phu, biếc hẳn đám
mây dưới lũng).
Sau nữa, ấn tượng tươi tắn
của chúng ta đối với Trần Quang
Khải - thi nhân còn ở chỗ, ta biết tác
giả những vần thơ khoáng đạt này là
một vị Thái sư Thượng tướng, cùng
với Trần Quốc Tuấn là hai nhân vật
đứng đầu hàng văn và hàng võ, đã
từng góp nhiều công lao hiển hách vào công
cuộc dựng nước và giữ nước
đời Trần. Là con trai thứ ba vua Trần Thái
Tông, em ruột Trần Thánh Tông, sinh năm 1241 và
mất năm 1294, với tước Chiêu Minh vương,
Trần Quang Khải đã thực sự đóng
một vai trò chủ chốt trong triều chính nhà
Trần suốt nhiều năm tháng, kể từ
khoảng mươi năm sau cuộc kháng chiến
chống Nguyên lần thứ nhất (1258). Ròng rã
gần hai thập niên tạm gọi là hòa bình mà
kỳ thực là chuẩn bị lực lượng
rất khẩn trương ấy, với cương
vị một ông quan đầu triều, Trần
Quang Khải đã ra sức chèo chống về
nội trị, ngoại giao, đưa vương
triều Trần vượt qua nhiều thử thách,
nhất là những cuộc đấu trí mệt
nhọc, căng thẳng với đám sứ
giả Nguyên Mông. Những bài thơ ông làm trong các
dịp này cũng giống như những bài thơ
tiếp sứ của Trần Nhân Tông và nhiều
người khác, có cái mềm mỏng, nhún nhường
về lời lẽ, nó là một sách lược
nhất quán trong quan hệ nhiều đời
giữa nước ta với các đế chế
phương Bắc vốn luôn luôn tự thị vào
cái "lớn", cái "khỏe" của mình:
Khẩu hàm uy phúc quân bao biếm,
Thân bội an nguy quốc trọng khinh.
Cảm chúc tứ hiền quân phiếm ái,
Hảo vi noãn dực Việt thương sinh.
(Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh, Lý Chấn Văn
đẳng).
(Miệng nói lời oai phúc thay vua mà khen chê,
Thân mang theo sự an nguy quan hệ đến
việc lớn nhỏ của nước nhà.
Dám xin cầu chúc bốn vị sứ giả
hiền tài có lòng yêu thương rộng lớn,
Ra sức che chở cho con dân nước Việt).
Nhưng hết sức mềm mỏng đấy - và
có thể không kém thân tình nữa kia đấy - mà
vẫn giữ được hiên ngang cứng
cỏi sau từng chữ từng câu, nó là cái tư
thế bình đẳng của chủ đối
với khách, cái phong thái đàng hoàng của
những con người luôn luôn tự chủ
được mình:
Tống quân quy khứ độc bàng hoàng,
Mã thủ xâm xâm chỉ đế hương.
Nam Bắc tâm linh huyền phản bái,
Chủ tân đạo vị phiếm ly trường.
Nhất đàm tiếu khoảnh, ta phân quệ,
Cộng xướng thù gian, tích đối sáng.
Vị thẩm hà thời trùng đổ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
(Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh)
(Tiễn ông ra về, mình tôi luống những bâng
khuâng,
Ngựa xăm xăm hướng về nẻo quê
hương nhà vua.
Nỗi lòng Nam Bắc lưu luyến trên ngọn
cờ người ra đi,
Tình chủ khách dạt dào trong chén rượu giã
biệt.
Vừa nói cười đó mà thoắt đã
ngậm ngùi dứt áo,
Tiếc những lúc hai giường đối
diện, xướng họa cùng nhau.
Biết bao giờ lại được gặp
mặt,
Để nắm tay ân cần kể nỗi hàn huyên).
