Bài viết này đựoc gợi ý từ
khoảng 3 năm trước, khi nghe thắc mắc của một nam thính giả người Nam
gửi đài phát thanh địa phương, “tại sao các xướng ngôn viên phát âm
giọng Nam chữ Việt Nam thành Yiệt Nam, giống như Việt Nam bị tiêu diệt,
nghe hổng khá”.
“Khôn Ngăn Châu Lụy Sụt Sùi”
Thầy cô giáo tình nguyện dậy
tiếng Việt khi học trò hỏi cũng bí lù chuyện đúng/sai đến nỗi sém có đề
nghị bỏ môn… chánh tả. Có lẽ rất ít cộng đồng nào giới có học vẫn “viết
sai” chính tả như người miền Nam. Thật ra giọng Hà Nội ở giới có học
hay bình dân cũng “nói sai” linh đình một số âm đầu như s/x, ch/tr, n/l,
r/d/gi… dù giọng Hà Nội được vài học giả mặc nhiên cho là giọng tiêu
chuẩn đến nỗi không đính kèm chứng minh.
Điều ngộ nghĩnh, tất cả những
điều sai trên chiếm đa số tuyệt tuyệt đối, vậy mà vẫn chịu tiếng “sai”.
Điểm lạ nhất là hết học giả này đến hội nghị kia - ở vùng tôi - tranh
cãi “
khôn ngăn châu lụy sụt sùi”
(1) như ông Phan Khôi vì nỗi
“tôi đúng/anh sai” nhưng vẫn… e lệ nép vào dưới hoa không hề cho biết
nguyên nhân cũng như cách sửa sao cho đúng.
Âm [v] truớc thời quốc ngữ
abc
Không biết nữ sĩ Đoàn Thị
Điểm, người Hưng Yên, Đàng Ngoài, thỏ thẻ gửi đến chinh phu những chữ
“vàn, vui, vốn” thế nào trong bốn câu Chinh Phụ Ngâm
(2):
Câu 267 Khi mơ, những tiếc
khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm lòng chẳng dứt.
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi!
Một tài liệu vô danh viết tay
năm 1648 có câu “Nhơn danh cha, ùa con, ùa Spirito Santo” ,“và = ùa”,
Spirito Santo chưa được viết là “Thánh Thần”
(5). Linh mục Ý Christofori
B. Bori, trong một bức thư viết tay năm 1631, viết “Con gnoo muon bau
tloam laom Hoa laom chiam” (con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng),
có nghĩa: cô/em có muốn theo đạo của người Hoa Lan không
(3). Chỉ trong
câu ngắn này, có vài điều hết sức lưu ý:
bau = vào,
tloam = trong,
chữ Việt không
dấu.
Ông Phan Khôi viết “
Theo lời
truyền thuở nay thì chữ quốc ngữ do một ông cố đạo đặt ra”. Thiệt
ra không chỉ “
một ông cố đạo “, mà các cuốn từ điển quốc ngữ đầu
tiên do nhiều bậc thầy hợp soạn, gồm các thầy giảng đạo và các cộng sự
người Việt cả về phần phương pháp và tài liệu.
Hãy xem thử vần V trong hai
cuốn từ điển Alexandre de Rhodes và từ điển Taberd
(4). Hai cuốn này, do
hai nhóm soạn giả khác hẳn nhau. Thời điểm, không gian cũng khác nhau
xa lắc.
Âm [v] trong từ điển
Alexandre de Rhodes 1651
Vần V từ điển A. D. Rhodes có
khoảng 150 chữ. Tuy vậy chỉ có 25 chữ được viết bằng V và đọc với âm
[v]. Ví dụ:
vắng, vắng vẻ
váng dện, mạng dện
vàng, chim vàng anh
125 chữ khác tuy xếp vào vần V,
nhưng đựơc viết là “ua, ue, ui, ou…” đọc như [w] hay [b-ỳơ]
uòi uoi = byòi byoi
con uịt = con yịt
oũ bà oũ uãi = ông bà
ông byải
úen áo = byén áo
Lật qua vần B, có khoảng 550
chữ, trong đó có 350 chữ viết với B, đọc như [b] :
bạn bè, bàn thờ,
bền bỉ. Có khoảng 100 chữ viết với B, nhưng được ký âm bằng ký hiệu
beta [
b]
của Hy-Lạp đọc như “beào”
(5) hay b-ỳơ trong giọng Nam bộ, ví dụ:
bua
= byua
bú
bõ = byú bõ
bui
bẻ = byui byẻ
Âm [v] trong từ điển Taberd
1838
Có 238 chữ vần V. Các soạn giả…
thoải mái quất chữ V hết ráo, như âm [v] trong giọng Bắc hiện nay. Vần B
chỉ còn lại một chữ “
bua= vua”. Vài ví dụ chứng tỏ sự khác nhau
giữa hai nhóm soạn giả:
Chữ thường: tđ A.D. Rhodes, chữ
lớn: tđ Taberd:
blọn uẹn - TRỌN VẸN
muôn uật - MUÔN VẬT
uiệc Chúa blời - VIỆC CHÚA
TRỜI
Điều này chứng tỏ trong vòng
187 năm, một là các thầy và cộng sự đã đơn giản bằng cách loại bỏ những
âm [w, b, b-ỳơ], và khóac cho âm [v] giống tiếng La tinh, hai là dân
Việt đã thay đổi giọng nói theo sự hướng dẫn của quí thầy. Hoặc điều
này là kết quả của điều kia.
