|
Hai ông Phan, hai nhà đại cách mạng cùng
thời, cùng nổi danh, cùng nuôi ý chí phục
quốc, đã sống mãi trong lòng dân tộc
Việt Nam:
Nhất Phan
tử khứ, nhất Phan hoàn, ta tai tổ quốc
Thiên cổ văn
chương, thiên cổ tâm sự, thùy vi tiên sinh?
(Một Phan
đã mất, một Phan còn, thương thay
tổ quốc
Muôn thuở văn
chương, muôn thuở tâm sự, ai là tiên sinh?
Mai Đăng Đệ )
Trong cuộc đời hoạt động cứu nước,
hai ông đã có nhiều cơ hội gặp nhau,
ở quốc nội cũng như ở quốc
ngoạị Song vì chính kiến khác biệt, hai ông
chỉ là những kẻ đồng hành mà không là
đồng chí .
Phan Bội Châu chủ trương tôn quân và
bạo động, lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để làm minh
chủ. Trong tập "Tự Phán" ông nêu tôn
chỉ của Hội như
sau:
"Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp,
khôi phục Việt
Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến
quốc".
Phan Bội Châu còn đề xướng phong trào
Đông Du, vận động người trong nước
xuất dương qua Trung Hoa, Nhật Bản du
học để thâu nhận kiến thức
mới của nước ngoài về giúp nước
nhà, đồng thời mua vũ khí của Nhật
để tiếp tay cho các cơ sở chống Pháp
trong nước.
Phan Chu Trinh chủ trương đường
lối ôn hòa, chú trọng việc giác ngộ
quần chúng. Ông cho rằng ôn hòa thì tránh
được cuộc đổ máu cho đồng
bào, khi dân khôn
thì nước mạnh và ngoại bang tất
bị loại trừ.
Trong cuộc đối thoại với viên
Thống Đốc Pháp thẩm vấn ông tại
nhà tù Côn Đảo (năm 1908), Phan Chu Trinh đã
bày tỏ quan điểm bất đồng của
ông và Phan Bội
Châu:
"Phan quân nhận hẳn rằng người
Pháp không thiệt lòng khai hóa cho người Nam, nên
trước phải tìm cách đánh đổ chánh
phủ Pháp, mà muốn đánh đổ chánh
phủ Pháp, không nhờ cậy thế lực
một nước mạnh ngoài thì tự người
Nam không làm gì được. Hiện nay nước
mạnh, duy Nhật Bản là nước đồng
văn, đồng chủng nên cầu viện
với Nhật Bản. Tôi bác cái thuyết trên
của Sào Nam, lấy lẽ rằng người nước
Nam chui núp dưới chính thể chuyên chế trên
ngàn năm, chưa có tư cách quốc dân độc
lập, dầu có nhờ cậy sức nước
ngoài thì chỉ diễn cái trò "dịch
chủ tái nô" không có ích gì. Vả
lại nước Pháp là một nước làm
tiền đạo văn minh cả hoàn cầu,
nay hiện bảo hộ cả nước ta, mình
nhân đó mà học theo, chuyên dụng tâm về
mặt khai trí , trị sanh các việc thực
dụng, dân trí đã mở, trình độ
một ngày một cao, tức là cái nền độc
lập ngày sau ở đấỵ Còn theo chính
kiến tôi "cậy sức nước ngoài"
thì nó quanh co khúc chiết, mình không tự
lập, ai cũng là kẻ cừu của mình.
Triều Tiên, Đài Loan, cái gương rõ ràng,
người Nhật chắc gì hơn người
Pháp? Sào quân không nghe, cũng không nhận là
phải, phủi áo ra đi, làm theo ý kiến mình".
(Theo THI TÙ TÙNG THOẠI - Huỳnh Thúc Kháng)
Xuất phát từ quan điểm đó, Phan Chu
Trinh đã có chủ trương "Pháp Việt
đề huề". Chủ trương này là
một "sách lược quyền biến"
trong đường lối hoạt động cách
mạng của Phan Chu Trinh, khác sự hợp tác
với người Pháp của Tôn Thọ Tường
(mà Phan Chu Trinh, cũng như các ông Phan Văn
Trị, Huỳnh Mẫn Đạt qua các bài thơ
họa, đã từng chỉ trích), hay chủ trương
của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh khi
làm tạp chí Nam Phong, Đông Dương Tạp Chí.