Thế rồi, khi tình thế xã tắc không còn tài
nào ngăn được cuộc xâm lăng ào
ạt của lũ giặc Mông Thát, Trần Quang
Khải lập tức cởi áo phòng văn, khoác
áo tướng sĩ, dẫn đầu một
đạo quân, ra đi. Và cứ thế, dưới
quyền tiết chế của quốc công Trần
Quốc Tuấn, ông xông pha trận mạc khắp
nơi, hết Nghệ An ra Thăng Long, lại đi
các trấn phía bắc... cho đến ngày toàn
thắng.
Cái tấm lòng hăng hái bất kỳ việc gì
cũng không từ nan, cũng thung dung nhận
lấy và làm hết mình đó, Trần Quang
Khải giữ được cho mãi đến già.
Và cái nét dung dị mà khoáng đạt, hào hùng
trong con người ông cũng vậy, vẫn là
một cốt tính đặc sắc làm trẻ
trung mãi ngòi bút của nhà thơ. Bài thơ Cảm
xuân có lẽ làm ít lâu trước lúc mất là
biểu hiện kết hợp cả hai mặt khoáng
đạt và hăng hái nói trên.
Vũ bạch phì mai tế nhược ti,
Bế môn ngột ngột tọa thư si.
Bán phần xuân sắc nhàn sai quá,
Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
Cố quốc tâm tùy phi điểu quyện,
Ân ba hải khoát túng lân trì.
Sinh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
(Cảm xuân, I)
(Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng
ngồi.
Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
Tới năm chục tuổi biết suy rồi.
Mơ màng nước cũ chim bay mỏi,
Khơi thẳm nguồn ân, cá khó bơi.
Đảm khí ngày nào rày vẫn đó,
Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi!)
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài thơ gợi một cảm xúc thực man mác,
bâng khuâng! Trước mặt người đọc
hiện ra hai con người: một người thơ
và một anh hùng. Người thơ ngồi
lặng trong phòng như si như ngây, suy tưởng
mênh mang về đất nước, về
tuổi trẻ và những tháng năm đã trôi vào
dĩ vãng; còn người anh hùng thì luôn luôn
tỉnh táo, nghiêm trang canh giữ xã tắc trong bao
nhiêu năm không lúc nào lơi lỏng, và vẫn
chờ đợi với tấm lòng hăng hái
những nhiệm vụ hệ trọng mà xã
tắc phó thác cho mình! Tưởng chừng hai con
người là hai nhân vật khác hẳn nhau, đồng
hành trên suốt một chặng đường dài...
vừa chẵn năm mươi năm. Nhưng nào
đâu có phải! Phải nói, có được cái
mê si đầy khoái cảm của chàng thi nhân kia
- mê si trong khung cảnh yên bình, nhàn nhã của
đất nước - cũng là nhờ cái
tỉnh táo trường kỳ, không biết
mệt mỏi của người tráng sĩ
nọ, và quả tình là ở phần cuối bài
thơ, cả anh hùng và thi nhân đều đã
nhập trở lại trong một hình tượng
nhất trí. Cảm hứng của người thơ
có vẻ như lâng lâng, dàn trải ở phần
đầu, đến đây cũng được
xác định lại cụ thể, là niềm
hứng khởi, là ý thức sắc bén trước
nhiệm vụ đối với đất nước,
đúng y như cảm hứng của anh hùng:
Sinh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
(Chí khí dũng lược lúc bình sinh hãy còn hăng
hái,
Muốn quật ngã gió đông mà ngâm lên một bài
thơ).
Như vậy, nền tảng của sự
thống nhất giữa hai con người trong thơ
Trần Quang Khải chính là sức mạnh và yêu
cầu thường trực về sự vững
mạnh của xã tắc giang sơn; nhờ có nó
người ta nhận thức được
rằng mình vẫn còn và tất yếu phải còn
nguyên "đởm khí" - dồi dào sức
trẻ. Cũng nhờ có nó, mặt khác, người
ta lại cảm thấy cái hạnh phúc được
sống và quên bẵng rằng mình đang sống,
nghĩa là được thoải mái đắm mình
theo nhịp trôi chảy của thời gian, để
rồi đôi khi nhìn lại mà bỗng thốt
giật mình.
