Những bài cùng tác giả
Truyện Kiều mở đầu với một mùa
xuân đằm thắm, trữ tình làm bối cảnh cho mối tình thơ ngây lãng mạn của Kim
Trọng và Thúy Kiều:
Ngày xuân con én
đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa...
Tuy nhiên, những từ “xuân” về
sau trong truyện Kiều đã giã từ ý nghĩa nguyên bản của nó để ngụ ý khác,
châm biếm hơn để nói lên những u uất, bất hạnh trong cuộc đời của người con
gái mà “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”:
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm
trơ...
Hay:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung ..
Điều trùng hợp thay là trong
cuộc đời thực đầy ốm đau, trắc trở và không đắc ý của cụ Nguyễn Tiên Điền,
mùa xuân cũng không đem lại cho cụ những thi hứng vui tươi và lạc quan.
Trong 249 bài thơ chữ Hán qua ba tập thơ Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam
Trung tạp ngâm và Bắc Hành tạp lục, cụ đã dùng tới 40 từ “xuân” lân cận
với các từ hàn, bệnh, vũ ,... gợi nên một trường cảm xúc khá bi đát. Riêng
trong 4 bài thơ được đặt nhan đề có từ XUÂN (Xuân nhật ngẫu hứng, Xuân dạ,
Xuân tiêu lữ thứ, Mộ xuân mạn hứng) cụ đều bày tỏ một nỗi buồn sâu lắng, âm
ỉ khi thân phiêu lạc ở đất khách quê người.
Với “Xuân nhật ngẫu hứng”
ta thấy một Nguyễn Du bất cần đời, chán chường trước “tài mệnh tương đố” khi
sinh nhằm thời binh lửa và dù đã đỗ tam trường vẫn đành lênh đênh hải giác
thiên nhai. Bài thơ được sáng tác trong thời kì cụ phải ăn nhờ ở đậu ở quê
vợ, có lẽ vào khoảng đầu triều Tây Sơn khi mà đất nước vẫn còn chưa hẳn ổn
định vì ở miền Nam, thế lực của Nguyễn Ánh vẫn lăm le khôi phục lại cơ đồ:
春 日 偶
興
Xuân nhật
ngẫu hứng
患 氣 經
時 戶 不 開
Hoạn khí kinh thời hộ bất khai
逡 巡 寒
暑 故 相 催
Thuân tuần hàn thử cố tương
thôi
他 鄉 人
與 去 年 別
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
瓊 海 春
從 何 處 來
Quỳnh Hải* xuân tòng hà xứ lai
南 浦 傷
心 看 綠 草
Nam phố thương tâm khan lục
thảo
東 皇 生
意 漏 寒 梅
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai
鄰 翁 奔
走 村 前 廟
Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu
斗 酒 雙
柑 醉 不 回
Đẩu tửu song cam túy bất hồi.
Lược dịch:
Ngày xuân ngẫu hứng làm thơ
Trời xấu qua rồi cửa vẫn gài
Êm êm rét nóng rủ nhau trôi
Xa quê lại một năm li biệt
Đất khách thêm mùa xuân của ai
Cỏ biếc lòng đau trời Nam phố
Mai vàng chi nữa chúa Xuân ơi!
Lão già trước miếu say mềm rượu
Quanh quẩn hồi lâu chẳng muốn rời.
* Quỳnh Hải: huyện Quỳnh Côi,
quê vợ của cụ Nguyễn Du
Với “Xuân dạ” ta
lại thấy cụ Nguyễn Du đã thấm thía nỗi đau đời dành cho một con người tài
hoa: bệnh tật, xa nhà, không danh phận. Đêm dù của mùa xuân nhưng lại nhuộm
một màu u ám và đau thương; nó chẳng giống chút nào so với mùa xuân tươi tắn
và êm đềm nào đó của thi sĩ Trung Hoa Mạnh Hạo Nhiên “Xuân miên bất tri
hiểu/ Xứ xứ văn đề điểu/ Dạ lai phong vũ thanh/ Hoa lạc tri đa thiểu”
春 夜
Xuân dạ
黑 夜 韶
光 何 處 尋
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
小 窗 開
處 柳 陰 陰
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
江 湖 病
到 經 時 久
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
風 雨 春
隨 一 夜 深
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
羇 旅 多
年 燈 下 淚
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
家 鄉 千
里 月 中 心
Gia hương thiên lý nguyệt trung
tâm
南 臺 村
外 龍 江 水
Nam Đài thôn ngoại Long Giang*
thủy
一 片 寒
聲 送 古 今
Nhất phiến hàn thanh tống cổ
câm (kim).
