|
Phan Chu Trinh (1872 - 1926)
Phan Chu Trinh sinh năm Nhâm Tuất (1872) niên
hiệu Tự Ðức 26, tự là Tử Can,
hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, quê
ở xã Tây Lộc, huyện Tiên Phước,
phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam .Thân phụ ông
là Phan Văn Bì?h, theo nghề võ và đã tích
cực chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương
. Thân mẫu là Lê Thị Chung, con một nhà
thế gia vọng tộc tại làng Phủ Lâm
rất tinh thông Hán học và có nhiều đức
hạnh .Thuở thiếu thời Phan Chu Trinh
được hiền mẫu ân cần chăm sóc,
trong khi phụ thân mãi lo công việc võ biền .
Chẳng may mẹ mất sớm, vì cha phải
bận với võ nghiệp, ít săn sóc đến
việc học hành hành nên mãi đến năm lên
10, Phan Chu Trinh mới được vào trường
học tập.Vì mối tình yêu nước sớm
nẩy nở trong trí của Phan Chu Trinh nên trong lúc
các bạn đồng học chăm chỉ
ngốn những lời giảng dạy của
thầy để nhồi vào óc đạo lý và
chữ nghĩa của Thánh hiền, ông tỏ ra
rất xao lãng, thờ ơ . Do đó, trong suốt
ba năm liền học tập, Phan Chu Trinh chỉ
học lấy lệ Năm 1885, kinh thành Huế
thất thủ, vua Hàm Nghi phải chạy trốn
ra Quảng Trị . Các đạo Cần Vương
kháng Pháp nổi lên khắp các nơi . Ðể cho
Phan Chu Trinh có một nghề hợp khả năng
và cũng đồng thời được đắc
dụng trong buổi non sông nghiêng ngửa, thân
phụ ông cho ông theo học nghề võ . Lúc bấy
giờ thân phụ ông được cử làm
Chuyển vận sứ đồn A Bá thuộc
hạt Tam Kỳ .
Năm 1887, vì nghi kỵ, thân phụ Phan Chu Trinh
bị hại, việc học tập võ nghệ
của ông bị gián đoạn. Nhờ người
anh cả rước thầy về cho ông tiếp
tục học nghề văn . Vì nhận thấy
muốn có uy tín để thực hiện chí
lớn tron việc cách mạng để giành
lại chủ quyền của đất nước,
nên ông đổi sang học nghề nghiên bút,
chớ thực ra ông không bao giờ thích cái
lối học hư văn .Theo học bốn năm
ở nhà . Phan Chu Trinh tỏ ra thông minh tuyệt
vời, ông thường có những lý luận sâu
sắc , những nhận xét tinh vi .
Năm 1889, theo thụ nghiệp với vị Ðốc
học Trần Mã Sơn, Phan Chu Trinh được
bổ vào ngạch học sinh .
Năm 1900, trong kỳ thi Hương, Phan Chu Trinh
thi đỗ Cử Nhân, và qua năm sau 1901, ông
đỗ Phó Bảng (nhằm niên hiệu Thành Thái
thứ 13).
Ông được bổ làm Thừa Biện
ở Huế, ít lâu sau, người anh cả
của ông mất, ông xin về quê dạy học .
Năm 1903, ông được bổ làm Thừa
Biện ở Bộ Lễ . Trong thời gian từ
1902 đế 1905, Phan Chu Trinh có dịp học
những tác phẩm có tư tưởng cách
mạng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, Voltaire ...
Càng tiếp xúc nhiều với các quan trường,
Phan Chu Trinh càng thấy rõ cảnh thối nát ,
hủ bại trên đường cử nghiệp .
Lúc bấy giờ lực lượng Cần Vương
lần lần tan rã, thực dân Pháp bắt đầu
đặt nền thống trị trên đất nước
Việt Nam .Trước cảnh non sông nghiêng
ngửa, nhận thấy sự bất lực và
thối nát của triều đình Huế, Phan Chu
Trinh xin từ quan và bắt đầu hoạt động
chính trị với các ông Phan Bội Châu, Lương
Ngọc Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp . Sau
khi từ quan về hoạt động chính
trị, Phan Chu Trinh đã cùng với hai bạn
đồng khoa là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng
rủ nhau vào Nam vận động đồng bào
các giới . Vào đến Bình Ðịnh gặp lúc
quan tỉnh mở một kỳ thi cho học trò,
đầu bài là Chí thành thông thánh và Lưỡng
Ngọc danh sơn ba ông mạo tên là Ðào Mộng
Giác nộp quyển làm bài Phan Chu Trinh làm bài thơ
và hai ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài
phú . Những bài này không theo quy tắc thông thường
mà cốt để thức tỉnh nhóm sĩ phu .