Khi Phan Bội Châu đề xướng phong trào
Đông Du, Phan Chu Trinh đã hưởng ứng và
xuất dương sang Trung Hoa, Nhật Bản. Năm
1906, ở hải ngoại về, ông khởi xướng
công cuộc duy tân, đi diễn thuyết các nơi,
nêu cao chủ thuyết "Dân Quyền". Vì có
chủ trương ôn hòa, ông cho rằng có thể
hợp tác với người Pháp, nếu họ
thực tâm thực hiện những cải cách dân
chủ cho Việt Nam. (Bình luận chủ trương
này, có người cho Phan Chu Trinh đã nhận
định sai lầm về người Pháp, vì
thực dân không bao giờ thực lòng áp dụng
chính sách tốt đẹp cho dân thuộc địa).
Như vậy, chủ trương của hai nhà chí
sĩ họ Phan khác nhau từ căn bản. Trong
tập "Tự Phán", Phan Bội Châu viết:
"Ủng phù một vị minh chủ, kén
chọn trong Hoàng thân lập ra ...". Phan Chu
Trinh đã hỏi Phan Bội Châu: "Từ
thế kỷ 19 về sau, các nước tranh nhau càng
ngày càng dữ dội,tính mạng của một nước
gởi trong một số người đông,
chứ không thấy nước nào không có dân
quyền mà khỏi mất nước bao giờ.
Thế mà ngày nay lại còn định dựng
cờ quân chủ lên hay sao?"
Phan Chu Trinh từng đi diễn thuyết nói
về "Quân trị và Dân trị chủ nghĩa".
Ông so sánh hai chủ nghĩa đó và cho rằng:
"Chủ nghĩa Dân trị hay hơn
chủ nghĩa Quân trị nhiều lắm.
Lấy theo ý riêng của một người hay là
của một triều đình mà trị một nước,
thì cái nước ấy không khác nào một
đàn dê, được no ấm vui vẻ hay là
phải đói rét khổ sở chỉ tùy theo lòng
của người chăn. Còn như theo chủ
nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập
ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ
quan để lo việc chung cả nước, lòng
quốc dân muốn thế nào thì làm thế
ấỵ Dù không có người tài giỏi làm
cho hay lắm, cũng không đến nỗi
phải bị đè đầu khốn nạn làm
tôi mọi cho một nhà, một họ nào
...".
Thời đó, sĩ phu Việt Nam còn ngưỡng
mộ thành tích của các nhóm Văn Thân, Cần Vương,
còn nặng lòng trung quân ái quốc, ít ai dám
đưa ra một chủ trương mới
mẻ và táo bạo như vậỵ Bài bác
chủ nghĩa tôn quân, Phan Chu Trinh còn gởi thư
chỉ trích vua Khải Định (thư Thất
Điều) về chuyện đi dự cuộc
đấu xảo quốc tế tại
Pháp năm 1922.
Quả thật, ông là một kẻ sĩ ngang tàng,
khí phách, không biết sợ trời đất là
gì. Lúc còn đi học, ông đã từng chống
đối thầy dạy bất chính, khi ở tù
Côn Đảo thì đánh lại cai tù, ở
ngục Santé thì gởi thư cho thẩm phán quân
sự Pháp với lời lẽ khẳng khái,
bất khuất:
"Thằng Phan Chu Trinh thà chết
thì nó xách cái đầu của nó, nó quăng
xuống đất như chơi, nó chẳng
chịu làm thân trâu ngựa cho người ta
cỡi trên đầu, trên cổ nó đâu!".
Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu
Cầu Huyết Lệ Tân Thư", gồm 5
phần:
-
Nói về những điều
sỉ nhục vì nước mất, quyền
mất, thảm họa tương lai
-
Mở mang dân trí
-
Chấn động dân khí
-
Vun trồng nhân tài
-
Kỳ vọng ở những người
làm quan, lấy những sự nghiệp bất
hủ khuyên lơn họ được
nhiều người xem là có giá trị về
phương diện cổ động nhân sĩ
và
giới cầm quyền có tâm huyết đem tài
sức ra giúp
nước.
Phan Chu Trinh đọc sách này phê bình:
"Sào Nam là một người hào
kiệt nóng lòng việc nước mà kiến
thức thì chưa thoát khỏi khuôn sáo cũ chút
nào".
Dù có khuynh hướng chủ trương
khác nhau như vậy, hai ông vẫn tìm cơ
hội gặp gỡ nhau. Trong tập "Tự Phán",
Phan Bội Châu ghi:
"Ngày tháng 7 năm ấy, tôi mượn
tiếng là đi mừng bảng Hội, bắt
đầu ở nhà Tiểu La (Nguyễn Thành), thăm
nhà cụ Hoàng Thạnh Bình (Huỳnh Thúc Kháng)
vừa đụng cụ Tây Hồ (Phan Chu Trinh),
cụ Trần Thái Xuyên (Trần Quý Cáp), thảy
đều ở đó, nói chuyện suốt đêm
rất vui .."
Mỗi lần gặp gỡ, trong tinh
thần chung lo đại sự, Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh thường cùng nhau tranh biện sôi
nổi. Qua tập giới thiệu tác phẩm
"Giai Nhân Kỳ Ngộ" của Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng viết:
"Dịp đó hai người
gặp nhau, nghị luận tuy có chỗ không
hiệp nhau mà vẫn phục nhau, có cùng nhau bàn
việc phế khoa cử, lập hội thương,
trường học, song cũng chưa làm. Tháng
chạp năm ấy (1904) ông Sào Nam vào Quảng
Nam tới thăm tiên sinh (PCT) tại nhà rồi
về đi Nhật Bản. Tiên sinh mới
gặp ông Sào Nam, bác riết bài "Lưu
Cầu Huyết Lệ", cho là không hiệp
thời thế cuộc đời bây giờ, song
ông Sào Nam lúc đầu đang nóng về chủ
nghĩa bài ngoại, nên cũng không chịu
phục".
Tuy vậy, khi đã tâm phục nhau, thì
dù có khác chính kiến, hai ông vẫn kính trọng
và cảm mến nhau. Lúc Phan Chu Trinh qua Hong Kong, Phan
Bội Châu từ Nhật sang đón và ghi lại
cuộc trùng phùng ở đó:
"Hạ tuần tháng hai, cụ Tây
Hồ tới Hương Cảng, cụ cũng
qua ngay thăm ông Lưu (Vĩnh Phúc), ông
Nguyễn (Thiện Thuật), áo cụt, giày rách,
đầu tóc bồm xồm, trông cụ như phường
lao động nước ta, bởi vì cụ thay
lốt làm một tên nấu bếp ở dưới
tàu, mà cũng nhờ thủ đoạn ông Lý
Tuệ chỉ lốị Cụ vào nhà Lưu,
thấy chúng tôi, chưa chào đã cười, tôi
dậy bắt tay cụ, vui không thể nói
được ...".
Vẫn theo lời Phan Bội Châu, ra
hải ngoại cũng như ở trong nước,
Phan Chu Trinh vẫn xác định lập trường
của ông:
"Cụ hết sức công kích
những tội ác của dântộc độc phu
(kẻ không ở với ai, ám chỉ nhà vua) mà nói
đến hiện triều quân chủ, họa
quốc ương dân càng tỏ ra ý nghiện răng
rách mắt, hình như Cụ nghĩ rằng cái
tệ quân chủ chuyên chế không trừ thì tuy
phục quốc cũng chưa phải là hạnh
phúc". (Tự Phán)
Khi đưa Phan Chu Trinh sang Nhật, Phan
Bội Châu cũng xác nhận sự khác biệt
giữa hai ông về khuynh hướng đấu
tranh, dù Phan Chu Trinh vẫn công nhận công
trình Đông Du của Phan Bội Châu:
"Hồi tôi lên Đông Kinh,
Cụ Tây Hồ cùng đi với tôi, thăm qua các
học đường và khảo sát khắp
những công việc chính trị giáo dục
của Nhật Bản. Cụ bảo tôi rằng:
Trình độ dân Nhật Bản như thế, mà
trình độ dân ta như thế, không nô lệ
sao được! Được bấy nhiêu
học sinh vào nhà học Nhật Bản là sự
nghiệp rất lớn của ông. Từ nay nên lưu
Đông yên nghỉ, chăm việc làm sách,
bất tất nói bài Pháp làm gì. Chỉ nên đề
xướng dân quyền, dân đã biết có
quyền thì việc khác có thể tính lần
được.