* Long Giang hay Thanh Long
giang: Sông Lam
Đêm xuân
Đêm mãi đen hoài nắng đẹp đâu?
Ngoài hiên bóng liễu phủ lên nhau
Giang hồ thân bệnh hoài vương vấn
Mưa nắng đêm xuân cứ dãi dầu
Lưu lạc bao năm đèn soi lệ
Quê nhà ngàn dặm ánh trăng thâu
Nam Đài ơi với sông Lam đó!
Sóng lạnh muôn đời tiếng lắng sâu.
Năm 1789 Tây Sơn chiếm Bắc Hà,
cụ vừa 23 tuổi. Để tránh nạn binh lửa cụ đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh
Côi (Thái Bình) Bài thơ này nằm trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ đã được
cụ Nguyễn Du làm trong thời gian này. Lúc này ta có thể đoán cụ khoảng dưới
30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể chất của cụ không mấy khỏe mạnh do cuộc
sống nghèo túng và bản thân cụ cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi
quãng đời thanh xuân của cụ. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã 36 tuổi (1802) cụ
mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ Tri huyện Phù Dung (Thái Bình)
rồi sau đó thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Đông)
Những mùa xuân tha hương tại
Quỳnh Côi vẫn là đề tài cho cụ viết các bài thơ khác, cũng chất ngất lòng
nhớ quê hương, xót thân mình đau yếu và cảnh sống nhờ ở tạm trong nghèo túng
thiếu thốn:
漫 興
Mạn hứng
百 年 身
世 委 風 塵
Bách niên thân thế ủy phong
trần
旅 食 江
津 又 海 津
Lữ thực giang tân hựu hải tân
高 興 久
無 黃 閣 夢
Cao hứng cửu vô hoàng các mộng
虛 名 未
放 白 頭 人
Hư danh vị phóng bạch đầu nhân
三 春 積
病 貧 無 藥
Tam xuân tích bệnh bần vô dược
卅 載 浮
生 患 有 身
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân
遙 憶 家
鄉 千 里 外
Dao ức gia hương thiên lý ngoại
澤 車 段
馬 愧 東 鄰
Trạch xa đoạn mã quý đông lân.
Lược dịch: Mạn hứng
Trăm năm thân thế mặc phong trần
Bãi biển bờ sông kiếm miếng ăn
Cao hứng cũng không mơ gác tía
Bạc đầu nào thoát nổi danh nhăng
Bệnh đau không thuốc, ba xuân lẻ
Thân có đành lo, mấy chục năm
Nhớ chốn quê nhà ngoài vạn dặm
Xấu chi phận rể ngựa xe không.
Nguyễn Du thường gọi mình là
“tha hương nhân” (Xuân nhật ngẫu hứng) hay “bạch đầu nhân” (Mạn hứng, Tạp
thi I....) luôn mang cái “Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ” (Sơn cư mạn
hứng: Một mảnh lòng quê soi bóng nguyệt.) mà cuộc sống thì “Nhất thất xuân
hàn cựu bệnh đa.” (U cư II: Đầy nhà xuân lạnh thêm nhiều bệnh.) Theo Đào duy
Anh, trong Thanh Hiên tiền hậu tập, Nguyễn Du có 17 bài nói về bạch phát hay
bạch đầu. Nguyễn Du đã phác họa cuộc đời trẻ trung của mình như sau:
雜 詩
Tạp thi I
壯
士 白 頭 悲 向 天
Tráng sĩ
bạch đầu bi hướng thiên
雄
心 生 計 兩 茫 然
Hùng tâm
sinh kế lưỡng mang nhiên
春 蘭 秋
菊 成 虛 事
Xuân lan thu
cúc thành hư sự
夏 暑 冬
寒 奪 少 年
Hạ thử đông
hàn đoạt thiếu niên
黃 犬 追
歡 鴻 嶺 下
Hoàng khuyển
truy hoan Hồng Lĩnh hạ
白 雲 臥
病 桂 江 邊
Bạch vân
ngọa bệnh Quế Giang biên
村 居 不
厭 頻 沽 酒
Thôn cư bất
yếm tần cô tửu
尚
有 囊 中 三 十 錢
Thượng hữu nang trung tam thập
tiền.