Thành công của abc
Các thầy ký âm abc cho tiếng
Byiệt là các thầy giảng đạo ngoại quốc. Đàng Ngoài/Đàng Trong (Đàng
Ngoày/Đàng Tlão = ký âm của Gaspar De Amaral năm 1632) không có
email/phone/fax/máy ghi âm… như bây giờ. Hai Đàng lúc nào cũng chuẩn bị
choảng nhau. Các thầy ở Đàng nào ở yên Đàng đó, vừa học tiếng Việt, vừa
giảng đaọ, vừa trốn tránh. Thư từ qua lại rất bí mật và tốn kém, vì rất
dễ bị cả chúa Nguyễn/chúa Trịnh nghi ngờ làm gián điệp cho phe bên kia,
hậu quả có thể bị trục xuất. Riêng Alexandre de Rhodes bị trục xuất cả
thảy sáu lần.
Trong hoàn cảnh đó làm gì có
thì giờ thẩm âm/nghiên cứu/giải quyết từng chữ. Dẫu sao, các thầy còn dè
dặt không dám ban chữ V từ tiếng La Tinh cho tất cả âm w, b-ỳơ, b.
Trong phần mở đầu từ điển, linh
mục A. D. Rhodes
* cho biết âm vị áp dụng
là của Bồ-Đào-Nha/La-Tinh,
*
giải thích rõ ràng về
phụ âm, nguyên âm,
* lại ghi cả cách phát âm
sai biệt ở các địa phương, cho thấy các soạn giả rất khách quan và khoa
học, không xác nhận phát âm nào nguyên thuỷ hay chính thức hơn âm kia.
Ví dụ:
buông = vide (xem)
buâng
cuội = vide
(xem)
quội.
Tuy vậy, tác giả Hoàng Xuân
Việt cũng cho là một sự ngạc nhiên vì A. D. Rhodes lại không nói năng gì
về chữ V. Tác giả HXViệt cũng đặt câu hỏi phải chăng âm V là âm Tây
phương, không phải âm Việt cổ. Thật ra tiếng Pháp cách đây 357 năm cũng
đâu có âm [v]. Họ đọc/viết “ouelle” cho chữ vowels. Tiếng Spanish dù vẫn
viết V, nhưng chỉ là âm lưng chừng giữa âm [v] và âm [b], ví dụ “ la
vida” đọc là “la biđa”.
Cho đến từ điển Taberd, chế độ
thuộc địa Pháp đã vững vàng. Các thầy không còn phải trốn lánh, nên
thoải mái “ép” tiếng Việt cho giống với âm La Tinh. Không rõ tại quý
thầy chỉ thích âm [v] hay tại tiếng Việt có nhiều cách phát âm cho cùng
MỘT chữ làm quí thầy bối rối.
Trên hết mọi sự, quốc ngữ abc
tiếng Việt là một thành công bất ngờ. Chỉ với 24 chữ cái, tiếng Việt
được a-b-c hoá. Từ đó, muôn vàn trang giấy mô tả được hết thảy: lịch sử,
cuộc sống dân gian và bản tính của tâm hồn Việt. Điều này đã ra ngoài cả
sự tiên liệu của chính quyền Pháp mà mục đích ban đầu của truyền bá quốc
ngữ abc là chỉ muốn loại trừ chữ Nho, chữ Nôm và ảnh hưởng của Nho sĩ.
Độc giả có thể tìm mua hai từ điển này, tuy hơi hiếm, nơi chữ nghĩa/ý
nghĩa có thể dựng nên được cả một bức tranh ngôn ngữ/phong tục/lối
sống/cách suy nghĩ của dân Việt thế kỷ 17 và cả trước đó.
Thành công nhất của việc quốc
ngữ hóa abc,
là tạo được tính thống nhất trong đánh vần, mà vẫn giữ
đuợc cách đọc, giọng nói của mỗi vùng mỗi miền, nhờ hai ông Trương
Vĩnh Ký và ông Huình Tịnh Của (16)
, như ông Phan Khôi viết (1)
“Hồi đó có hai ông đại sư về quốc ngữ, là ông Trương Vĩnh Ký và ông
Paulus Của, tức là Huình Tịnh Trai. Vì mỗi ông có làm ra một bộ tự vị
tiếng An Nam.
Các ổng cũng là học trường bên Đạo mà ra, cho nên các ổng viết chữ quốc
ngữ y như người bên Đạo, nghĩa là viết đúng. Hồi bấy giờ chắc người Nam
kỳ phát âm cũng vẫn là không đủ, cũng vẫn là lẫn t với c, lẫn có g với
không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi, song le các ổng viết ra thì phân biệt
đâu ra đó, vì vậy các ổng mới dám làm tự điển. Mà tự điển của các ổng
sau rồi trở nên mẫu mực cho người An Nam, ai cũng phải dùng, dùng đến cả
phía bắc Trung kỳ và Bắc kỳ là miền chữ quốc ngữ đã do đó sanh ra.”
Âm [v] trong từ điển
Mường-Việt 2002 (6)
HHỏi quí thầy xong, cũng phải
chạy về hỏi ngài Mường, vừa là chị em ruột thịt trong nhà; vừa là nhân
chứng khách quan ở chỗ không học sử Tàu sử Việt nên không cần tránh né
hay ve vuốt ai ráo trọi.
