| |
Vietsciences- Bùi Thụy Đào Nguyên 18/12/2009 |
Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định.
Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược
Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông
dân hưởng ứng để giữ đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.
Năm 1861, nhờ lập được công lao, nên ông được triều
đình phong chức Quyền sung Quản đạo" (3)nên còn được gọi là Quản Chơn hay
Quản Lịch
Nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của ông gồm một số nhà
yêu nước: Nguyễn Hiền Điều (tức Phó Cơ Điều), Nguyễn Học, hương thân Hồ Huỳnh Mẫn Đạt đã tóm gọn hai chiến công nổi bật của Nguyễn Trung Trực bằng hai câu thơ: Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa 1. Hỏa hồng Nhật Tảo Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ(25 tháng 2 năm 1861), Nguyễn Trung Trực về Tân An. Lúc này, Pháp đã chiếm Mỹ Tho ( tức thành Định Tường thất thủ vào ngày 12 tháng 4 năm 1861) nên thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Tiểu hạm Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng
chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại
bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu thuộc hàng bậc
nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ.
Và vào trưa ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung
Trực cùng phó quản Phan Thành Tài ghi: Nguyễn Văn Trận Nhật Tảo có 2 ý kiến khác nhau: thứ nhất ông Trực cho giả làm thuyền đám cưới qua sông, thừa lúc áp sát tàu Espérance rồi đánh úp; thứ hai là ông Trực cho giả làm thuyền buôn lúa, để đánh chìm tàu. YÙ kiến sau được nhiều người chấp nhận, trong đó có sự đồng thuận của một số người tác giả người Pháp như Paulin Vial, Alfred Schreiner... Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và
20 cộng sự người Việt, chỉ có 5 người trốn thoát (2 lính Pháp và 3 lính
Tagal, tức lính đánh thuê philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní)
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân
Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã ra lệnh đốt cháy
nhiều nhà cửa trong thôn Nhật Tảo.
Chiến thắng này được triều Nguyễn cho ban thưởng và ghi
chép lại trong sử.
Còn với Pháp, viên Và Alfred Schreiner gọi chiến thắng Nhật Tảo:
"Đấy là khúc nhạc mở đầu cho một cuộc tổng công kích
hầu như toàn bộ các đồn lũy của người Pháp''(5)
Ở một trang khác, tác giả nhận định:
"Cuộc đốt cháy tàu Espérance la''" một biến cố bi
thảm đã gây nên một nỗi xúc động sâu sắc nơi người Pháp và kích thích một
cách lạ lùng trí tưởng tượng của người Paul Vial kể: "Ba chiếc tiểu hạm (Iorcha) đậu trên sông Vaico Đông( tức Vàm Cỏ Đông) nhằm kiểm soát sự lưu thông đường thủy, bị tấn công hết sức dữ dội bởi những nhóm người đông đảo, do họ được cổ vũ bởi trận đốt tàu Espérance...Một trong ba chiếc đó, chiếc tiểu hạm số 3. Viên sĩ quan chỉ huy tàu này đã bị thương."(sách đã dẫn, tr. 195) Và Georfes Taboulet đã thú nhận: "Cuộc nổi dậy bất ngờ bùng nổ vào ngày 16 tháng 12 năm 1862 (trận Sông Tra), và chẳng mấy chốc lan rộng ra. Ba chiếc tuần tra và nhiều đồn bót bị đánh chiếm, như đồn Rạch Tra, gần Sài Gòn; trong trận đó, viên đại úy Thouroude đã tử trận...''(6) 2. Kiếm bạt Kiên GiangSau khi 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ mất (hòa ước Nhâm Tuất năm 1862), Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Huế nhậm chức LãnhPau Vial lại cho rằng:
"Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương
thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng
rã tại Phú Quốc"(Paul Vial, sách đã dẫn)
Rất tiếc bản cáo của lãnh III. Thọ tửPháp phủ dụ Nguyễn Trung Trực qui thuận không được nên vào ngày 27 tháng 10 năm 1868, đô đốc Ohier cho đưa ông về lại Rạch Giá và đã sai một người khơme trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá Địa điểm hành quyết Trên miếng đất thấm máu Nguyễn Trung Trực, người Pháp cho xây lên Nhà Giây Thép, về sau là Ty Bưu Điện tỉnh lỵ. Riêng cây da cổ thụ đã bị đốn vào năm 1947 Ông hưởng dương khoảng 30 tuổi Người ta kể rằng: Vào buổi sáng ngày 27-10-1868, nhân dân Tà Niên (Theo
''Lược sử Đình Vĩnh Hòa Hiệp'' do Ban Bảo vệ di tích tổ chức biên soạn và ấn
hành vào tháng 1 năm 2008: "Từ đầu tháng 6 năm 1867 đến ngày 16 tháng 6 năm
1868, dân làng Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp) đã đùm bọc, chở che nghĩa
quân Nguyễn Trung Trực, để họ chuẩn bị tấn công đồn Kiên Giang.) nơi nổi
tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp
đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không
bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng Tà
Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ
"thọ"(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên Tương truyền trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã sang sảng ngâm bài thơ tuyệt mệnh: Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên, Thi sĩ Đông Hồ dịch: Theo việc IV. Câu nói lưu danhKhi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc đó vừa dụ hàng vừa hăm dọa, ông trả lời: "Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài trừ cho hết cỏ trên mặt đất thì chứng tỏ ngài mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này". Và trước khi hy sinh, Nguyễn Trung Trực còn khẳng khái nhắc lại: "Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh
Tây" V. Khen ngợiSĩ phu yêu nước Nguyễn Thông (1827-1884) viết: "Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, ngiêm nghị và can đảm..."( ''truyện Hồ Huấn Nghiệp'' trong Kỳ Xuyên văn sao)'' Paul Vial kể: "Trong khi đại úy hải quân Piquet, Và ông Trực đã bình tĩnh nói với Piquet: " Số tôi hết rồi, tôi đã không cứu được quê hương tôi thì nay tôi chỉ xin một điều là được chết sớm chừng nào hay chừng đấy" Ở những đoạn văn khác, Paul Vial còn khen ngợi: ''Nguyễn Trung Trực là "người rất tự trọng, có tư cách đáng quí và đầy nghị lực", là " người có gương mặt thông minh và dễ có thiện cảm" là " một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót mười năm trời" (sách đã dẫn, quyển 2, tr. 241) Alfred Schreiner cho biết: "Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông Trực không có
lúc nào tỏ ra yếu đuối cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận
các chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp.