Sự thống nhất giữa người thơ và
anh hùng trong thơ Trần Quang Khải còn là sự
thống nhất giữa hai bình diện khác nhau
của cùng một con người Việt Nam ở
thời đại Lý - Trần: con người
biết mê mải vui say trong nhiều niềm vui
của cuộc sống đang lên, và ngược
lại, cũng biết tự cảnh giác với
mọi đam mê vô ích, để nhân sức
mạnh của mình lên mà tỉnh táo chống
trả với mọi kẻ thù đang dòm ngó sơn
hà xã tắc.
Con người đó, ngay trước khi bước
vào giấc ngủ cũng đã mở to con
mắt: "đề phòng" dõi nhìn về
những miền biên giới thân yêu:
Nam vọng lang yên vô phục khởi,
Đồi nhiên nhất tháp, mộng thiên an.
(Phúc Hưng viên)
(Trông về Nam khói lửa không còn tái diễn,
Trên giường nằm ngủ yên tâm trong giấc
mộng).
Con người đó, giữa lúc chuếnh choáng vài
chén giải khuây vẫn không quên phận sự, trái
lại, còn biết nâng cao tấm lòng tráng chí:
"Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa",
làm cho sự giải khuây tăng thêm phần ý nghĩa:
Khử sầu lại hữu tam bôi tửu,
Phủ kiếm du du ức cố sơn.
(Cảm xuân, II)
(Tiêu khiển nay nhờ ba chén rượu,
Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa)
(Ngô Tất Tố dịch)
Và con người đó, khi soi bóng trên dòng sông mà
mặc cảm về mái tóc bạc trắng, cũng
vẫn giữ được niềm lạc quan
thanh thản, vì biết tin vào lịch sử trường
tồn của đất nước, nó là cái
bảo đảm vững chắc nhất cho
những gì còn lại của cá nhân mình và sự
nghiệp của mình:
Thái bình đồ chí kỷ thiên lý,
Lá đại quan hà nhị bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.
(Lưu Gia Độ)
(Cơ đồ đất nước lúc thái bình
rộng mấy nghìn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Khách thơ trở lại đây đầu đã
bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống lòng sông
buổi trời tạnh).
Từ một con người đặc sắc
nhiều mặt như thế, Trần Quang Khải
đã để lại rất nhiều mối
cảm tình cho người đọc thơ ông. Có
thể nói, chân dung một Trần Quang Khải nhà
thơ đã hòa quyện với chân dung một
Trần Quang Khải ở trong sử sách, cũng như
một Trần Quang Khải ở trong sử sách,
đã làm giàu thêm sức sống và thi liệu cho
một Trần Quang Khải trong thơ. ấn tượng
sâu sắc của người đọc thơ
Trần Quang Khải càng trở nên rất đẹp
khi được gắn liền với những
giai thoại trong mối quan hệ giữa ông và
Trần Quốc Tuấn: hai ông đã vì việc nước
lúc ấy mà bỏ hết hiềm khích cũ,
trở thành hai ông quan đầu triều gương
mẫu, cũng là hai người anh em rất
mực thân tình. Đại Việt sử ký toàn thư
đã có những dòng rất cảm động
để kể về điều này: "Một
hôm Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp đến,
Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày
mới về. Lại tính Quang Khải lười
tắm gội, Quốc Tuấn thì thích xông
tắm, từng nói đùa với Quang Khải
rằng: "Thân cáu bẩn xin tắm giùm".
Rồi Quốc Tuấn cởi áo Quang Khải ra,
lấy nước thơm tắm cho ông và nói:
"Hôm nay được tắm cho Thượng tướng".
Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được
Quốc công tắm cho". Từ đấy hai người
vui chơi với nhau, tình thân càng mặn" (Đại
Việt sử ký toàn thư, bản dịch,
Tập II. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967,
tr.72).
Trong vô vàn cái đẹp của đời
sống, tưởng không có gì đẹp hơn là
những con người biết tự vượt mình.
Nhưng trong số những con người biết
tự vượt mình, tưởng không có gì cao
cả hơn là những người biết
gắng sức theo cùng tầm thước lịch
sử mà lớn vượt lên. Trần Quốc
Tuấn, Trần Quang Khải và nhiều nhân
vật đời Trần đã chiến thắng
oanh liệt kẻ thù phương Bắc và
sống mãi cho đến ngày nay, chính là những
con người như vậy!
*
* *
Nhưng tất cả những điểm nổi
bật ở thi sĩ Trần Quang Khải mà ta
vừa viện dẫn cũng sẽ không hoàn toàn
thu hút được sự chú ý rộng rãi
của các thế hệ sau, nếu như trong văn
nghiệp của ông không có một bài thơ
tuyệt tác: bài Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá
trở về kinh). Bài thơ làm vào khoảng
những ngày cuối thượng tuần tháng
Bảy năm 1285, tức là trong những ngày
thắng lợi tưng bừng của cuộc kháng
chiến lần thứ hai. Ngày 9 tháng Bảy năm
này, Trần Quang Khải được lệnh
hộ giá hai vua Trần trở lại kinh đô
đã sạch bóng quân giặc. Và bài thơ
của ông đã ra đời vào dịp ấy,
gồm vẻn vẹn 4 câu thơ 5 chữ:
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
Bốn câu thơ thật ngắn gọn, ý tứ cũng
không có gì hóc hiểm, nhưng đã sống trong
mọi trí nhớ, đem lại niềm bồi
hồi, xúc cảm cho rất nhiều thế
hệ, không khác gì một bài Bình Ngô đại cáo,
một bài Hịch tướng sĩ, một bài Nam
quốc sơn hà.
Hãy bàn về hai địa danh Chương Dương,
Hàm Tử của bài thơ. Đối với tác
giả thì đây là những sự kiện hãy còn
quá mới mẻ. Chỉ mới trước khi ông
đặt bút viết bài thơ đúng hai tháng thôi,
hai trận thắng oanh liệt Chương Dương,
Hàm Tử đã diễn ra, làm kinh hoàng quân
giặc, và cũng mở ra cơ hội để
quân Trần lật lại thế cờ. Nhưng
mới có hai tháng mà hai địa danh chưa ai quen
biết đã bước hẳn vào địa
hạt của thơ, y như những điển
cố quen thuộc nói về chiến công vẫn thường
gặp trong sách vở. Trước Trần Quang
Khải, chiến công anh hùng của dân tộc cũng
đã có nhiều, và thơ nói về chiến công
cũng không ít, nhưng một địa danh
cụ thể của một chiến công nào
được văn thơ ghi lại thì chưa
hề có. Thế mà ở đây, lần đầu
dùng những địa danh Việt Nam để nói
về chiến trận, người viết lại
không chút bỡ ngỡ, lúng túng, trái lại,
vẫn dồi dào cảm xúc. Đấy quả là
điều lạ!