Truyền thuyết Âu Cơ
(7) của
ngài (người) Mường, tương đương với truyền thuyết Hồng Bàng của ngài
Việt. Ngài Mường - hậu duệ cuả tiên nữ nai-đốm-sao Âu Cơ, mẹ của vua
Hùng Vương, phân nửa kia của tộc Việt. Âu Cơ mặc áo đen, kết duyên vớí
Long Wang mặc áo vàng, con vua Yịt Yàng (Việt Vàng). Một hôm Long Wang
quyết định chia tay “ta với nàng khác giống”. Âu Cơ dẫn 50 con đi về
miền núi; Long Wang dẫn 50 con đi về miền sông nước. Không thấy cả hai
truyền thuyết nhắc đến nhau sau ngày chia tay ấy.
Hậu duệ của nàng Âu Cơ cả hàng
ngàn năm không sống gần ngưòi Việt đồng bằng, nên tiếng nói cuả ngài
Mường không bị Hán hoá và abc hoá. Jeanne Cuisinier
(8) ở vùng Mường
suốt 15 năm cũng công nhận Mường không có âm [v].
Xem thử nhóm vần V, khoảng 68
chữ
(6)
-
Cảo nì phái vo xát kỹ
khỏi hôi = Gạo này phải vo xát kỹ khỏi hôi.
- Cải à, là hết wiêc văt
chũa? = Con à, làm hết việc vặt chưa?
- Ông Bi ưa vỡ mõn hơn vỡ
cá = Ông Bi ưa vợ mọn hơn vợ cả
- Hõ nhà tôi chăng cỏ ay là
vua quan chi = Họ nhà tôi chẳng có ai là vua quan chi.
Chỉ quí soạn giả mới biết những
chữ đuợc viết với V thế này có phải do kề cận với người Byiệt đồng bằng
không và kể từ bao giờ. Tuy vậy vẫn có những chữ được viết với cả V lẫn
B, ví dụ: vua-bua, vai-bai, vòi-bòi, vỡ-bỡ (vợ), vậy-bẫy, vây-bây,
vóc-bóc, vô-bô, vú-bú, vừa-bừa…
Mở qua vần W, có một số chữ
giọng Bắc (và một số) giọng Trung sẽ đọc là V, giọng Nam đọc là [w] hoặc
[b-yờ]
-
Con wac mà ti ăn têm
= Con vạc mà đi ăn đêm
-
Da wái chiềng thờ cho ho
pỡi = Anh vái bàn thờ cho tôi với
-
Cầm mẩy cải wán nì wềl
cho ủn = Cầm mấy cái oản này về cho em.
- Da chở cỏ wẽ chiễn tha
nưa = Mày đừng có vẽ chuyện ra nữa (Chợt để ý: chiễn = rất giống
với giọng Nam = mày đừng nhiều chiệng).
-
Cải wày way nì nẵng khoáng
môch tã = Cái vòi voi này nặng khoảng một tạ.
Rất ngộ nghĩnh, từ cái vòi của
chú voi, tiếng Mường/Tày/Nùng cũng có “
tà pòi”. Pòi = cái vòi
của bé trai, chính là thứ mà pà mụ chỉ nặn riêng cho pé trai. Pé gái có
khi cằn nhằn phân bì sao con không có. Pòi = bòi đều là âm tương đương
nơi các thị tộc cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hoàn toàn không phải âm này
biến qua âm kia.
“Tà”, mạo từ như cái/con ở tiếng Munda,
Mon-Khmer, Hmong, Mường.
Mở qua vần B cũng thấy nhiều
chữ người Mường đọc là [b], giọng Bắc (và một số) giọng Trung đọc là V,
giọng Nam đọc là [b-yờ]
bỉm thay = ví tay
bải chào = vái chào
bài tồng tiền = vài đồng
tiền
chở cải bô lỉ = chớ cãi
vô lí
ti no mà bỗi mà bàng =
đi đâu mà vội mà vàng
mộch bỡ pà, pa bỡ thiêp
= một vợ cả, ba vợ thiếp (vợ lẽ)
Chữ Việt theo Bình Nguyên
Lộc 1971 (10)
Ông Bình Nguyên Lộc luôn luôn
đòi “làm cho ra lẽ” các vụ án lịch sử chữ nghĩa. Điều ra lẽ ngoạn mục
nhất cuả BNLộc, là truy lùng chữ Việt từ hồi ban sơ và từ đó theo dấu
được những tộc người đã cấu thành dân tộc Việt Nam ở mảnh đất hình chữ
S.
Theo BNLộc, có cả thảy bốn chữ
Yit, là
tên tự xưng của người Yit. Khi có chữ, người Tàu Hoa Hạ
ghi lại theo kiểu tượng hình:
- Chữ Yit đầu tiên

xuất
hiện từ thời nhà Thương, khoảng từ 1000 đến 2000 năm TTL, chỉ cái rìu có
tay cầm - dụng cụ của chủng Yit - khi người Hoa Hạ lần đầu tiếp xúc với
chủng Yit ở Hoa Bắc, mạn bắc Hoàng Hà.
- Chữ Yit thứ hai
粵đuợc viết thêm hạt thóc trên cái rìu, ý nói giống dân có cái rìu và biết
trồng lúa nước. Chữ này có từ đời Xuân Thu (722- 481 TTL). Ngày nay chữ
Yit này vẫn chỉ tỉnh Quảng Đông (cũng là Việt, chi Thái-cổ tức Âu).
