|
Nguyễn Thị Giang (1909 - 1930)
Nguyễn Thị Giang sinh năm kỷ Dậu (1909)
tại thị xã Phủ Lạng Thương,
thuộc tỉnh Bắc Giang, Bắc Việt. Nhà ba
chị em gái, cha mẹ đặt tên theo tên
tỉnh: chị là Bắc, rồi Giang, út là
Tỉnh.
Trong khi Tỉnh còn măng sữa, cô Bắc và cô
Giang đã lớn khôn, nhan sắc tuy không vẹn mười
nhưng gọn gàng xinh xắn. Cô Bắc chín
chắn, nói năng đanh thép, cô Giang có phần
lanh lợi, tháo vát hơn, cả hai đều ngay
thẳng và dạn dĩ.
Bấy giờ, khoảng những năm 1920-24, dân
ta âm thầm sau chuyện Đề Thám Đội
Cấn thất bại thì Pháp lại càng thêm kiêu
căng trên thắng lợi trong thế chiến
thứ nhất. Sang đến 1925, bỗng cụ
Phan Bội Châu bị bắt ở bên Tàu, giải
về Hà Nội, chắc khó tránh khỏi án tử
hình. Thế là ùn ùn nổi lên phong trào đòi ân
xá, lòng ái quốc ngùn ngụt bốc trong đám
sinh viên học sinh, những lời cổ võ
của Đông kinh Nghĩa thục hồi 15 năm
trước, nay không biết do ai mà bỗng
khắc khoải bên tai:
Nghĩ lắm lúc thâm gan tím ruột
Vạch trời kia mà tuốt gưom ra
Cũng xương, cũng thịt, cũng da
Còn hòn máu đỏ con nhà Lạc Long
Cớ sao chịu trong vòng trói buộc
Bao nhiêu năm nhơ nhuốc lầm than...
Nhân tâm tuy bừng tỉnh về chính nghĩa dân
tộc và tổ quốc song ít ai dám bộc lộ
công khai, vì lực lượng Pháp đang mạnh,
lại được hỗ trợ tận tình do
nhân viên mật thám và phần lớn quan lại, nên
đó đây chỉ có thể thành lập
những nhóm gọi là "hội kín" mà thôi.
Ở Bắc Giang, một hội kín sớm qui
tụ được khá nhiều thanh niên dưới
sự dìu dắt của ông Xứ Nhu. Xứ Nhu là
danh hiệu của ông Nguyễn Khắc Nhu ở làng
Song Khê, đỗ đầu trong kỳ thi hạch
của xứ Bắc Ninh do đó có tên "đầu
xứ", năm 1912 xuống Nam Định thi hương,
không đỗ, bực mình lén sang Quảng Châu theo
các bạn trong nhóm Đông Du của cụ
Nguyễn Hải Thần. Sau nhóm này bị đốc
quân Lục Vinh Đình trục xuất vì không
muốn gây chuyện với Pháp, thế là ông
xứ lại quay về làng cũ, mở ra một
lớp dạy trẻ để ngấm ngầm
tuyển lựa đồng chí hòng mưu đồ
khởi nghĩa. Đồng chí trước còn lơ
thơ, nhưng sau vụ Phan Bội Châu, bỗng
trở nên ồ ạt, trong đó cô Bắc và cô
Giang là những phần tử hăng say mà ông
xứ rất quý trọng.
* * *
Toàn quyền Varenne sang thả cụ Phan Bội Châu,
vào cuối năm 1925, lòng dân đang hứng
khởi vì thắng lợi này, thì sang 1926 xảy ra
cái tang cụ Phan Chu Trinh: ba xứ Bắc Trung Nam
tỉnh nào cũng rầm rộ làm lễ truy điệu,
lòng yêu nước trở thành một cao trào,
khiến Pháp phải bớt tay thống trị, cho
tay sai phát hành tờ báo Đông Pháp, ngụ ý nước
Nam trở thành hẳn một nước Pháp ở
phương Đông. Nhưng làm sao thuyết
phục được những người có tâm
huyết như ông Nguyễn Thái Học?
Nguyễn Thái Học sinh năm 1901 tại làng
Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ
Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, Bắc
Việt. Buổi đầu học chữ nho,
rồi sang trường tiểu học Việt Trì,
sau xuống trường sư phạm Hà Nội.