Từ đó luôn mười ngày hơn, tôi
với cụ bàn bạc, ý kiến rất trái
nhau: cụ thì muốn đánh đổ quân
chủ, mà cốt vun trồng lấy nền
tảng dân quyền, hãy dựa vào Pháp mà đánh
đổ quân chủ. Còn ý tôi thì trước
muốn đánh đổ người Pháp,
chờ lúc nước nhà độc lập
rồi mới bàn đến việc khác.
Đương lúc đánh với Pháp phải
lợi dụng quân chủ.
Chính kiến của hai người rất
phản đối nhau, cụ với tôi đồng
một mục đích, mà thủ đoạn thì
khác nhaụ Cụ thì muốn dựa Pháp đánh
đổ quân quyền mà tôi thì bài Pháp phục
Việt, mâu thuẫn là thế. Tuy chính kiến
vẫn trái nhau, mà ý kiến rất ưa nhau"
(Tự Phán)
Mặc dầu có quan điểm chính
trị khác nhau như vậy, Phan Bội Châu và Phan
Chu Trinh không hoàn toàn tách biệt nhau trong cuộc
đời hoạt động. Nhân dịp ra
hải
ngoại, có lúc hai ông đã phân công cho nhau:
"Xem dân trí Nhật Bản
rồi đem dân trí ta ra so sánh, thật không
khác gì muốn đem con gà con đọ với
con chim cắt già. Giờ Bác ở đây, nên chuyên
tâm ra sức vào việc văn, thức
tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc,
mắt đui, còn việc mở mang dìu dắt
ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi
tôi đang còn, người Pháp chẳng làm gì tôi
được mà lọ"
(Ngục Trung Thư - Phan Bội Châu)
Phan Chu Trinh từng coi trọng Phan Bội Châu và
cố gắng thuyết phục Phan Bội Châu
từ bỏ chủ trương tôn quân, với
niềm hòa nhã:
"Ông hết sức trân trọng,
Quốc dân hy vọng chỉ nơi mình ông,
Kỳ Ngoại Hầu (Cường Để) không
cần gì đâu".
Phan Bội Châu nhận chịu lời
khuyên đó, nhưng chỉ tán đồng về công
cuộc duy tân của nhóm Phan Chu Trinh:
"Tôi kính vâng lời đinh ninh tái
hội và cậy nói với các ngài như cụ
Thạnh Bình, Thái Xuyên, Tập Xuyên hết
sức mở trí dân, kiết tập đoàn
thể sẽ làm hậu thuẫn."
(Tự Phán)
Về phần Phan Chu Trinh, ông cũng
thừa nhận phong trào Đông Du của Phan
Bội Châu có nhiều ảnh hưởng tốt
đẹp đối với công cuộc phục hưng
xứ sở và ông tin
rằng với vận hội mới Phan Bội Châu
sẽ đi theo con đường Dân quyền và
đạp đổ Quân quyền.