- Chữ Yit thứ ba: Tẩu + Tuất:
走戌,
mang nghĩa 'Vượt'. Dùng để
chỉ chủng Yit thuộc đám Bách Bộc, Lạc bộ Trãi, phía Bắc Hoàng Hà, đã
vượt sông Hoàng Hà chay xuống nhập với đám Việt đã ở sẵn tại nước Sở và
xung quanh nước Sở, lúc đó là khu Động Đình Hồ.
- Chữ Yit thứ tư: Tẩu + Qua
(dáo mác):
越,
cũng vẫn mang nghĩa Vượt, để chỉ đám U Việt, Lạc bộ Trãi ở miệt Sơn
Đông, phía Nam Hoàng Hà.
Chữ V theo Nguyên Nguyên
2007
Theo tác giả Nguyên Nguyên,
khoảng 5000 năm trước chủng Yịt ở rải rác từ phía bắc sông Hoàng Hà đến
cực nam sông Dương Tử
- lúc đó chưa có nước Trung Hoa
(11a) -
Những biến động lịch sử dẫn đến chiến tranh suốt hàng trăm năm không dứt
khiến họ hết thời điểm này đến thời điểm khác có mặt tại cổ Yiệt, tức
đồng bằng sông Hồng. Bản đồ dưới đây cho thấy địa bàn liên tục của hai
chi Âu và Lạc cũng như lộ trình di tản xuống cổ Việt,
lúc đó chưa gọi
là Việt Nam:

Trong bài viết gần đây nhất góp
tiếng với Trần Hữu Thuần
(12) Nguyên Nguyên
(11b) có vẻ cho biết
tiếng Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc
người khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ
(tức Âu, thành phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng
chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ
khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng
Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt),
Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai
nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập
trung ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống
gần gũi nhau: Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao Miao-Yao hay
Hmong-Mien).
Hai
chữ “Việt Nam”,
tiếng Mường xưa đọc Yịt Nam
Nam Bộ xưa đọc Byiệc Nam, nay
đọc Yiệc Nam
Quảng Đông đọc Yueh Lam, hoặc
Yueh Nam
Thuợng Hải: Yue Ne
Quan Thoại: Yue Nan,
Hẹ (Hakka): Yue Nam
Sơn Đông: Yue Nam
Nhật Bản: Beto-nam
Những tiếng này
đều là âm
tương đương vì cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hòan toàn không phải âm này
biến qua âm kia. Giống như tiếng nói của hai hoặc nhiều dân tộc
láng giềng, theo sắp xếp địa lý, có một số từ vựng và cấu trúc giống
nhau, và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể không có vấn
đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng góp
khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc tại mỗi quốc gia láng
giềng với nhau. Mô hình này được gọi mô hình theo kiểu ‘Cây-và-Đất’, để
phân biệt với thứ mô-hình tạm gọi ‘Cây-và-Cành’ thường xuyên được sử
dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên cứu ngữ học.
(11b)
Khi hay mình có gốc gác khác
nhau, người Việt cảm thấy gì? Có thể sẽ thấy… giống nhau và gần nhau hơn
là khi không biết là có khác nhau? Nhưng dù khác nhau thế nào vào buổi
ban đầu, tất cả bây giờ vẫn là Người Việt, dân của quốc gia duy nhất giữ
được “Việt” trong quốc hiệu.
Hành trình ngàn năm của chữ
Yit-Yue-越-Việt:
Yit, chữ Trung Hoa viết
越.
Nếu giả thiết của hai tác giả Bình
Nguyên Lộc và Nguyên Nguyên đúng, thì hành trình của chữ Yit-Yue-
越-Việt
dài khoảng 5000 cây số theo đường thẳng, từ Sơn Đông đến mũi Cà Mau,
trong gần 5000 năm
(13).
越được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách sử của người Trung Hoa, cho thấy
họ biết rất rõ Yue là một ý niệm bền bỉ nơi những nuớc hay dân tộc thuộc
chủng Yue.
- Yit trong Âu Việt
甌越,tức
Tây Âu
- Yit trong Việt Vương
Câu Tiễn
越王句踐
có nàng Tây Thi, thời Chiến Quốc, 496-465 TTL
- Yit trong Nam Việt
南越
của Triệu Đà, năm 257 TTL
- Yit trong Mân Việt
閩越
- Yit trong U Việt
於越,
- Yit trong Dương Việt
揚越
- Yit trong Đông Việt
東越
- Yit trong Sơn Việt
山越
- Yit trong Lạc Việt
雒越
- Quốc hiệu Đại Cồ Việt
大句越
của Việt Nam th
ời
nhà Đinh
năm
968
- Quốc hiệu Đại Việt
大越
của Việt Nam thời
nhà Lý
năm
1054,
- Quốc hiệu Việt Nam
越南
thời nhà Nguyễn Gia Long năm 1802.
- Tiếng Quảng Đông vẫn được
gọi là Việt ngữ
粵語.
Nhưng Việt viết
粵cho
thấy người Tàu có hiểu biết rất sâu sắc và phân biệt các tộc Yịt ngày từ
thời xưa.
Người Mường vẫn nhớ âm ban đầu
là Yit, và byua cuả đám Yit này là byua Yit Yàng, mà họ cũng gọi là byua
Hùng Wang. Ký ức người Nam bộ
từ khi theo công chúa Ngọc Vạn năm
1623 đi mở nước ở miền Nam vẫn lưu giữ chữ Yiệc, Byiệc.