Vậy, cái lý do gì làm cho Trần Quang Khải nói
đến Chương Dương, Hàm Tử mà xúc
động thành thơ? Phải nói đây là hai cái
tên tượng trưng cho cả một chiến
dịch lớn của quân dân nhà Trần. Bấy
giờ, sau nhiều ngày tháng liên tiếp đuổi
theo hai vua Trần không có kết quả, đạo
quân Nguyên Mông hùng hổ và kiêu căng, chỉ
biết ỷ vào sức mạnh đã dần
dần lâm vào thế bị động. Hai vua
Trần và Trần Quốc Tuấn liền hạ
lệnh cho quân sĩ phản công. Tháng Năm năm
1285, Trần Nhật Duật cùng một số tướng
sĩ được lệnh đem quân đến
đón giặc ở cửa Hàm Tử - nay thuộc
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Giặc Nguyên
đại bại. Thừa thắng, Trần Quang
Khải cùng một số tướng sĩ khác
lại được lệnh đem quân đánh úp
Chương Dương - nay thuộc huyện Thường
Tín, Hà Tây. Cuốn Kinh thế đại điển
tự lục đời Nguyên đã thừa
nhận: "Thủy lục đến đánh vào
đại doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết
nhiều nhưng quân tăng thêm càng trở nên
đông. Quan quân - nhà Nguyên - sớm tối đánh
rất khốn đốn, thiếu thốn, khí
giới đều kiệt" (Dẫn theo Hà Văn
Tấn và Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, tr. 235). Và
thế là bắt đầu một cuộc tháo
chạy của đám tàn quân Trung Quốc ra
khỏi thủ đô của Đại Việt,
rồi từng bước, từng bước rút
lui thục mạng về nước.
Trên đường trở về kinh đô đúng
giữa ngày toàn thắng, tất cả những hình
ảnh sốt dẻo của cái chiến dịch mà
chính mình vừa tham gia, chắc vẫn chưa thôi
xôn xao trong tâm trí Trần Quang Khải, chưa
hết làm ngạc nhiên, sảng khoái tâm hồn nhà
thơ. Cái nhân tố gì đã giúp cho non sông xã
tắc ta giành được thắng lợi? Trước
một kẻ địch thiện chiến và kiêu hùng
đến như vậy, làm sao quân ta lại có
thể giáng cho chúng những đòn thất điên
bát đảo, và thần tốc đến chính người
trong cuộc cũng ít ai có thể ngờ? Lạ lùng
quá đi thôi! Nhưng mà sự thực vẫn còn
kia: này đây là Chương Dương, này đây
là Tây Kết, này đây là Hàm Tử. Lòng nhà thơ
bỗng rộn lên một niềm bâng khuâng khôn
tả. Ông ngẫm lại những ngày long đong
xa giá triều đình đã phải ra đi,
ngẫm lại bao nhiêu cái giá đã phải
trả cho cuộc chiến thắng... và đột
nhiên, một chân lý bỗng lóe hiện trong óc ông:
chiến thắng này phải đâu giờ đây
mới đến. Nó đã được
chuẩn bị từ ngày đất nước còn
thanh bình. Vì chính vào những ngày đó, cả nước
đã biểu hiện sự chung sức chung lòng;
người trên biết "nới sức dân
để làm kế sâu rễ bền gốc";
kẻ dưới biết quyết tâm "Sát Thát"
và có tinh thần thắng giặc. Chân lý đến
với Trần Quang Khải và cảm hứng thi ca
cũng đến cùng một lúc. Nhà thơ
thấy không thể không thốt lên, bằng
những lời rất tiết kiệm và súc tích,
để nhắc nhở con cháu, cũng là để
nhắc nhở với lòng mình:
Cướp giáo Chương Dương đó!
Bắt thù Hàm Tử đây!
Thái bình nên gắng sức,
Muôn thuở nước non này!
(Trinh Đường dịch)
Không có gì gọn ngắn và đơn giản hơn
nữa. Quả là buột thốt thành thơ! Song cái
ý chứa đựng bên trong, cái ý nhắc nhở
của nhà thơ, thì không chút tầm thường
và đơn giản. ở đâu và bao giờ cũng
cần một lời nhắc như vậy!
Những chiến công chói lọi của ông cha
thật đáng tự hào cho con cháu. Nhưng càng
tự hào, càng không quên quá khứ, thì càng
phải làm sao sống những phút giây hiện
tại cho thật ý nghĩa. Trên hay dưới, ai
cũng như ai, đều phải sử dụng
thích đáng từng phút từng giây thanh bình vô giá
đó. Có thế mới xứng đáng tiếp
nối được cái "nước non" mà
cha ông trao vào tay mình, mới làm cho "nước
non này" trở thành "nước non muôn
thuở".