Thực ra, không phải Phan Bội Châu cố
giữ lập trường bảo thủ về tôn
quân, ông cũng tin rằng chế độ dân
chủ là tốt đẹp, song nghĩ rằng
vận mệnh nước nhà còn nằm trong tay
thực dân, dân trí còn thấp kém, chưa
đến lúc áp dụng đường lối
mới mẻ. Trong một bức thư gởi Phan
Chu Trinh, ông viết:
"Gần đây được
tin đại huynh cùng các anh em đồng chí
với những nghị luận ý chí mới
mẻ, tẩy trừ những não cổ hủ
để hấp dẫn tư tưởng
mới, làm cho tinh thần tôi vô cùng dũng dược
... Nhưng than ôi! Trình độ nhân dân Việt
Nam hiện còn ấu trĩ như răng chưa
cứng, chân chưa mạnh, nếu sử
dụng thì sao đang nổi. Nhân dân Việt Nam
ta so với Tây Âu hãy còn kém họ xa lắm, như
người còn đau, đang đâu nổi gánh
nặng. Nhân dân ngu muội đói khổ, nay mình
đem những lý luận cao siêu mà áp dụng không
sao tránh khỏi những việc lảo đảo
ngả nghiêng.
Nay đem ra một lý thuyết mà người ta
chưa biết đầu đuôi, rõ phía Nam, phía
Bắc ... Rồi sẽ vì ý kiến xung đột,
hành động mâu thuẫn nhaụ Thù ngoài chưa
diệt, nội bộ chống nhaụ Ôi dân
chủ, Dân không còn nữa thì chủ vào đâủ
Lúc bấy giờ, nếu Đại Huynh có
bầu nhiệt huyết cũng không còn chỗ
thi thố nữa ...
Vậy tôi đề nghị với Đại
Huynh với tình trạng nước ta, hãy chờ
ít lâu nữa, Đại Huynh xướng
thuyết Dân Chủ thì cử quốc đồng
bào nhiệt liệt hưởng ứng, trong đó
có tôị"
(Tự Phán)
Quả nhiên về sau, khi lập tổ chức
mới - Việt Nam Quang Phục Hội - ở
Quảng Châu, Phan Bội Châu đã thay đổi
lập trường, từ bỏ quan niệm quân
chủ và hứa hẹn
sẽ lập nước cộng hòa.
Sở dĩ hai ông Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh không
có những hành động quá khích vì tư tưởng
chống đối nhau mà đi đến chia
rẽ trầm trọng, cũng nhờ có những
phần tử trung gian vì đại cuộc tìm cách
đưa hai người xích lại gần
nhaụ Đó là các ông Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc
Kháng, Lương Văn Can ...
Ông Trần Quý Cáp vừa hoạt động cho nhóm
Đông Du, vừa hoạt động trong nhóm Duy Tân.
Ông Lương Văn Can từng nói: "Theo ý tôi,
ngoại viện (chủ trương Phan Bội Châu)
và tự cường (chủ trương Phan Chu
Trinh) phải đồng thời tiến hành
với nhau mới được".
Do đó, hai phái ôn hòa và bạo động
vẫn ngầm giúp nhau. Hồi đó tinh thần
đảng phái ít hơn ngày nay, có thể nói là
gần như hoàn toàn không có". (Đông Kinh
Nghĩa Thục - Nguyễn Hiến Lê)
Và cứ vậy, hai phong trào cách mạng của
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh chẳng khác gì hai bánh
xe cùng chạy trên hai đường sắt song
song, cùng có nhiệm vụ đưa
những toa tàu đến ga cuối cùng, đó là
mục đích tối hậu của công cuộc
giải phóng đất nước.
Chẳng may, khi sự nghiệp chưa thành, một
con chim ưu tú trong đàn chim Việt đã
sớm gãy cánh. Ngày 24-3-1926, Phan Chu Trinh tạ
thế. Đó là cái tang chung của
toàn thể dân Việt. Nhiều nhân sĩ, đoàn
thể đã dự đám tang Phan Chu Trinh ở Sài
Gòn, với rất nhiều đối trướng
và điếu văn. Ý nghĩa nhất là những
câu đối:
Vị quốc vong gia trấp tải
bôn ba thiên địa ải
Đỉnh thân cứu thế nhất xoang tâm
huyết quỉ thần kinh
Nhóm PHỤ NỮ VIỆT NAM
(Theo nước bỏ nhà, hai chục
năm bôn đào, trời đất hẹp
Liều thân cứu thế, một bầu sôi máu
nóng, quỉ thần e)
Thiên hạ quy chi tổ chức dân
đoàn suy đại lão
Tiên sinh khứ hỉ đả phiên đế
chế thị thùy nhân?