Lược dịch:
Bài thơ vơ vẩn
Bạc đầu
tráng sĩ nhìn trời
Miếng ăn,
chí lớn tơi bời lòng son
Xuân thu
muôn sự héo mòn
Hè đông đoạt
sạch trẻ non sức người
Chó vàng
Hồng Lĩnh rong chơi
Mây nằm nghỉ
bệnh trắng trời Quế Giang
Cứ mua cho
hết rượu làng
Tiền thì ba
chục sẵn sàng túi đây.
Có lẽ không gì làm cho ta chạnh
lòng hơn những câu thơ như thế, nhất là đối với một con người tài hoa như cụ
Nguyễn Du. Một cõi lòng tan nát, không dám mơ một ngày được trọng dụng và
liệu khi ấy thì có còn “hùng tâm” để dâng hiến hay không. Vả lại, triều Lê
mà Nguyễn Du muốn phù trợ cũng chỉ là một triều đại ươn hèn, mục nát, tham
tàn và về cuối lại rước voi về giày mồ, gây nên lắm điều sỉ nhục.
Với “Mộ xuân mạn hứng”
Nguyễn Du lại bày tỏ một nhân sinh quan đậm màu sắc Lão Trang, xem kiếp sống
như một trò mộng huyễn và công danh lại càng phù ảo như ánh nắng cuối xuân.
暮 春 漫
興
Mộ xuân mạn hứng
一 年 春
色 九 十 日
Nhất niên xuân sắc cửu thập
nhật
拋 擲 春
光 殊 可 憐
Phao trịch xuân quang thù khả
liên
浮 世 功
名 看 鳥 過
Phù thế công danh khan điểu quá
閒 庭 節
字 帶 鶯 遷
Nhàn đình tiết tự đái oanh
thiên
側 身 不
出 有 形 外
Trắc thân bất xuất hữu hình
ngoại
千 歲 長
憂 未 死 前
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền
浮 利 榮
名 終 一 散
Phù lợi vinh danh chung nhất
tán
何 如 及
早 學 神 仙
Hà như cập tảo học thần tiên.
Lược dịch: Làm thơ vào
cuối xuân
Một năm xuân đẹp chín mươi ngày
Vùn vụt thiều quang ngẫm xót thay
Cõi thế công danh chim cánh lướt
Sân nhàn thời tiết bóng oanh bay
Xét thân không thoát vòng sinh hoại
Lo mãi làm chi cuộc sống này
Rốt cuộc lợi danh đều tan tác
Phải chi sớm học phép tiên hay.
Sau khi ra làm quan với triều
Nguyễn, cụ lại tiếp tục xa nhà. Cuối năm 1803, với tư cách là Đông các điện
đại học sĩ, cụ Nguyễn Du đi đón sứ thần Thanh triều ở Lạng Sơn. Ở địa vị
này, cụ vẫn mang tinh thần chán danh lợi trần thế và nỗi niềm bất đắc chí
khi cộng tác với triều Nguyễn. Phải chăng cụ Nguyễn Du còn mang tâm trạng
của một di thần triều Lê với quan điểm Nho giáo cứng nhắc “Trung thần bất sự
nhị quân”? Ta nên nhớ rằng quãng đời làm quan của cụ rất hanh thông. Qua
“Xuân tiêu lữ thứ”, được làm ra trong thời điểm này, tâm sự của cụ được
bộc bạch rất bi thương:
春
宵 旅 次
Xuân tiêu lữ thứ
蕭 蕭 蓬
鬢 老 風 塵
Tiêu tiêu bồng mấn lão phong
trần
暗
裏
偏
驚 物 候 新
Ám lý thiên
kinh vật hậu tân
池 草 未
闌 千 里 夢
Trì thảo vị
lan thiên lý mộng
庭 梅 已
換 一 年 春
Đình mai dĩ
hoán nhất niên xuân
英 雄 心
事 荒 馳 騁
Anh hùng tâm
sự hoang trì sính
名 利 營
場 累 笑 顰
Danh lợi
doanh trường lụy tiếu tân
人 自 蕭
條 春 自 好
Nhân tự tiêu điều, xuân tự hảo
團 成 成
下 淚 沾 巾
Đoàn thành
thành hạ lệ triêm cân.