Quan tỉnh không dám quả quyết phải
dịch sang chữ Pháp để trình viên Khâm
sứ đồng thời truy tầm tác giả
của hai bài văn cách mạng kia, nhưng không có
kết quả Việc này đã có ảnh hưởng
lớn đến đám sĩ phu thời bấy
giờ . Tới Phan Thiết, Phan Chu Trinh bị
bệnh phải quay trở về Huế . Sau
mấy tháng dưỡng bệnh, ông ra Bắc tìm cách
lên Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám, nhưng
chính sách bạo động của Hoàng Hoa Thám không
thích hợp với chủ trương của ông,
nên ông lại xuống Trung Châu Bắc Việt
vận động với nhóm nho sĩ Bắc Hà .
Ðâu đâu ông cũng đề xướng
chủ trương tân học, cực lực đả
kích các quan trường tham lam và những nhà
hủ nho . Trong thời gian này ông kết nạp
được một số đồng chí đáng
kể . Phan Chu Trinh tán thành phong traò xuất dương
du học do Phan Bội Châu khởi xướng .
Lời kêu gọi của Phan Bội Châu, với
sự hưởng ứng của Phan Chu Trinh gây
được một phong trào xuất dương
rất rầm rộ . Ðể được quan sát
tại chỗ sự tiến triển của các nước,
Phan Chu Trinh liền trốn sang Trung Hoa . Ông gặp
Phan Bội Châu tại Hương Cảng rồi
hai ông cùng sang Nhật. Ở đó được
10 tháng, ông lên đường về nước (năm
1906) . Phan Chu Trinh quyết đứng ra tranh đấu
công khai với chính quyền bảo hộ Pháp . Ngày
15 tháng 8 năm Bính Ngọ (1906) , ông gởi lên Toàn
Quyền Pháp ở Ðông Dương một bức
thư dài 12 trang gồm mấy điểm sau đây
:
- Do sự dung túng của chính quyền Bảo
Hộ mà những bọn tham quan ô lại lộng hành
khiến cho người Việt Nam bạc nhược
suy yếu .
- Chính quyền Bảo Hộ đã dùng một chính
sách bạo ngược, tàn ác đối với dânViệt
Nam, không tôn trọng sinh mạng con người,
muốn chém giết ai tùy ý .
- Do những cách đối xử tàn ác này, mà
bọn quan lại lợi dụng quyền thế
bắt nạt dân chúng, tìm cách vơ vét cho đầy
túi tham, gây nên một tình trạng bi đát trong dân
chúng. Bức thơ của Phan Chu Trinh đã có
ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng . Ông
bắt đầu hoạt động mạnh, hô hào
tổ chức nhiều buổi diễn thuyết
tại trường Ðông Kinh Nghĩa Thục .
Thực dân Pháp để ý căm thù và triều
đình Huế cũng rất bực tức
quyết tìm cách hãm hại ông. Nhưng Phan Chu Trinh
vẫn không màng đến, ông đứng ra lãnh
đạo phong trào duy tân, khuyến khích đồng
bào mở trường dạy học, lập các
hội buôn như Ðông Kinh Nghĩa Thục, Hồng
Hưng Tân, công ty Minh Tân, ông cảm hóa được
rất nhiều nhân sĩ . Phan Chu Trinh lại hô hào
thanh niên vận Âu phục , cắt tóc ngắn,
ủng hộ các sản phẩm và hàng nội hóa
để giúp cho nền kinh tế trong nước
được dồi dào . Ða số thanh niên trong
toàn quốc đã nhiệt liệt hưởng
ứng phong trào duy tân này .
