|
Ông vốn họ Ngô, tên là Tuấn, người
ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ
Xá, Gia Lâm - Hà Nội), con của Sùng Tiết Tướng
Ngô An Ngữ. Về sau, ông theo gia đình sang
ngụ ở phường Thái Hòa (Hà Nội).
Bình sinh là người khôi ngô tuấn tú, thông
minh, nhanh nhẹn. Người có chí khí, thích
nghề võ.
Hàng ngày, Ngô Tuấn thường luyện cung
kiếm bày trận đồ, đêm chong đèn
đọc binh pháp. Ông chóng thành tài và liên
tiếp được thăng chức.
Năm 20 tuổi, Ngô Tuấn được
đưa vào làm hoạn quan trong cung vua, 22 tuổi
giữ chức "Hoàng môn chi hậu" trong quân
túc vệ... Khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi, Ngô Tuấn
được rời khỏi những chức
vụ trong nội cung và đưa ra giúp việc nhà
vua tại triều đình. Ông được phong
là Thái bảo, cầm "tiết việt",
đi thanh tra các quan ở vùng Thanh - Nghệ.
Năm 1069 Thánh Tông đi đánh Champa để yên
mặt phía nam. Ông được cử làm tướng
tiên phong, lập công lớn, vua phong Phụ quốc
Thái úy, tước Khai quốc công và ban cho họ
Lý (do đó có tên Lý Thường Kiệt).
Lúc bấy giờ ở Trung Hoa, nhà Tống gặp
nhiều rối ren, Tể tướng Vương
An Thạch đưa ra nhiều cải cách nhưng
không có kết quả. Vua tôi nhà Tống mong tìm
lối thoát bằng cách xâm lược Đại
Việt. Khi nhà Tống chuẩn bị xâm lược
nước Việt, lúc hội đàm với các
đại thần, ông là người đầu tiên
trong lịch sử dân tộc dám đề ra:
"Ngồi yên đợi giặc sao bằng đem
quân đánh trước để chặn các mũi
nhọn của giặc". Đó là cơ sở
của chiến lược "Tiên phát chế nhân"
(ra tay trước, chế ngự địch). Ông
nhìn xa trông rộng, lập lại khối đoàn
kết trong triều, đề nghị Linh Nhân Thái
hậu cho gọi Lý Đạo Thành về trao
chức Thái phó, cùng bàn việc giữ nước.
Bên trong giữ yên nội trị chuẩn bị kháng
chiến chống ngoại bang.
Năm 1075 ông đem 10 vạn quân chia làm hai đạo
đánh sang đất nhà Tống. Đạo quân
thứ nhất do phó tướng Tôn Đản
chỉ huy, gồm quân của các vùng dân tộc do
Thân Cảnh Phúc, Vi Thư An, Hoàng Kim Mãn... dẫn
đầu, đánh thẳng vào thành Ung Châu (Nam Ninh
- Trung Quốc) theo đường bộ. Đạo
quân thứ hai do ông trực tiếp chỉ huy, theo
đường biển đổ bộ vào Châu Khâm,
Châu Liêm (Quảng Đông). Vào đất Tống,
ông viết "Phạt Tống lộ bố văn"
nói rõ lý do cuộc hành quân của mình là đập
tan sự chuẩn bị xâm lược của nhà
Tống và giúp nhân dân Hoa Nam thoát khỏi cảnh
lầm than do Vương An Thạch cùng triều
đình nhà Tống gây ra. Ông cũng ra lệnh cho
quân không được động tới "cái
kim sợi chỉ" của dân. Nhờ đó, quân
ông đi đến đâu, quân Tống bị
đánh tan đến đấy. Nhân dân Hoa Nam
gọi ông là "cha họ Lý". Quân Việt
tiến vào thành Ung Châu và sau một thời gian vây
hãm đã hạ được thành. Thấy
cuộc hành quân đã đạt kết quả, ông
hạ lệnh rút quân về, chuẩn bị
chống giặc.
Năm 1077, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ
chỉ huy tràn sang Việt Nam ta. Ông cho lập phòng
tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) để
chặn giặc rồi cho thủy quân đánh
bại giặc ở vùng biển Quảng Ninh. Quân
bộ của Quách Quỳ đánh đến sông Như
Nguyệt bị chặn đứng. Nhiều
trận chiến đấu quyết liệt xảy
ra. Giặc Tống không sao vượt được
phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng
trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường
Kiệt cho người vào đền thờ Trương
Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như
Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ,
sau này được coi như "Bản tuyên ngôn
độc lập đầu tiên" của
Việt Nam:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời).
Nhờ thế tinh thần binh sĩ thêm hăng hái.
Thời cơ đến, ông tổ chức một
trận quyết chiến, vượt sông đánh vào
trại của giặc. Hơn một nửa số
quân giặc bị tiêu diệt. Tiếp đó, ông
cho người sang nghị hòa, mở đường
thoát cho giặc: Quách Quỳ đồng ý và
vội vã rút quân về. Quân Việt bám sát
giặc và chiếm lại những vùng đất
đã mất. Sau chiến thắng, Lý Thường
Kiệt lo việc nội trị, tu bổ đê
điều, đường sá, sửa đổi
bộ máy hành chính trong cả nước. Vua Lý
nhận ông làm em nuôi và cử ông trông coi châu ái.
Những năm cuối đời, ông còn cầm quân
đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu (1103),
dẹp giặc Chiêm quấy nhiễu ở Bố Chính
(1104), tổ chức lại bộ máy quân đội,
duyệt đổi các đơn vị từ
cấm binh đến dân binh.
Với công lao hiển hách của mình, Lý Thường
Kiệt từng được cả triều đình
nhà Lý quý trọng. Ngay lúc ông còn sống, Lý Nhân Tông
đã cho làm bài hát để tán dương công
trạng. Ông được lịch sử ghi
nhận là anh hùng kiệt xuất, một con người
hiến dâng cả tâm hồn sức lực cho
sự nghiệp độc lập của Tổ
quốc ở buổi đầu thời tự
chủ. Tài năng quân sự kiệt xuất
của ông làm kẻ thù khiếp phục.
Theo Lê Quý Đôn, chính sử Tống phải
thừa nhận: binh pháp "đánh đâu
thắng đấy" của nhà Lý đã
được Sái Diên Khánh nhà Tống mô phỏng
và được Tống Thần Tông "cho là
phải".
|