Lược dịch: Đêm xuân xa nhà
Tóc mai phơ phất giữa phong trần
Mê muội lòng lo việc mới dần
Giấc mộng văn chương chưa dứt bóng
Mai vàng sân trước đã mời xuân
Anh hùng chí lớn thôi rong ruổi
Danh lợi quan trường chỉ lụy thân
Người dẫu xác xơ, xuân vẫn đẹp
Chân thành* riêng lão lệ đầm khăn.
* Đoàn thành là
thành Lạng Sơn.
Sau một thời gian ở Phú Xuân
khi đi tiếp sứ trở về, đến năm 1809, Nguyễn Du đựơc cử làm Cai bạ Quảng
Bình. Năm 1913 cụ đi sứ hơn một năm tròn ở Trung Quốc. Về nước cụ được thăng
làm Tham Tri Bộ Lễ và làm việc tại kinh đô Huế. Trong quãng thời gian làm
quan này, cụ Nguyễn Du vẫn thường ốm đau bệnh tật và cuộc sống có nhiều khó
khăn. Vì thế, Huế cũng chỉ là một đất khách, nơi khiến cụ thấm thía hơn nỗi
đời luân lạc. Huế trong mắt cụ cũng buồn bã vì lòng thương nhớ quê nhà bao
la trong tim cụ:
秋
至
香
江
一
片
月
Hương giang nhất phiến nguyệt
今 古 許 多 愁
Kim cổ hứa đa sầu
往事 悲 青 塚
Vãng sự bi thanh trủng
新秋 到 白 頭
Tân thu đáo bạch đầu
有形 徒 役 役
Hữu hình đồ dịch dịch
無病 故 拘 拘
Vô bệnh cố câu câu
回首 藍 江 浦
Hồi thủ Lam giang phố
閒心 謝 白 鷗
Nhàn tâm tạ bạch âu
Lược dịch: Thu đến
Sông Hương một mảnh trăng soi
Dáng sầu vời vợi bao đời đến nay
Chuyện xưa buồn chết dạ này
Thu về mái tóc bạc bay đón trời
Có thân, đành luỵ hình hài
Không đau, khòm chiếc lưng dài việc quan
Quay đầu nhìn bến sông Lam
Chim âu trắng xoải cánh nhàn đợi ta.
Đúng ra, ta có thể nói cụ
Nguyễn Du một đời luân lạc tha phương, nếm đủ mọi cay đắng phong trần không
thua gì cô Kiều trong tác phẩm của cụ. Điều đáng chú ý là chính nhờ trải qua
cuộc phong trần mà cụ Nguyễn Du hiểu được nỗi đau khổ của nhân dân sống dưới
các triều đại phong kiến ngày xưa.
Đọc suốt truyện Kiều, có lẽ
không ai kìm được xúc cảm trước mười lăm năm luân lạc của Kiều mà nước mắt
chan đều trong mỗi tháng ngày đau thương bi đát của Kiều. Nếu cụ Nguyễn Du
bản thân không trải những xót xa phong trần thì hẳn chúng ta cũng không có
cái may mắn được thưởng thức những vần thơ trác tuyệt như thế. Viết truyện
Kiều hay là viết cuộc đời trôi nổi của mình, khóc Tiểu Thanh hay khóc Tố Như
cũng thế mà thôi. Đọc những bài thơ chữ Hán trên, ta thấy rõ hơn cuộc đời
của tác giả để đối chiếu với nhân vật mà tác giả xây dựng nên. Âu cũng là số
phận của “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”.
Ngày xuân, đọc lại những bài
thơ xuân chữ Hán của cụ gọi là nén nhang, bát nước dâng cho một con người
tài hoa mà mệnh bạc.
Ghi chú:
Các bản dịch thơ trong bài là của tác giả bài viết này.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Tháng 10/2008
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
|