|
Nguyễn Bá Lân (1700 - 1786)
Nguyễn Bá Lân sinh năm Canh Thìn (1700) tại xã
Cổ Đô, huyện Tiên Phong (cũ), trấn Sơn
Tây xưa (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).
Thân sinh ông là Nguyễn Công Hoàn nổi tiếng
một thời về văn chương, được
xếp hàng thứ ba trong "tứ hổ"
ở kinh thành Thăng Long xưa (nhất Quỳnh,
nhị Nhan, tam Hoàn, tứ Tuấn). Ông Hoàn học
giỏi, nhưng lại lận đận về
đường khoa cử, không đỗ đạt
gì, chỉ chuyên nghề dạy học, các chức
tước của ông như Đại lý tự
thừa, Hiển cung đại phu, Đông Các đại
học sĩ, Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn
lâm viện Thừa chỉ... đều do có con là
Nguyễn Bá Lân thăng chức lớn nên cha
được phong tặng theo tục lệ ngày trước.
Nguyễn Bá Lân học với cha từ năm 15
tuổi, được cha rèn cặp rất nghiêm
khắc. Cách dạy con của ông đồ Hoàn khá
đặc biệt, không chuộng nhồi nhét
bắt học nhiều như các thầy đồ
khác, mà có sự chọn lọc trên cơ sở
cuộc đời dạy học của bản thân
mình. Từ khi còn ít tuổi, Nguyễn Bá Lân
vốn rất ham đọc sách và ham tìm hiểu
thế giới bên ngoài. Chuyện kể lại
rằng thường ngày trên án của ông lúc nào
bên trái cũng đặt bản đồ, bên
phải đặt sách vở, để khi đọc
sách nếu cần thì tra cứu.
Có một điều rất độc đáo trong
cách dạy học của cha Nguyễn Bá Lân, đó
là tìm cách phát huy tính năng động sáng
tạo, bồi dưỡng óc thông minh nhanh nhạy
của người học trò - mà cũng chính là
con mình, trên một tinh thần thi đua bình đẳng
với con, nếu mình bị thua thì cũng đòi
hỏi được xử trí công bằng, không
chút phân biệt. Được cha trực tiếp
dạy dỗ một cách chu đáo, lại vốn
có tư chất thông minh, Nguyễn Bá Lân tiến
bộ rất nhanh. Năm 18 tuổi, tức là
chỉ ba năm sau khi học với cha, ông đã
đỗ đầu kỳ thi Hương, để
hai năm sau lại đỗ kỳ thi Hội,
rồi kỳ thi Đình, đỗ đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân năm Tân
Hợi (1731) vào lúc ông 31 tuổi, cái tuổi
"tam thập nhi lập" đã chín chắn
để hành động.
Nguyễn Bá Lân bước vào đường làm
quan cũng khá đặc biệt. Đỗ
Tiến sĩ, chỉ một thời gian sau ông
đã được cử làm Giám khảo kỳ
thi Hội. Để rồi sau đó, do có
nhiều công lao chiến tích, lại là người
cẩn thận, siêng năng, thanh liêm, ngay thẳng,
không xu nịnh, ông nhanh chóng được thăng
nhiều chức, cả văn lẫn võ. Từ
chức Phiên tào ở phủ chúa Trịnh Giang,
đến đầu đời Cảnh Hưng
(1740 - 1786) đã làm Tả chấp pháp ở Bộ
Hình; năm 1744 bổ làm lưu thủ trấn Hưng
Hóa, sau làm đốc trấn Cao Bằng, tại
cả hai nhiệm sở trên ông đều có công
lớn trong việc giữ gìn trật tự
trị an trên vùng biên giới. Năm 1756, ông
được triệu về kinh đô Thăng
Long nhận chức Thiêm đô ngự sử, vào
phủ Chúa giữ chức Bồi tụng (chức
thứ hai sau Tham tụng), tước Lễ
Trạch hầu, kiêm giữ chức Tế tửu
Quốc Tử Giám (Hiệu trưởng). Năm
1765, ông về hưu mới được ít lâu
đã được chúa Trịnh Doanh mời ra giúp
việc từ tụng, xét xử án từ. Đến
năm 1770, ông dâng khải xin về hưu vì
tuổi già, chúa Trịnh Sâm không chuẩn y mà
vẫn giữ ông lại Kinh đô để
hỏi ý kiến khi cần thiết. Sau đó, ông
được khôi phục làm Thượng thư
bộ Lễ, rồi Thượng thư bộ
Hộ, hàm Thiếu bảo, được liệt
vào bậc Ngũ lão hầu. Chúa Trịnh Tông
vẫn còn triệu ông vào hỏi việc lúc ông
đã 84 tuổi. Hai năm sau ông mất, thọ 86
tuổi, linh cữu được rước
về an táng ở quê nhà. Khi ông mất được
tặng chức Thái tể, tước Quận công.
Nguyễn Bá Lân trọn đời mang hết tài năng
và đức hạnh của mình ra giúp dân, giúp nước
trên mọi cương vị, văn võ song toàn, văn
hóa - giáo dục uyên bác. Cho nên không lấy gì làm
lạ khi thấy những danh nhân đương
thời đều nói về ông với những
lời trân trọng nhất. Phan Huy Chú nhận xét:
"Khi bàn việc, ông giữ lòng trung thực, không
che chở bênh vực ai, chúa khen là ngay thẳng dám
nói". Sử sách của Quốc sử quán
triều Nguyễn về sau cũng viết:
"Nguyễn Bá Lân... làm quan thanh liêm, cẩn
thận, ra trấn Cao Bằng vỗ về nhân dân,
dẹp yên giặc cướp, tỏ rõ công lao, vào
triều tham dự chính sự thì giữ đúng pháp
luật, không hề a dua..." (Đại Nam
nhất thống chí). "Bá Lân là người có
văn học, chất phác, thẳng thắn,
mạnh dạn dám nói" (Cương mục).
Đóng góp của ông về mặt văn học cũng
đáng kể. Riêng với bài phú Nôm Ngã Ba
Hạc, bằng những hình ảnh mạnh mẽ,
có phần tinh nghịch. Về phú còn có nhiều bài
chữ Hán, như Giai cảnh hứng tình, Dịch
đình dương xa, Trương Hàn tư
thuần lư... Nguyễn Bá Lân còn có một
số bài thơ vịnh sử, được
tuyển vào cuốn Vịnh sử thi quyển,
Quốc âm thi và Mao thi ngâm vịnh thực lục.
|