|
Cuối thế kỷ thứ 9, triều đình
Trường An đổ nát. Nạn cát cứ
của các tập đoàn quân phiệt phong kiến
(phiên trấn) ngày càng ác liệt. Khởi nghĩa
Hoàng Sào (874 - 884) đã làm lung lay tận gốc
nền thống trị của nhà Đường.
ở miền tây - nam (Vân Nam), Nam Chiếu cường
thịnh, trở thành một nước lớn, luôn
luôn đánh cướp đất An Nam. Cuối năm
862 đầu năm 863, Nam Chiếu đem 50 vạn
quân xâm lấn An Nam, chiếm phủ thành Tống Bình;
nhà Đường bỏ An Nam đô hộ
phủ, chỉ lo phòng giữ Ung Châu. Ba năm
trời, An Nam bị quân Nam Chiếu chiếm, chính
quyền nhà Đường vì hèn yếu đã
tự thủ tiêu quyền thống trị của mình
trên đất Việt. Các hào trưởng địa
phương người Việt tự mình đem
quân chống lại quân Nam Chiếu. Và điều
đó đã châm ngòi cho phong trào đấu trành giành
quyền tự chủ dân tộc của dân
Việt suốt ba thế kỷ 7, 8, 9 sau một
đêm dài tăm tối.
Sau khi Độc Cô Tổn, viên Tiết độ
sứ ngoại tộc cuối cùng rời khỏi
đất An Nam, chớp thời cơ chính
quyền trung ương nhà Đường rệu
rã, chính quyền đô hộ như rắn mất
đầu, nhân dân Việt lại một lần
nữa kiên quyết đứng dậy tự
quyết định lấy vận mệnh của
đất nước. Hào trưởng Hồng Châu
là Khúc Thừa Dụ, được dân chúng
ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng
phủ thành Tống Bình (Hà Nội); tự xưng
là Tiết độ sứ, xóa bỏ thực
chất của chính quyền đô hộ nhưng
khéo léo lợi dụng bộ máy và danh nghĩa
của bọn đô hộ cũ để
chuyển sang giành quyền độc lập dân
tộc một cách vững chắc.
Khúc Thừa Dụ (? - 907) dựng nền độc
lập
Việt sử thông giám cương mục (Tiền
biên, quyển 5) viết : "Họ Khúc là một
họ lớn lâu đời ở Hồng Châu (*).
Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người,
được dân chúng suy tôn. Gặp thời
buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng
một xứ, Thừa Dụ tự xưng là
Tiết độ sứ...". Mở đầu chính
sách ngoại giao khôn khéo trong ứng xử với
triều đình phong kiến phương Bắc:
"độc lập thật sự, thần
thuộc trên danh nghĩa", Khúc Thừa Dụ,
sau khi đã nắm được quyền lực
thực tế trên miền đất đai "An
Nam" cũ trong tay, vẫn giữ danh nghĩa
"xin mệnh nhà Đường" buộc
triều đình nhà Đường phải công
nhận sự đã rồi. Ngày 7-2-906 vua Đường
phải phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ
sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng
bình chương sự". Khúc Thừa Dụ phong
cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh
Hải hành quân tư mã quyền tri lưu
hậu" tức là chức vụ chỉ huy quân
đội và sẽ thay thế cha nắm quyền hành
Tiết độ sứ.
Tuy còn mang danh hiệu một chức quan của nhà
Đường, về thực chất, Khúc
Thừa Dụ đã xây dựng một chính
quyền tự chủ bãi bỏ quan lại chế
độ cũ kết thúc về cơ bản ách
thống trị hơn một nghìn năm của
phong kiến phương Bắc.
Lịch sử ghi nhớ công lao của Khúc Thừa
Dụ như là một trong những người
đặt cơ sở cho nền độc lập
dân tộc. Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất.
Mặc nhiên, Khúc Hạo nối nghiệp cha.
Khúc Hạo (? - 917) - Nhà cải cách lớn
Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay
nắm quyền Tiết độ sứ. Ngày
1-9-907, nhà Hậu Lương, lúc này đã thay
thế nhà Đường ở Trung Quốc cũng
phải công nhận ông làm "An Nam đô hộ,
sung Tiết độ sứ".