Phát âm Yit
của Mường và Yiệc của người Nam Bộ chính là một khoen trung gian vô cùng
quan trọng nối với mắt xích ban đầu. Khi Yit được các ông nghè ông
cống Đàng Ngoài tô son cài hoa thiên lý thành Việt thì họ hoặc ở chốn wê
mùa hoặc đã tẩu vô Nam trước đó nên hổng có hay. Sông Pơ Đuông -có nghĩa
lúa gạo- biến thành sông Đuống cho thấyYịt biến thành Việt cũng là điều
dễ hiểu.
Trường hợp đám phiêu lưu giữ
lại âm cổ xảy ra dài dài. Vùng Pensylvania bên Mỹ vẫn còn tiếng Anh cổ.
Người Bạch Nga qua Úc đầu thế kỷ 20 vẫn dùng tiếng Nga thời Nga Hoàng.
Âm [v] nơi láng giềng
Cho tới bây giờ tiếng Ấn Độ,
Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên, Indonesia,Thái, cũng không có âm [v].
Tiếng Thái, tiếng Ấn chỉ có âm hơi giống âm [w] trong chữ wind của tiếng
Anh. Giống tiếng Việt xưa, tiếng Triều Tiên cũng có rất nhiều âm [b]:
bulgogil = bò (thịt),
bae = cái bè.
Tiếng Mường, Triều Tiên, Miến
Điện, Lào Thái, Khmer, Chàm, Tày-Nùng đều có âm “bờ-yờ” - dưới dạng
[p-ỳơ] - với b hay p đọc nhẹ và nhanh. Người miền Trung từ Qui Nhơn-Tuy
Hoà trở vô vẫn có âm “bờ-yờ.” Tuy từ điển Chàm và từ điển Taberd không
còn ghi âm “bờ-yờ”, nhưng ghi hay không là chuyện của giới khoa bảng, âm
“bờ-yờ” vẫn được dân chúng bảo lưu, vì bà con ít khi dòm hành đến từ
điển. Nhiều khi các học giả cãi nhau loạn xạ, dân lành vô tội tỉnh bơ,
như yụ om sòm về con chim Lạc, về Lạc Vương/Hùng Vương trước 75 ở
Saigon. Ít lưu ý đến các đề tài văn hoá/lịch sử không phải dấu hiệu hay,
nhất là nơi một dân tộc lúc nào cũng tự hào có bốn ngàn năm văn hiến.
Âm [v] ở trong Nam
Người Byiệt Đàng Trong, nhất là
người Nam bộ dù là xứ thuộc địa của Pháp, lại cầm cự lưu giữ được âm w,
b-ỳơ.
Thời ông Phan Khôi, có phong
trào học abc, “Chữ quốc ngữ chữ nước ta con cái nhà đều phải học”. Ông
Phan Khôi xúi phe tóc dài kéo phe húi cua học quốc ngữ theo kiểu Lưu
Bình Dương Lễ, nếu chưa thi đỗ thì chưa động phòng “
Rồi các cô hẹn
nhau, rày về sau, hễ các cậu, cậu nào viết quốc ngữ đúng thì các cô hãy
cho bưng trầu rượu đến nhà; còn không, thì đuổi họ đi cho rảnh”.
Mấy cổ đuổi vô hay đuổi ra, ai
mà piếc. Nhưng ở miền Nam yụ học chữ abc ngon lành hết piếc như ông
Phan Khôi viết
“Trong khi ấy thì ngoài Trung, Bắc kỳ, người An Nam ta
đương còn nằm sấp xuống, cấn bụng trên ván, duỗi cẳng dài đuột đuột mà
viết chữ Hán, từ bậc ông Cống ông Nghè cho đến chú Trùm trong xóm cũng
vậy.
Kể cái công tập tành chữ quốc ngữ cho quen và rải rắc nó cho một ngày
một rộng ra, ấy là phải kể cho xứ Nam kỳ.
Tôi muốn nói xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ cho cả và dân An Nam, cũng
không phải là quá đáng. Độc giả hãy nhớ, xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ
cho dân An Nam! “
Ổng nói dạy đây là dạy VIẾT.
Nguời miền Nam, thời ông Trương Vĩnh Ký, Hu
ỳnh Tịnh Của, hay ở chỗ viết
vẫn trúng chánh tả. Nhưng vẫn nói giọng Nam bộ, tức giọng Byiệt cổ,
trong đó có âm [b-yờ], dù cô Sáu mang thuỷ xoàn mặc quần sa teeng hay
chú Ba pán pánh pò pông. Hồi gia đình tôi mới di cư vào Nam 1954, vẫn
nghe bà ngoại chòm xóm la om “Úc, mày làm giống gì ngoải, hổng yìa cho
em bú, nó nhè ngoại nó đòi byú nè…” Khoảng năm 1980-90, trên một chuyến
phà Châu-đốc – Nam-Vang, lẫn trong tiếng võng đưa giữa đám bạn hàng,
vẳng tiếng ru em đẫm màu Nam Bộ, rất “đậm đà bản sắc dân tộc” dù có thể
bị các học giả biến sắc mặt bắt lỗi “nói”sai… chánh tả:
Đi đâu cho thíp
theo cùng
Đói no thíp chiệu
lặn lùng thíp cam
Yí yầu tìn có yở
yang
Thì cho thíp gọi
đò ngang thíp b-yề.