Năm 1908, tại tỉnh Quảng Nam phong trào kháng
thuế nổi lên mạnh mẽ lan rộng các
tỉnh miền Trung Việt. Ðầu mùa Xuân năm
1908, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Ðông
Kinh Nghĩa Thục . Nhân việc kháng thuế
ở Quảng Nam, vốn đã không ưa Phan Chu
Trinh vì ông đã nhiều lần đả kích và
nguyền rủa thậm tệ chúng, nên bọn quan
lại Nam triều và thực dân Pháp đổ cho
ông "xui dân làm loạn" và "phá
rối" liền bị hạ lệnh bắt ông
... Rất nhiều nhân sĩ bị bắt, và trong
dịp này, ông nghè Trần Quý Cáp bị Nam
Triều lên án xử chém tại Nha Trang . Riêng Phan
Chu Trinh bị bắt đem về giam tại tòa Khâm
Sứ. Ðể phản đối hành động
khủng bố của thực dân, Phan Chu Trinh
tuyệt thực trong bảy ngày . Nhận thấy tình
thế khó xử, viên Khâm Sứ Pháp phải giao
trả ông về Cơ Mật Viện của tòa án
Nam Triều, ông bị bọn quan lại kết án
tử hình . Nhờ có hội Nhân Quyền can
thiệp với chánh phủ Pháp. Chính quyền
Bảo Hộ phải điều đình với Nam
Triều đổi bản án "tử hình" ra
"Côn lôn ngộ xá bất nguyên" (bị đày
ra Côn đảo mãn kiếp không được ân
xá ". Bỏ giam ở nhà lao Phủ Thừa
được it' lâu, Phan Chu Trinh bị đày
đi Côn đảo . Lúc đi ngang qua cửa Thượng
Tứ (Huế), ông đã ngâm bốn câu thơ
bằng chữ Hán mà ông Phan Khôi đã dịch như
sau Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,
Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn
Ðất nước hãm chìm dân tộc héo
Làm trai đâu xá thứ Côn-lôn
Trong cảnh tù đày, nhưng Phan Chu Trinh rất
được chính phủ Pháp trọng đãi và
kính nể. Chính viên Thống Ðốc Nam Kỳ
đã ra tận Côn đảo để tìm
hiểu lập trường tranh đấu của
ông . Năm 1910, nhờ có hội Nhân Quyền Pháp
(do sự vận động của ông Ernest Babut
trong 3 năm trời) can thiệp ráo riết với
chính phủ Pháp, thủ tướng Pháp lúc
bấy giờ là Klobulowsky và Tổng trưởng
Bộ Thuộc địa là Trouillet lập Hội
đồng để xét án Phan Chu Trinh . Chánh Tham
Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau được
cử làm chánh án . Mặc dù đã được
ân xá, nhưng ông cũng bị thực dân Pháp tìm
cách giữ mãi tại Mỹ Tho .Ông phản kháng và
cương quyết đòi trở về Côn Ðảo
. Chính phủ Pháp đành phải để ông
tự do .Vì muốn tranh đấu có hiệu
quả trong việc cải cách nền chính trị
nước nhà và đồng thời để
được học hỏi thêm, năm 1911, Phan
Chu Trinh đã sang Pháp với Toàn Quyền Klobulowsky,
cùng theo ông có người con trai tên là Phan Chu
Dật .
Tại Ba Lê, ông gởi con vào trường
học còn ông thì lại làm nghề rửa ảnh
để sinh sống .Dù cho phải sống xa quê hương,
ông vẫn không ngừng hoạt động tranh
đấu cho đất nước. Ông viết báo
Pháp phản đối việc đào lăng
Tự Ðức, yêu cầu chính phủ Pháp nên
cấp tốc thay đổi chính sách thuộc
địa, giáo dục tinh thần tranh đấu
của Việt kiều tại Pháp . Ông tìm cách liên
kết với các lãnh tụ thuộc đảng
cấp tiến ở Pháp . Ông không tiếc lời
đả kích những nạn tham nhũng thối nát
của thực dân Pháp ở Ðông Dương và
chỉ trích chính sách cai trị của họ . Phái
khuynh tả ở Pháp rất tán thành việc làm
của Phan Chu Trinh, nhưng các quan lại ở các
thuộc địa Pháp rất căm thù và oán ghét
. Tiền trợ cấp của ông và tiền
học bổng của con ông là Phan Chu Dật đều
bị truất, đó là kết quả sự
trả thù của thực dân .Hai cha con ông phải
sống kham khổ và vất vả với số lương
rửa ảnh của ông hàng tháng là 50 quan . Dù
phải sống trong cảnh đói rét, khốn
khổ đủ mọi bề, Phan Chu Trinh vẫn cương
quyết tranh đấu cho lý tưởng cao cả
.