Ngoài ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông Trong một bài thơ điếu, Huỳnh Mẫn Đạt đã viết: Điếu Nguyễn Trung Trực Thắng phụ nhung trường bất túc luân Bản dịch của Thái Bạch: Thắng bại chi bàn việc tướng quân Được tin ông thọ tử, vua Tự Đức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự(12) rằng: Ký bi ngư nhân
Hùng tại quốc sĩ Thái Bạch dịch: Giỏi thay người chài Vua Tự Đức đã sắc phong ông làm ''Thượng Đẳng Linh
Thần'' thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên VI. Tưởng nhớSau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ông hay cá Voi), chính là đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá hiện nay. Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ông hay cá Voi), chính là ngôi đền chánh thờ Nguyễn Trung Trực tại TP. Rạch Giá hiện nay. Và khi người Pháp không còn cai trị Việt Nam, vào năm 1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước "chợ nhà lồng" Rạch Giá (cũ). Hiện nay, phần mộ của ông và tượng thờ (được sơn lại màu nâu đỏ) vừa kể đều đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại TP Rạch Giá (ảnh), và người ta đã cho làm một tượng mới bằng cũng bằng đồng lớn hơn, màu xám, để thay thế (năm 2000). Khu "chợ nhà lồng" mà sau này còn có tên là "Khu thương mại", cũng đã di dời nơi khác để nơi đó trở thành thành công viên. Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long...nhân dân đã lập đền thờ ông và hằng năm đều có tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. (Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch. Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích Lịch - Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 06 tháng 12 năm 1989). Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
1.Ghi theo sách ''Hỏi đáp lịch sử Việt 2. Theo "Hỏi đáp lịch sử Việt 3. Theo Hỏi đáp lịch sử tập 4 , sách đã dẫn, tr.46.
Phan Thành Tài trong Nam Bộ - đất và người ghi là "quyền sung quản 4. Paul Vial: " Les premières années de la Cochinchine,
Colonie Francaise", 2 quyển, Challamet Ainé, Libraire Editeru, 5.Alfred Schreiner: " Abrégé de I'histoire d'An nam", 2è Éd. Sài Gòn, 1906, tr.224 6.Georfes Taboulet: " La geste Francais en Indochine", 7.Phan Thành Tài cho biết lúc đó ông mới đổi tên thành Nguyễn Trung Trực( sách đã dẫn, tr. 167) 8.Bulletin de la Société des Etudes Indochine de Saigon", Sài Gòn, tr.40 9. Theo bản hồ sơ cá nhân của Huỳnh Công Tấn và Trần Bá
Lộc còn cất giữ tại kho lưu trữ Trung ương II tại Thành phố Hồ Chí Minh,
trong đó có bản quyết định khen thưởng Bắc đẩu bội tinh và phong chức lãnh 10.Nam Bộ, xưa và nay, NXB TP. HCM và tạp chí Xưa và Nay,năm 2005, tr.255 11. theo web: http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=892&LOAIID=17&TGID=223 12. Bài thơ của vua Tự Đức điếu Nguyễn Trung Trực, theo ý kiến của Nguyễn Thị Thanh Xuân trong cuộc "hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trung Trực" trong hai ngày 7 và 8 tháng 10 năm 1988 tại Rạch Giá, thì bài thơ này của nhà thơ Trương Gia Mô. Điều này rất có thể, vì Nguyễn Nghị căn cứ ''Cơ mật viện trích tư sự,'' đề ngày 6 tháng 2 năm Tự Đức 24, tức 1872 cho biết: "Mãi bốn năm sau khi Nguyễn Trung Trực mất, triều đình Huế mới có văn thư yêu cầu " cứu xét rõ nguyên ủy, sự trạng của hai tên này (Nguyễn Trung Trực và Hồ Huân Nghiệp) xuất thân như thế nào, đã từng làm quan hay chưa, theo ai làm việc gì, chết ngày nào" để xem có nên hay không nên tặng thưởng...(Tài liệu cơ mật mang ký hiệu R. 73/199 tại Lưu trữ Trung ương 2. Dẫn theo ''Nguyễn Trung Trực qua một số tư liệu Pháp'', sách đã nêu, tr.254)
Hình họa ông Nguyễn Trung Trực |
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Bùi Thụy Đào Nguyên |