*
* *
Hơn một trăm năm sau bài thơ của
Trần Quang Khải, chúng ta lại được
đọc bài Quá Hàm Tử quan của Trần Lâu,
một nhà thơ đồng thời là nhà giáo
đời Hồ. Không ai biết nhiều về
cuộc đời và văn nghiệp của nhà thơ
họ Trần này, chỉ biết ông đỗ
đến Tiến sĩ (Thái học sinh) và để
lại cho hậu thế chỉ có bài thơ duy
nhất, cảm tác về cửa Hàm Tử ấy.
Nhưng có lẽ cũng chính nhờ bài thơ duy
nhất đó mà tên tuổi ông còn được
lưu truyền. Bài thơ như sau:
Thuyết trước sa trường cảm khái
đa,
Nhi kim Hàm Tử mạn kinh qua.
Cổ chinh húng dũng triều thanh cấp,
Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà.
Vương đạo hồi xuân nồng cổ
thụ,
Hồ quân bão hận thấu hàn ba.
Toa Đô thụ thủ tri hà xứ?
Thủy lục sơn thanh nhập vọng xa.
(Cảm khái bao nhiêu cuộc chiến này!
Mà nay Hàm Tử mới qua đây.
Trống chiêng rộn rịp: triều lên gấp,
Cờ xí tưng bừng: tre lả lay.
Vương đạo hồi xuân, cây thắm
lại,
Quân Hồ ôm hận, sóng vùi thây.
Toa Đô nộp mạng nơi nào nhỉ?
Nước biếc non xanh mắt chứa đầy!)
Rõ ràng là trên cùng một sự kiện lịch
sử mà cảm hứng thơ đã khác xưa.
ở đây, nhịp điệu thơ trầm tĩnh
hơn, hình tượng thơ tỏa rộng xen
lẫn chất trầm tư, tứ thơ trở nên
man mác. Quả là lời thơ của người
đời sau, tức cảnh mà cảm khái về
lịch sử, chứ không còn là người trong
cuộc hào hứng xúc động về sự
kiện nóng bỏng của thời đại mình.
Và nói chung, những điều nhận xét về
Trần Lâu cũng hoàn toàn đúng đối
với tất cả những thơ văn cảm tác
về Chương Dương, Hàm Tử làm ra sau bài
Phò giá trở về kinh: chúng đều là
những đóng góp có tính chất bổ sung hay tô
đậm thêm vào cái phần sáng tạo căn
bản của Trần Quang Khải; song chúng không
thể làm lu mờ, càng không thể thay thế
bốn câu thơ tinh túy của nhà thơ đời
Trần.
Lại cũng có thể ngờ rằng mấy câu:
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là
bắt mạch xa gần từ trong hình tượng
thơ của bài Phò giá trở về kinh. Mấy
chi tiết lẫn lộn về lịch sử
ở đây - Toa Đô không phải bị bắt
ở Hàm Tử mà bị giết chết ở
trận Tây Kết lần thứ hai; trái lại Ô
Mã Nhi không phải bị giết mà bị bắt
sống ở Bạch Đằng chẳng làm người
đọc bận lòng cho lắm, nhưng cái hình
ảnh bắt giặc ở cửa Hàm Tử thì
cứ y như thoát thai từ nguồn cảm
hứng tươi rói của câu thơ: Hàm Tử
bắt quân thù.
Còn như mấy câu lục bát của tác giả
Đại Nam quốc sử diễn ca.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo ra vào có công.
Hàm Quan một trận ruổi rong,
Kìa ai bắt giặc uy phong còn truyền.
Thì không nghi ngờ gì nữa, đó là dư âm
trực tiếp của hai câu thơ đầu trong
bài Tụng giá... nổi tiếng của Trần
Quang Khải.
|