Lại bỏ đây, xin vào cao đẳng thương
mại, sắp tốt nghiệp cũng lại
bỏ luôn, vì chán ngán: thấy Varenne là người
đảng Xã Hội, tưởng y có tư tưởng
rộng rãi nên viết hai lá thư, một yêu
cầu cho dân được tự do mở trường
dạy công nông miễn phí, một nữa cũng
cho dân mở thư xã ở các làng và các nơi công
nghệ. Thì đều không được trả
lời.
Ông tìm gặp mấy nho sĩ, giáo chức cùng sinh
viên ở hiệu sách Nam Đồng, tọa
lạc tại số 6, đường 96, gần
hồ Trúc Bạch, Hà Nội. Nơi đây ngoài
mặt xuất bản sách giáo khoa nhưng bên trong
ngầm gieo mầm cách mạng. Rồi một ít sách
bị cấm, thư xã hết vốn. Học
thấy chữ nghĩa khó thành công, nên hô hào dùng
sắt máu. Bèn liên kết những người cùng
chí hướng, dựng ra Việt Nam Quốc Dân
Đảng. Đảng chính thức khai sinh ở
Nam Đồng thư xã, lấy chi bộ làm hạ
tầng, rồi tỉnh bộ, kỳ bộ, và
tổng bộ, phỏng theo phương thức
của Quốc dân đảng Tàu. Học được
bầu làm chủ tịch. Ý thức nhiệm
vụ cao cả của mình, ông liền về ngay
quê nhà, quỳ lạy cha mẹ, khẩn khoản
xin tha cho tội bất hiếu, và cho phép ly khai gia
đình, trả tự do cho vợ là Nguyễn
Thị Cửu, để đem cống hiến hoàn
toàn thân mình cho đảng.
Khi trở lại Hà Nội, ông được ngay
Xứ Nhu tìm đến xin được kết
nạp. Còn gì hoan hỉ hơn: ông xứ là người
đứng tuổi, học thức, kinh nghiệm,
lại sẵn cả mấy chục đồng chí
nữa... Tổng bộ dành ngay cho chức vụ trưởng
ban lập pháp. Ông xứ liền cử cô Bắc làm
ủy viên tuyên truyền, cô Giang làm tổng thư
ký. Mọi người hoan nghênh, mặc dầu
đây là ngoại lệ: cương lĩnh đảng
chưa dự liệu nhận đảng viên
phụ nữ. Việc tuyên truyền, cô Bắc
đã thành thạo, vì đã có nhiều kinh
nghiệm khi ở Bắc Giang. Còn cô Giang thì công
việc tế nhị và khó khăn hơn. Ngoài
việc giấy tờ bề bộn, lại
phải tự thân đi thông tin và truyền
mệnh lệnh. Cô giỏi thay hình đổi
dạng những khi phải qua mặt bọn
mật thám, lại tài biến báo những lúc
xảy khó khăn bất ngờ. Trong trường
hợp gian nan nguy hiểm, cô thường biết
an ủi cho đảng trưởng khỏi ngã lòng.
Vì thế giữa hai người tự nhiên
nảy ra mối tình tri kỷ.
Một hôm cùng đi công tác ở Phú Thọ, nhân
đến gần đền Hùng Vương, không
ai bảo ai mà sóng đôi trước bệ
thờ Quốc Tổ, thành khẩn quỳ lễ và
thề sống chết bên nhau. Lễ tạ xong,
Học trao cho Giang khẩu súng lục vẫn thường
dắt bên mình. Và khi về đến tổng
bộ, đảng trưởng ngỏ lời xin toàn
đảng cho phép cưới cô Giang làm người
vợ cách mạng.
Từ đó hai người không mấy lúc rời
nhau. Nhất là sau khi phần đông đồng chí
bị hội đồng Đề Hình kết án
nặng nề, và chính xứ Nhu cùng Học bị
xử vắng mặt 20 năm khổ sai, mối tình
đôi bạn càng thêm khắng khít, nhưng cũng
hết sức giữ gìn cho lọt khỏi tầm
nã của chính quyền.
Đến khi Học sửa soạn chỉ huy
vụ đánh đồn Phả Lại, ông đem
các tài liệu quan trọng giao lại cho vợ cùng
dặn dò nhìêu về việc Đảng, thấy
cô Giang tỏ vẻ băn khoăn thì ông nói:
_ Tôi phải nói rõ các chuyện vì biết đâu
mai này...
Cô Giang mỉm cười:
_ Cuộc đời anh thế là sung sướng nhé!
_ Sung sướng nỗi gì?