Nối nghiệp cha và nối chí cha, Khúc Hạo
đã đảm đương một cách tài
giỏi trọng trách củng cố nền tự
chủ còn non trẻ của dân tộc Việt Nam.
Trung Quốc sau khi Chu Ôn cướp ngôi nhà
Đường, đã chính thức bị chia
sẻ thành cục diện "Năm đời mười
nước" (ngũ đại thập quốc).
Giáp giới nước Việt, miền Quảng Châu
lúc này nằm dưới quyền cát cứ
của cha con anh em Lưu ẩn.
Tuy rằng, nhà Hậu Lương đã công
nhận chức Tiết độ sứ của Khúc
Hạo, nhưng năm sau (908) Hậu Lương
lại cho Lưu ẩn kiêm chức "Tĩnh
hải quân tiết độ, An Nam đô
hộ", không thôi từ bỏ ý định duy
trì ách đô hộ và dã tâm xâm lược
lại nước Việt.
Phát huy ý chí tự lập tự cường
của cha ông, Khúc Hạo kiên trì giữ vững
đất nước, chăm lo xây dựng nền
tảng độc lập của dân tộc,
tiến hành nhiều cải cách quan trọng về
các mặt dựa trên quan điểm "Chính
sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân
dân đều được yên vui" (Việt
sử thông giám cương mục).
Khoan dung, tức là không thắt buộc, khắt khe
quá đối với nhân dân, chống bọn tham
ô quan lại, một tệ nạn lớn của
thời Bắc thuộc.
Giản dị, là không làm phiền hà, nhiễu dân
bởi quá nhiều thủ tục hành chính quan liêu...
Yên vui, "an cư lạc nghiệp" là lý tưởng
của nếp sống nông dân nơi làng xóm.
Tóm lại, đó là một đường lối
chính trị thân dân. Nó chứng tỏ bất
cứ một phong trào dân tộc chân chính nào cũng
phải có một nội dung dân chủ nào đó.
Khúc Hạo đã sửa đổi lại chế
độ điền tô, thuế má lao dịch
nặng nề của thời thuộc Đường.
Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha
bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu,
kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp)
trông coi".
Từ một mô hình của chính quyền đô
hộ, nhằm khắc phục tính phân tán của
quyền lực thủ lĩnh địa phương,
Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu
tiên hết sức lớn lao nhằm xây dựng
một chính quyền dân tộc thống nhất
từ trung ương cho đến xã. Ông chia
cả nước thành những đơn vị hành
chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã.
Mỗi xã có xã quan, một người chánh
lệnh trưởng và một người tá
lệnh trưởng. Một số xã ở gần
nhau trước gọi là hương nay đổi
là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và
một phó tri giáp để trông nom việc thu
thuế. Theo sách An Nam chí nguyên Khúc Hạo đặt
thêm 150 giáp, cộng với những giáp có trước
cả thảy gồm 314 giáp.
Vì nhu cầu chống ngoại xâm, các hào trưởng
địa phương phải phục tùng chính
quyền trung ương nhưng vẫn có xu hướng
cát cứ và họ Khúc cũng như nhiều
triều đại độc lập tiếp theo,
vẫn phải dựa vào họ để củng
cố chính quyền ở các cơ sở. Nhưng
xu thế của lịch sử Việt Nam, mở
đầu từ cuộc cải cách của Khúc
Hạo, là độc lập dân tộc gắn
liền với thống nhất quốc gia. Công
cuộc xây dựng nền tự chủ, thống
nhất của Khúc Hạo mở ra một thời
kỳ phát triển mới của xã hội
Việt Nam mà các triều đại sau đó
sẽ hoàn thành.
Khúc Hạo mất năm 917, con là Khúc Thừa
Mỹ lên thay. Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược,
Khúc Thừa Mỹ bị bắt, phủ thành Đại
La (Hà Nội) bị địch chiếm. Họ Khúc
khôi phục quyền tự chủ được
25 năm.
Giáo sư Trần Quốc Vượng
-------------------------------
(*) Hồng Châu là tên đất đời Lý
Trần (đời Đường có lẽ là
đất huyện Chu Diên), đời Lê là hai
phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, sau là
đất Bình Giang, Ninh Giang tỉnh Hải Dương.
Hiện nay vẫn còn đình thờ họ Khúc
ở Cúc Bồ (Ninh Giang). Làng đó vẫn còn
họ Khúc.
|