Yí yầu tìn béeng
yiêng thề
Thì cho thíp được
đền nghì trúc mai
Định mệnh ngoại hạng của Âm
[v]
1. Ở từ điển Alexandre de
Rhodes, không tìm thấy chữ Việt, Yiệc, hay Byiệc trong các vần V, W, B.
Lý do: vào năm 1651, người và nước Việt Nam còn được gọi là An Nam.
2. Đến từ điển Taberd, trào vua
Gia Long, mới có chữ Việt Nam=Regnum Anamiticum
3.
Tự điển Mường Việt
ghi chữ Yịt ở vần D = Dịt. Sử thi truyền khẩu Đẻ Đất Đẻ Nước
(9) của
người Mường “nói” byua Yịt Yàng. Nhưng khi ký âm abc lại “viết” vua Dịt
Dàng. Nếu phát âm chữ Dịt đó theo giọng Bắc như tôi sẽ làm mất khoen nối
giữa Yịt - Yiệc - Việt. Thì đừng nói thế hệ sau, ngay thế hệ này đã
không hiểu chữ Yịt - Yiệc - Việt có ràng buộc quan trọng tới mức nào.
4. Chữ quốc ngữ phát xuất từ
các xứ đạo Đàng Ngoài, nơi vâng lời là một đức, nên đám tân tòng tuyệt
đối nghe theo lời chỉ dẫn của các thầy. Dần dần, quốc ngữ abc vượt ra
khỏi khuôn viên nhà thờ. Nguời Việt Đàng Ngoài có lẽ quá hâm mộ chữ quốc
ngữ abc nên đã
- thẳng tay loại trừ một
số âm như: bl, tl, ml, kl, b-ỳơ, w
- tuyệt đối chấp nhận âm
[v] coi như tiêu chuẩn
5. Phát âm Nam Bộ trước sau
trung thành với tiếng Byiệc. Khi các thầy soạn tự điển Alexandre de
Rhodes, không có giọng Nam Bộ dự phần vì chưa có miền Nam. Tuy vậy,
chính người Nam Bộ đi tiên phong trong việc dạy chữ abc. Nhưng giọng Nam
lại bị các học giả cho là…sai. Và người Nam lâu dần cũng tin tưỏng như
thế vì từ ông Phan Khôi và ngay cả ông Bình Nguyên Lộc đều cho là “tiếng
Bắc trúng hơn” dù giọng Bắc cũng “nói” sai tùm lum tà la với chữ viết.
Ví dụ
“nái xe nam neo nên nề nạng qua nạng nại nật nuôn/lái xe
lam leo lên lề lạng qua lạng lại lật luôn” .
6. Dư luận vẫn cho rằng giọng
Nam Bộ “
lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi”
hoặc
giọng Bắc “sai” khi không phân biệt
s/x, ch/tr, n/l,
r/d/gi…Đốt cái dư luận ấy đi
!
Vì giới ngôn ngữ học hồi đó (và
cả bây giờ) không tính tới thành phần hết sức pha trộn của dân Việt, mà
sự khác biệt về dấu/giọng phản ảnh sự khác biệt nguồn gốc ban đầu.
Có thể tóm tắt: cho mãi đến
khoảng đời nhà Trần, tại xứ Việt cổ không có một chi chủng thuần tuý nào
gọi là chi chủng Việt Nam.
Tức không có chi nào gọi là chi Việt Nam
trong khối Bách Việt. Mà chỉ có hàng trăm chi trong Bách Việt cung cấp
các nòi giống khác nhau cho giòng giống Việt, làm thành dân tộc Việt Nam
ngày nay. Sách vở chính thức sau 1975 cho rằng có 54 dân tộc trên
mảnh đất VN. Điều này cho thấy nguời Việt không phải là một dân tộc
thuần chủng như hồi nào tới giờ lầm tưởng. Những dân tộc này cùng có
chung một số từ, chứng tỏ thời gian cộng cư.
Ví dụ, chữ “va” (đọc là [Ya]) =
thằng chả/gã nọ/anh ta, thời ông Hồ Biểu Chánh vẫn còn rất phổ biến
trong Nam. Theo tác giả Nguyên Nguyên :
- phát âm [Ya] hay [bờ ya] hay
[ba],
giống với Hakka [za], Mã Lai [Dia] hay [Ia], Tagalog [niya], Sinhalese
[Eya], và Polynesian [Ia] (11a),
- giọng Nam nói YA vì có gốc
Mon-Khmer và Đa Đảo. Giọng Bắc nói VA vì tiếp cận/hợp chủng/hoặc cả
hai, với người Hẹ Hakka.
- Người Hakka là nhóm chủ lực
ở miền Bắc. Hakka cho cả hai âm [za] và [v]. Âm [v] là âm đặc thù của
người Hakka thay cho âm W của người Hoa ở các khu vực phía trong kể cả
Bắc Dương Tử (tiếng Bắc Kinh). Vì người Hakka có gốc ở miệt Sơn Đông
nên cho đến ngày nay tiếng Tàu ở Sơn Đông vẫn có âm [v] thay
cho âm W ở tiếng quan thoại/Bắc Kinh (11b).