_ Anh vì nước chỉ chết một lần thôi,
còn như em đây phải chết những hai
lần!
_ Là thế nào?
_ Còn thế nào nữa: Em cũng sẽ chết vì
nước, mà lại còn chết vì anh nữa
đấy...
_Chỉ nói dại thôi, nào ...
* * *
Thế rồi tin động trời báo tới:
vụ Phả Lại thất bại, đảng
truởng cùng mấy yếu nhân sa lưới. Cô
Giang như điên như dại, khi khóc khi cười,
lúc nghêu ngao hát. Các bạn phải khuyên giải
cho khỏi lộ hình tích. Khi trở lại bình tĩnh,
cô tự nhủ lòng: không sao! Tù 20 năm rồi cũng
qua đi, hai đứa còn trẻ mà!
Cô họp cùng Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Xuân Huân
tìm cách thanh trừng những phần tử không
xứng, cải tổ đường lối để
củng cố cơ cấu của Đảng. Không
ngờ ít lâu sau, Hội Đồng Đề Hình
kết án đảng trưởng cùng 12 bạn vào
tử hình chứ không phải chỉ khổ sai như
hồi xử vắng mặt.
Nghe tin sét đánh, cô liền sửa soạn đáp
tàu lên Yên Bái để chứng kiến tận
mắt cuộc hành hình.
* * *
Chiều 17 tháng 6 năm 1930 nơi đầu làng
Đồng Vệ, phủ Vĩnh Tường
tỉnh Vĩnh Yên (làng này ở giáp làng Thổ
Tang là quê Thái Học) ánh mặt trời vàng
sắp tàn, không một bóng người qua lại
trên đường cái. Bỗng nghe một
tiếng "đẹt", một người con
gái khoảng ngoài hai mươi tuổi nằm sóng
sượt bên hè, máu mê lêrth láng cả mặt mày.
Thiếu nữ đó người đẫy đà,
nét mặt rắn giỏi, mình mặc áo dài
trắng, quần lụa thâm, đầu vấn khăn,
nằm bên gốc đa cạnh quán nước, nơi
vết thương trên thái dương bên trái máu
vẫn rỉ ra không ngớt, gần phía tay
thiếu nữ có một khẩu súng sáu. Khi nhà
đương chức cho khám thi thể, thì ngoài các
đồ lặt vặt có hai bức thư
ngắn và một bài thơ. Bức thư thứ
nhất:
Yên Bái, ngày 17-6-1930
Thưa thày mẹ,
Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc, con không báo
được thù cho nhà, rửa được
nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng
trinh bạch dâng cho chồng con ở đền Hùng,
giờ con tìm về chỗ quê cha đất
tổ, mượn phát súng này mà kết liễu
đời con.
Đứa con dâu thất hiếu kính lạy.
Bức thư thứ hai:
Anh đã là người yêu nước, không làm
trọn được nghĩa vụ cứu nước,
anh giữ lấy linh hồn cao cả để
về dưới suối vàng chiêu binh rèn súng
đánh đuổi quân thù. Phải chịu đựng
nhục nhã mới mong có ngày vẻ vang. Các bạn
đồng chí còn sống lại sau Anh phải
phấn đấu thay Anh để đánh đổ
cường quyền mà cứu đồng bào đau
khổ.
Bài thơ tuyệt bút:
Thân không giúp ích cho đời,
Thù không trả được cho người tình
chung.
Dẫu rằng đương độ trẻ
trung
Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh.
Con đường tiến bộ mông mênh
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào
Gian nan bỏ mặc dồng bào từ đây.
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên.
Chết đi dạ những buồn phiền
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình.
Quốc kỳ phất phới trên thành
Tủi thân không được chết vinh dưới
cờ.
Cực lòng lỡ bước sa cơ,
Chết sầu, chết thảm, có thừa xót xa.
Thế ru? Đời thế ru mà?
Đời mà ai biết, người mà ai hay...
Hai bức thư và bài thơ đủ chứng
tỏ tâm trạng người viết. Đó là tâm
trạng một người lúc nào cũng sốt
sắng trả nợ nước thù chồng, nhưng
vì thất vọng, đành lấy cái chết để
giữ thủy chung. Thư và thơ được
viết bằng bút chì xanh trên ba mảnh giấy
học trò.