Năm 1914, chiến tranh Pháp Ðức bộc phát,
tại quê nhà vua Duy Tân nhân cơ hội đó gây
biến, nhưng cuộc khởi nghĩa thất
bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém
. Vua Thành Thái và Duy Tân bị thực dân Pháp đày
sang đảo Réunion .Vì không chịu đi lính cho
Pháp để đánh Ðức, Phan Chu Trinh bị vu
cáo là làm gián điệp cho Ðức, nên ông bị
bắt giam vào ngục SANTE . Nơi đây ông
bị hăm dọa đủ điều, nhưng
tấm kiên trung vẫn không bao giờ thay đổi
. Dùng võ lực không được, người ta
đã đem tiền bạc, quyền tước
để mua chuộc ông , nhưng cũng vô
hiệu quả . Nhờ sự can thiệp của Ðảng
Xã Hội và Hội Nhân Quyền Pháp, năm 1915 chính
phủ Poinceré phải ký giấy phóng thích ông.
Vừa thoát khỏi cảnh giam cầm, Phan Chu Trinh
lại phải khóc con . Phan Chu Dật sau 6 năm
học tập đã thi đỗ bằng Tú Tài
Vật Lý Học, được cha ủy thác
sứ mạng về nước để hoạt
động . Vì bao năm sống thiếu thốn
đói lạnh, Chu Dật mang phải bệnh lao
phổi . Về đến quê nhà chưa đầy
một năm, Chu Dật mất .
Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc
đấu xảo quốc tế ở Ba Lê, Phan Chu
Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời
lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh
phải thoái vị nhường quyền lại cho
quốc dân và kể bảy tội nhà vua đã làm
và đáng tội chém đầu .Có đoạn ông
đã viết : "... Một là vì Trinh này đối
cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt
hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ
đứng vào cái địa vị đối
đãi mà thôi, cho nên bức thư này không
phải dâng lên cho bệ hạ mà chính là gửi
cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng
đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã
quen trong Hán văn đó mà thôi ... ngày nay Trinh này
đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo
là cái tên húy của bệ hạ , để
tỏ ý phản đối ." Bức thư
của ông, sau khi được công bố, khích
động được tinh thần tranh đấu
của đồng bào trong và ngoài nước .
Năm 1925, chính phủ Pháp nhận thấy Phan
Chu Trinh là một người ái quốc chân chính có
chính sách ôn hòa, nên có ý muốn giúp đỡ ông
. Phái tả đảng bên Pháp từ lâu đã có
cảm tình với ông được thắng
phiếu trong cuộc bầu cử Nghị Viện
và lên nắm chính quyền . Thấy cơ hội
thuận tiện cho mình đem tài trí ra giúp dân giúp
nước, ông xin trở về quê nhà và
được chính phủ Pháp chấp nhận.
Về đến Saigon, Phan Chu Trinh có ý định
ở lại trong Nam ít lâu rồi sẽ ra Trung
Bắc để hoạt động. Dù tuổi già
sức yếu, bệnh hoạn vì bao năm sống
vất vả thiếu thốn ở Pháp, Phan Chu
Trinh vẫn hăng hái tranh đấu . Ông vận
động với nhà cầm quyền Pháp để
xin ân xá cho Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng
Hải và sửa soạn hai bài diễn văn để
đọc trước công chúng :
1. Ðạo đức và luân lý Ðông Tâỵ
2. Quân trị chủ nghĩa, dân trị chủ
nghĩạ
Hai bài diễn văn trên đây đã bày tỏ
được chính kiến của một nhà cách
mạng chân chính, với lòng yêu nước
nhiệt thành . Ngày 24-12-1925, sau khi hay tin việc
vận động xin ân xá của quốc dân đã
có kết quả và Toà Quyền Varenne đã ký
giấy ân xá Phan Bội Châu . Phan Chu Trinh định
ra Huế để được gặp người
bạn đồng chí để cùng nhau tâm sự,
nhưng ông bị đau không đi được
. Các sinh viên trường Ðại học Hà Nội
đánh điện văn mời ông ra Bắc để
diễn thuyết . Chưa kịp đi thì ông
được biết tin vua Khải Ðịnh
mất . Phan Chu Trinh đánh điện tín cho
Pasquier Khâm sứ Trung Kỳ hay ông sẽ ra để
lo việc cải tổ triều chính và lập dân
đảng .
Tiếc thay đại cuộc chưa thành,
bệnh tình của Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm
trầm trọng . Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm
ngày 12 tháng 2 năm Bính Dần) nhà cách mạng ái
quốc Phan Chu Trinh đã trút hơi thở cuối
cùng, hưởng thọ được 55 tuổi .
Một Hội đồng trị sự được
thành lập ngay đêm đó để lo việc
an táng cho ông ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí
Bắc đều tự động làm lễ bãi
khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Chu
Trinh rất trọng thể để chứng
tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và mến
tiếc nhà cách mạng đã suốt đời vì
dân vì nước .
|