Đền nghì trúc mai
Bài viết Tiếng Quảng Trị của
Trần Hữu Thuần
(12) cho thấy chỉ có vài làng ở gần nhau mà tiếng nói
cũng khác. Tiếng Việt vẫn có những khác biệt, và sẽ mãi mãi khác nhau
như thế. Tuy vậy, sự khác biệt ấy không quá lớn lao như ở Phi Luật Tân,
tuy là một hải đảo độc lập, nhưng có tới 27 tiếng nói khác hẳn nhau. Họ
phải dùng tiếng Tagalog ở trường học và tiếng Anh ở thương trường hay
diễn đàn chánh trị. Không cần thở ngắn than dài vì sai biệt đó không làm
giảm tính thống nhất trong tiếng Việt, dẫn tới những thống nhất khác như
phong tục, lối sống, cách suy nghĩ.
Thế giới đang tìm cách phục hồi
những tiếng nói trên đà diệt vong. Ở Quảng Bình, đám người Rục, người
Nguồn
(14) mà tiếng nói và nguồn gốc được xem là Việt tối cổ vẫn là đề
tài nghiên cứu. Giữ được tiếng nào hay tiếng ấy cũng là cách đền nghì ơn
tổ tiên.
Năm 223 TTL khi Tần Thuỷ Hoàng
gồm thâu sáu nước, nước Sở tiêu tán đường. Quí tộc bị giết chết. Dân
chạy tan tác. Số ở lại, bị tàn sát hoặc đồng hoá tận gốc rễ. Sau bao cố
gắng, đại học Massachusetts Amherst chỉ sưu tầm được…
5 chữ
(15).
Riêng Yit, Byiệc, Việt đã chịu
sự thử thách của thời gian gần 5000 năm, trôi nổi từ thảo nguyên mênh
mông đến sông dài núi rộng, vượt sóng cả trùng dương, vượt lên trên tất
cả những oái oăm của lịch sử, cho thấy quá khứ của cả một dân tộc không
chỉ lưu lại trong chữ viết.
Vườn nào hoa nấy
Có thể nói, không có chuyện
đúng sai trong âm V. Vấn đề chỉ là giọng Bắc đã quốc tế hóa được âm v,
cũng như giọng Nam đã quốc tế hoá được âm tr.
Bài viết này không phải là một
sáng tác. Chỉ làm công việc lượm lặt lý giải của những người đi trước để
trả lời cho thắc mắc chữ V:
tiếng nói có trước, chữ viết có sau,
các xướng ngôn viên người Nam đã trung thành với phát âm cổ của tiếng
Yiệc từ 5000 năm trước abc: Byiệt, Byiệc, Yiệt, Yiệc. Viết theo abc là
Việt. Viết cũng như nói, Việt không bao giờ là Diệt hay Dziệt cả.
Trần Thị Vĩnh Tường
Ghi chú
(1)Phan
Khôi (1887-1959)/Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế lực của phụ nữ
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5465&rb=06
Ông Phan Khôi
thấy báo chí viết sai chánh tả, ông sót sa “
khôn ngăn châu lụy sụt
sùi” và đề quyết “ch
ữ quốc ngữ ở Nam kỳ mà viết sai bậy bạ hết là
bắt đầu từ các ông làm báo bậc tiền bối”.
(2) Chinh Phụ
Ngâm, tác giả Đặng Trần Côn (1715-1745) người làng Mọc, huyện Thanh Trì,
tỉnh Hà Đông. Bản dịch Nôm được cho là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
(1705-1748), người làng Giai Phạm, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, khoảng
giáp Bắc Ninh.
(3) Phụng
Nghi/100 Năm Phát Triển Tiếng Việt, NXB Văn Nghệ 1999, California
(4) Từ điển
Việt-Bồ-La, Alexandre. De Rhodes, Dictionarivm Annnamiticvm – Lusitanvm
– Latinvm, soạn cho Đàng Ngoài, in lần đầu tiên ở La Mã năm 1651, Viện
Khoa Học Xã Hội/HCM tái bản năm 1991.
Từ điển Việt-La
Tinh Taberd, Dictionarium Anamitico-Latinum, được soạn sau khi nước nhà
đã thống nhất không còn Đàng Trong/Đàng Ngoài, in lần đầu tiên tại
Bengale (Ấn Độ) năm 1838, tái bản 2004, NXB Văn Học/Trung Tâm Nghiên Cứu
Quốc Học, Hà Nội và TPHCM.
(5)
Hoàng Xuân Việt/Tìm Hiểu Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, Nguyễn Minh Tiến hiệu
đính, NXB Văn Hoá Thông Tin 2007
(6) Nguyễn Văn
Khang (chủ biên), Bùi Chỉ và HoàngVăn Hành , NXB Văn hoá Dân Tộc (2002).
(7) Tên Âu Cơ
cũng là tên đã Việt hoá. Tên Mường là Ngu Cơ. Ngu Cơ cũng là tên người
đẹp của tráng sĩ Hạng Võ trong tuồng “Hạng Võ biệt Ngu Cơ”
(8)
Jeanne Cuisinier, tác giả La Danse Sacrée en Indochine et en Indonésia
[Múa thiêng ở Đông Dương và Indonesia] và Les Mương, Geographie Humaine
et Sociologie (Người Mường, Địa Lý Nhân Văn và Xã Hội Học), Université
de Paris, 1946,
(9) Đẻ Đất Đẻ
Nước, NXB Văn Học – Hà Nội 1976
(10) Bình
Nguyên Lộc (1914-1987) tác giả hai cuốn Nguồn Gốc Mã Lai của dân tộc
Việt Nam và Lột Trần Việt Ngữ xuất bản năm 1971 và 1972 ở Saigon, được
tái bản dài dài ở hải ngoại, tuy vậy cũng rất hiếm. Hiện có trên
http://www.talawas.org
(11) Nguyên
Nguyên
a.