Lý dịch làng Đồng Vệ phi báo lên viên tri
phủ Vĩnh Tường và viên này bẩm
tỉnh ngay. Ngày hôm sau, các thám tử tây, nam ở
Hà Nội, đứng đầu là Cẩm Riner cùng
với Công Sứ Vĩnh Yên, và tri phủ Vĩnh Tường
về tận nơi làm biên bản, dựng thi
thể lên, buộc vào một tấm ván và
chụp ảnh rất cẩn thận. Thi thể
thiếu nữ bị lột ra để khám
nghiệm, rồi để loã lồ hai ba hôm
mới cho đem chôn.
Mấy hôm sau, các báo hằng ngày ở Hà Nội
đăng tin, công chúng mới biết thiếu
nữ ấy là cô Nguyễn Thị Giang, đã
tự sát, sau khi Học cùng 12 bạn đồng chí
bước lên đoạn đầu đài, ở
bãi cỏ trước trại lính khố xanh Yên Bái.
Cô Giang từ Hà Nội lên tận Yên Bái, sau khi
chứng kiến cái chết oanh liệt của
đảng trưởng và các bạn đồng
chí, đã ra nghĩa địa để thăm
mộ, rồi đi mua vải sô để tang
chồng và đáp ngay chuyến xe lửa chiều
về Hà Nội, gặp Lê Hữu Cảnh, dặn
dò mọi việc, sau lên Vĩnh Yên, đến làng
Đồng Vệ tuẫn tiết.
Có người nói khi về tới làng Đồng
Vệ, cô đến cái quán dưới gốc
đa hỏi chuyện bà lão bán nước mấy
câu ngớ ngẩn: hỏi có biết ở Yên Bái
sáng hôm đó xảy ra việc gì chăng, có
biết Nguyễn Thái Học đã bị chết
chém chăng? Hỏi xong cô lại tự đáp
"Có lẽ đó chỉ là tin đồn
nhảm chứ Nguyễn Thái Học còn sống, có
bao giờ bị chết chém".
Đời sống của cô là đời một
chiến sĩ cách mạng: đến cái chết cũng
lại khác thường. Năm tự sát cô
mới ngoài hai mươi tuổi, còn Thái Học
thì 30. Đôi bạn tình đều yêu nước
tha thiết, hy sinh vì nước, thề cùng
sống chết và đã giữ vẹn lời
nguyền.
Nghe tin Nguyễn Thái Học và cô Giang cùng chết
một ngày, Phan Bội Châu cảm khái làm bài văn
tế:
Than rằng:
Sóng nhân đạo ở hai mươi thế
kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai
- Gương nữ hùng trên một góc trời Nam,
bọn da trắng phải ghê giòng giống
Việt.
Trên quốc sử mực chàm giấy phấn, ong
cả đoàn nhan nhản bầy nô, - Dưới
Long Thành máu thắm cỏ xanh, gái đến
thế rành rành chữ liệt.
Trăng thu mờ mịt, trông những buồn tênh!
Người ngọc xa vời, nghĩ càng đau
tuyệt.
Nhớ nữ liệt sĩ xưa:
Đất nhả tinh hoa - trời treo băng
tuyết.
Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi - Thân khuê các mà
can trường khí tiết.
Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa
thông – Tuổi xanh vào chốn học trường,
Pháp văn cũng biết
Tang hải gặp khi xoay cuộc, ngó giang sơn
luống những lòng đau - Trần ai tức lôí
không người, thâý nô lệ giương đôi
tròng ngút.
Xem sách Pháp từng đem óc nghĩ: Dan Đà, La
Lan thuở nọ, chị em mình đã dễ ai hơn,
- Giở sử nhà bỗng vỗ tay reo: Bà Trưng,
Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu
hồn chết.
Triều cách mạng đang dâng sùng sục, cát
Vệ Tinh ngậm đầy trước miệng,
mong thấy bể vùi, - Vai quốc dân nặng gánh
trìu trìu, đá Oa Hùng dắp sẵn trong tay, nỡ
xem trời khuyết.
Tức tội cường quyền - Thi gan sấm sét.
Khi nhập đảng tuổi vừa mười tám,
cơ nữ binh đăng đội tiền phong;
- Lúc tuyên truyền sách động ba quân, lưỡi
biện sĩ trổ tài du thuyết.
Thổi gió phun mây từng mấy trận, nào Lâm
Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu đưa đẩy
đội hùng binh;
- Vaò sinh ra tử biết bao phen, kia thành huyện, kìa
đồn binh, cờ nương tử xông pha hùm
rắn rết.
Nguyễn Thái Học trổ tài kiện tướng,
nhờ có cô mà lông cánh thêm dài - Phạm thị Hào
nổi tiếng trung trinh, em có chị mà xứng
danh nữ kiệt.