ĐÔNG PHÁP THỜI BÁO
(Thiên hạ theo chân, xây dựng dân đoàn tay già
giặn
Tiên sinh vắng bóng, đập tan đế
chế kẻ nào đây?)
Riêng câu đối viếng của Phan Bội Châu,
sâu nặng tâm tình:
Thương hải vi điền
Tinh Vệ hàm thạch
Chung Kỳ ký một Bá Nha đoạn huyền
(Biển biếc nên đồng, Tinh Vệ
ngậm đá
Chung Kỳ khuất bóng, Bá Nha đập đàn)
Đến
phút cuối cùng, vĩnh biệt người
bạn
đồng hành trên đường cách mạng,
Phan Bội Châu đã xem
Phan Chu Trinh là người tri kỷ, chẳng khác Bá
Nha, Tử Kỳ
ở Trung Quốc thời xưạ Hơn ai
hết, ông hiểu rõ tính
tình, tiết tháo của người chí sĩ
cùng thờị Câu "Chung
Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền" là
những giọt nước mắt
thống thiết và đau đớn nhất, khóc
một người bạn mà
ông cảm mến và tâm phục nhất, trong
cuộc đời bôn ba vì
nước của ông.
Tấm lòng thiết tha chân thành và ngưỡng
mộ của ông đối với Phan Chu Trinh còn
được bày tỏ qua bài văn tế:
Nhớ ông xưa ...
Gan to tày bể, sức xông pha nào kể sức muôn
người
Mắt sáng hơn đèn, tài lanh lợi từ khi
năm bảy tuổi
Vận nước gặp cơn dâu bể, đeo
vai thân sĩ, còn lòng đâu mà áo mũ xuê xoang
Thói nhà chăm việc bút nghiên, dấu mặt
anh hùng, khi tạm cũng khoa trường theo
đuổi
Song le
Khí vẫn chanh vanh
Chí càng viễn đại ...
Đội tiên phong đâu tá? Gió duy tân từ
Đông hải thổi vào
Gương ngoại quốc kia là? Sóng cách
mạng bởi Á Châu dồn tới ...
Ba tấc lưỡi, nào gươm nào súng, nhà
cầm quyền trong gió đã gai ghê
Một ngòi lông, vừa trống vừa chiêng,
cửa dân chủ treo đèn thêm sáng chói ...
Mưa dào gió rét, xui khách lưu ly
Biển thẳm trời xa, xót ông chìm nổi ...
Tiệc hoan nghênh mới đó, não nùng rượu
chửa pha mùi
Hội truy điệu liền đây, thấp thoáng
hương đà bén khói
Anh em ta đất rẽ đôi đường, tình
chung một khối ...
Xét quá trình hoạt động cách mạng của
hai chí sĩ họ Phan, ta nhận thấy hai ông
đã có chính kiến khác hẳn nhau, đưa
đến những cuộc tranh cãi gay gắt,
chống đối nhau kịch liệt. Tuy nhiên, vì
đại nghĩa, họ vẫn luôn luôn xem nhau là
bạn, hiểu thấu gan ruột nhau, kính phục
nhau, chỉ dùng thư từ, lời lẽ phân
biệt phải trái và khuyên nhaụ Cho nên, có khi
người này chịu nhận sự thuyết
phục của người kia, trong một số trường
hợp. Chẳng hạn Phan Bội Châu tán đồng
công cuộc duy tân của Phan Chu Trinh và Phan Chu Trinh
cũng đã hưởng ứng phong trào Đông
du của Phan Bội Châu và họ đã từng
hỗ trợ nhau trong sự nghiệp cứu
quốc. Đó là hành động chính trực
của các nhà chí sĩ đương thời,
đáng nêu gương cho hậu thế noi theo.
|