Thử Đọc Lại Truyền Thuyết Hùng Vương/trên nhiều trang net.
b.
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyennguyen/120707-quangtri.htm
c.
Loan Words and Metaphorical Field (tư liệu)
(12) Trần Hữu
Thuần/Tiếng Quảng Trị/Talawas 6/2007:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10168&rb=06
(13) 5000 năm
nếu tính từ lúc lãnh tụ Xuy Vưu lãnh đạo đám Cửu Lê đánh nhau với Hiên
Viên của Hoa Hạ ở trận Trác Lộc năm 2879. Trong Lĩnh Nam Chích Quái,
Xuy Vưu là nhân vật huyền sử. Nhưng dân tộc Đại Hàn, dân HMong thờ ông
như thánh tổ. Họ còn ghi dấu chiến trường nơi ông bị chặt đầu. Dân Trung
Hoa bây giờ cũng phải nhận ông là một trong ba ông tổ (Xuy Vưu, Hiên
viên, Thần Nông).
Theo Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý, năm 1160, mùa xuân tháng giêng, vua Lý Anh
Tông cho xây đền thờ Hai Bà và đền thờ Xuy Vưu ở phường Bố Cái. Không
biết đền này có còn lưu vết tích gì chăng.
(14) Nguyễn Đức
Cung/Quảng Bình Chín Trăm Năm Nhìn Lại (1075-1975) NXB Nhật Lệ 2006
(15)
http://www.umass.edu/wsp/results/languages/chu/lexicon.html
(16) Theo tác
giả Nguyễn Thiện Giáp,
http://ngonngu.net/index.php?p=309:
Trương Vĩnh Ký sinh ngày 6/12/1836 tại thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thành,
huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long. Ông đã học chữ nho, chữ quốc ngữ, sau đó
được một linh mục đưa đến Cái Nhum trên đất Campuchia học chữ Latin. Từ
năm 1851 đến năm 1858, ông học ở trường đạo Pinang thuộc Ấn Độ Dương,
rồi qua Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức và Ý. Trương Vĩnh Ký là người
thông minh, uyên bác, có thể đọc và nói giỏi 15 thứ tiếng phương Tây và
12 thứ tiếng phương Đông. Ông là hội viên của các hội khoa học: Hội Nhân
chủng học và khoa học miền Tây nước Pháp, Hội chuyên nói các tiếng
phương Đông, Hội chuyên khảo văn hoá Á châu, Hội địa lí học Paris,...
Đương thời, Trương Vĩnh Ký được báo chí và giới học giả nước ngoài liệt
vào hàng thứ 17 trong danh sách “Toàn cầu thập bát văn hào”. Ông mất
ngày 01/9/1898, thọ 62 tuổi. Ông để lại khoảng 118 bộ sách đã xuất bản
và rất nhiều công trình còn đang dở dang.
Theo tác giả
Sơn Nam trong Văn Minh Miệt Vườn, khi Trương Vĩnh Ký đi học ở Poulo
Penang (Mã Lai), ông là người đem về cho Cái Mơn nhiều cây trái mới.
Cái Mơn sau đó trở thành vườn gây cây giống cho Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa
Đéc, Mỹ Tho…tạo sự trù phú và lập nên nền văn minh miệt vườn. Quí bà
quí cô mê sầu riêng, boòng boong, măng cụt, chôm chôm, vú sữa… phải nhớ
đến Trương Vĩnh Ký.

Bức tượng
Trương Vĩnh Ký mặc áo dài, đội khăn, tay cầm cuốn sách, do dân chúng và
nhà báo đóng góp từ năm 1908, được dựng lên năm 1927 ở công viên gần
dinh Độc Lập, Saigon. Sáng nào chúng tôi đi học ngang cũng nhìn thấy
ông. Sau 1975 bị hạ xuống. Theo một bài viết, bức tượng này được đưa
vào ngôi nhà của chú Hoả nay biến thành Viện Bảo Tàng ở Saigon.
Huình Tịnh Của (1834–1908), người gốc
Bà Rịa. Ông soạn Đại Nam quấc âm tự vị
1210 trang trong bốn năm. Ông còn viết: Phép toán (Số học) (1867); Phép
đo (Hình học) (1867); Gia lễ (1886); Sách Bác học sơ giải (1887); Tục
ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1897); Thư mẹ dạy con (1913). Sách giải trí:
Chuyện giải buồn (in lần đầu năm 1886 và lần thứ năm năm 1904); Câu hát
góp (1904); Văn Doan diễn ca (1906). Sách “Bổn cũ soạn lại” hay phỏng
dịch của văn học Trung Hoa: Quan âm diễn ca (in lần thứ năm năm 1930);
Tống Tử Văn (1904); Bạch Viên Tôn Các (1906); Chiêu Quân cống Hồ (1906);
Tống Tử Vưu truyện (1907).
Họ Huình của
ông xuất hiện với chữ i ngắn, vì vậy tất cả sách vở khi nhắc tới ông đều
dùng i ngắn như nguyên văn để tỏ lòng kính trọng, dù có thể không đồng ý
với chữ i ngắn này. Đó cũng là một nét đẹp của giới cầm bút có văn hoá.