Khốn nỗi thay!
Vận nước còn truân - Tai trời chửa
hết!
Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh
thư gặp bước gian truân. - Ngại ngùng nước
biếc non xanh, tay chức nữ uổng công thêu
dệt.
Nhưng hãy còn:
Thiết thạch tâm can, - Châu toàn bách chiết.
Thời như thế, việc đành phải
thế, đoạn đầu đài mừng
được thấy anh lên. - Sống là còn thác
vẫn là còn, súng kề cổ không nhường
cho giặc giết.
Tiếng súng lúc vang lên một phát, núi đổ sông
nhào! - Hồn anh thư hẹn phút trùng lai, thần
gào quỷ thét
Ôi thương ôi!
Khóc nữa mà chi! - Nói không kể xiết!
Một nén hương lòng, - Mấy lời
thống thiết!
Bạn nữ lưu ai nối gót theo chân? - Nghĩa
đoàn thể, xin từ đây cố kết!
Hỡi ơi! thương thay!
* * *
Sau đó, cao hứng, cụ lại ngâm mấy
vần thơ:
Cô Khóc Cậu
Thình lình một tiếng sét ngang lưng
Nuốt nghẹn tơ tình xiết nói năng
Mây mịt mờ xanh trời vẫn hắc
Giọt chan chứa đỏ, bể khôn bằng
Thân vàng đành cậu liều theo cát
Dạ tuyết thôi em gửi với trăng
May nữa duyên sau còn gặp gỡ
Suối vàng cười nụ, có ngày chăng?
Hồn Cậu Trả Lời
I
Gặp mình, mình lại thẹn cùng mình
Ai khiến em mà vội gặp anh?
Vẫn nghĩ có chung và có thủy
Thôi thề đồng tử chẳng đồng
sinh
Trăm năm cuộc bụi dâu hay bể
Một tấm lòng son sắt với đinh
Gió dữ mưa cuồng thây kệ nó
Dắt nhau ta tới tận thiên đình
II
Dắt nhau ta tới tận thiên đình
Quyết dẹp cho yên sóng bất bình
Mặt nước, em còn hồng giọt máu
Nợ đời, anh chửa trắng tay tanh
Trăm năm thề với trời riêng đội
Bảy thước âu là mẹ chẳng sinh
Mình hỡi, mình đừng buồn bã quá
Hồn còn mạnh khỏe phách còn linh
Chị Khóc Em
(Thác lời cô Bắc khóc cô Giang)
I
Em ơi, em vậy, chị thì sao?
Ghê gớm, mà cùng tiếc biết bao!
Chung nợ cha sinh và mẹ dưỡng
Rẽ đường vực thẳm với bờ
cao
Ngại ngùng gió yếu, mây trơ mực
Tức tối trời say máu úa đào
Hồn có thiêng liêng dùm tính nhỉ
Mẹ già em bé nghĩ dường nao?
II
Mẹ già em bé nghĩ dường nao?
Và nợ chồng con nặng biết bao!
Nổ đất thình lình tay vỗ kép
Nhuộm trời ghê gớm máu phun đào
Giữa trường tân khổ no cay dắng
Trước trận phong ba nổi gió trào
Chị có ngờ đâu em đặng thế
Biển ngần ấy rộng núi ngần cao!
* * *
Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã có
bài thơ ai điếu cô Giang:
Sống nhục sao bằng sự thác vinh?
Nước non cho vẹn chữ chung tình
Lưỡi dao xử tử chàng không ngại
Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng dành.
Một tấm can tràng trời đất thảm
Ngàn thu tiết tháo quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại
Trai đã trung thì gái hẳn trinh!
Một thi nhân khác cũng có đôi lời ca
ngợi:
Tình chồng, nợ đảng, gánh giang san!
Thác xuống tuyền đài hận chửa tan.
Xương trắng nêu cao gương hiêú nghĩa,
Máu hồng in thắm chữ trung can.
Ngàn năm tồ quốc ơn ghi mãi,
Một thác tình chung nghĩa trả toàn
Thành bại mặc ai người nghị luận,
Muôn ngàn năm để tiếng Cô Giang.
* * *
Và đây là một câu đối, viếng người
liệt nữ :
Sống, có sống thừa, một thác tạ lòng
người quốc sĩ
Chết, không chết uổng, ngàn thu mát mặt khách
hồng nhan!
|