Những bài cùng tác giả
Văn là người.
Ý tưởng bất hủ đó xuất phát từ bài diễn văn về văn phong của Buffon :
« Chỉ những tác phẩm viết hay mới được lưu
truyền hậu thế : lượng kiến thức, những sự kiện độc đáo và ngay cả những
phát minh mới lạ đều không đảm bảo chắc chắn sự vĩnh cửu : nếu những tác
phẩm lưu chứa chúng chỉ bàn chuyện nhỏ nhen, bị trình bày thiếu nhã nhặn,
thanh cao, thiên tài, chúng sẽ tiêu vong, bởi vì kiến thức, sự kiện và phát
minh đều có thể bị rút đi, chuyển đi nơi khác và có khi nên được những bàn
tay khéo léo hơn sử dụng. Tất cả những thứ ấy ở ngoài con người, [trong khi
đó] văn phong [của một con người] là chính nó. »
Qua thời gian, câu « le style est
l’homme même » biến thành : Le style, c’est l’homme.
Quả thực, dưới hình thái ấy, câu văn cô đọng, quyết liệt, bao quát hơn. Có
style hơn ! Nó đáng lưu truyền hậu thế, trở thành phổ cập.
Nhưng không ai biết văn phong ấy là người nào ! Ngày nay ý tưởng ấy đã trở
thành một sự thật phổ biến, một ý-chung.
Ý-chung ấy đã ám ảnh không biết bao nhiêu thế hệ nhà văn, nhà phê bình hay
lý luận văn chương, văn học. Trong tiếng Việt, hầu như ta không thể bàn về
vẻ đẹp của một tác phẩm mà không luôn miệng : văn phong của Flaubert,
chẳng hạn. Với ý ngầm sau : đây là lối viết đặc thù của Flaubert, không ai
khác viết được, nó thể hiện chính Flaubert. Văn là người. Thực
không ? Làm gì có văn phong của Flaubert ! Làm sao có được ?
Nếu có, nó ở đâu ? Chính Flaubert đã nói : ông đã say sưa khoan khoái viết
hết mình khi ông thảo quyển La tentation de Saint
Antoine.
Quyển ấy bị... chê. Ngược lại, cũng do ông tiết lộ, quyển Madame
Bovary đã khiến tinh thần ông căng thẳng gấp bốn lần khi ông viết
La tentation de Saint Antoine. Ông đã phải vận dụng đủ thứ kỹ
thuật, kiến thức, lý luận, những phần ít hồn nhiên nhất của nhà văn để xây
dựng tiểu thuyết ấy. Thiên hạ thấy nó trác tuyệt. Vậy, văn phong của
Flaubert là văn phong nào ? Có lẽ ai cũng nghĩ tới Madame
Bovary. Nếu thế, văn phong trong La tentation de Saint Antoine
là văn phong của ai, không lẽ không phải của Flaubert ?
Flaubert đã đăng nhiều tác phẩm khác, hay có, dở có, không tác phẩm nào như
Madame Bovary cả. Văn phong của Flaubert là một
huyền thoại, một chuyện hão.
Ở Pháp, thế kỷ 20, đã xảy ra chuyện hi hữu
sau. Goncourt, giải văn chương số một ở Pháp biểu dương một
nhà văn mới, chỉ ban cho mỗi nhà văn được giải một lần thôi.
Thế mà có người lĩnh hai lần. Đó là Romain Gary, nhà văn nổi tiếng khắp thế
giới. Một hôm, ông quyết định đăng tiểu thuyết dưới bút hiệu Émil Ajar. Ông
lại đoạt giải Goncourt. Cứ thế cho tới chết, ông đăng liên tục
nhiều tiểu thuyết đều thành công. Cả ban giám khảo Goncourt,
cả nước Pháp, cả dịch giả độc giả khắp thế giới không ai phát hiện rằng
Romain Gary và Émil Ajar là một. Vậy, văn phong của ông là văn
phong nào ?
Tác phẩm của Antoine de Saint-Exupéry lại
càng cho ta thấy điều ấy rõ nét hơn : không tác phẩm nào có văn phong của
Le petit prince
cả, dù chỉ hao hao giống thôi. Văn phong Le petit prince...
độc nhất vô nhị. Không ai, ngay cả Antoine de Saint-Exupéry, viết lại được.
Với Camus cũng vậy. Văn phong của La
Peste,
La Chute,
chẳng dính dáng gì với văn phong của L’Étranger.
Vậy văn phong của Camus là văn phong nào ?
Chắc ai cũng biết tác phẩm Les Champs
magnétiques
do Breton và Soupault viết chung năm 1920 để nghiệm sinh điều họ gọi là
hành văn tự động, écriture automatique. Một tác
phẩm độc đáo đích thực. Văn phong trong đó là văn phong của ai ?
Của Breton hay của Soupault ? Của cả hai ? Nếu thế, văn phong không
thể là người : ngoài những quái thai, trên đời này làm gì có
nhà văn hai đầu, bốn tay, bốn đùi ? Cả Breton lẫn Soupault, không ai nhận là
văn phong của mình cả. Chỉ là ngôn ngữ tự giải phóng khỏi sự
trói buộc của tư duy duy lý để thể hiện thế giới siêu thực.
Đọc tác phẩm của J-P Sartre, còn kinh hoàng
hơn. Tuỳ thể loại, tuỳ vấn đề, văn phong hoàn toàn khác : triết, truyện
ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận, kịch, bút chiến, v.v. chẳng văn phong nào
giống văn phong nào cả. Đọc triết, nhức đầu liền. Đọc truyện ngắn Le
mur,
mê ngay. Đọc Les chemins de la liberté,
có thể ngáp dài dài. Tiểu luận, kịch, bút chiến, đọc bao nhiêu cũng không
chán. Riêng tác phẩm Les Motsmà
thiên hạ cho rằng có tính văn chương nhất, người Pháp không biết xếp loại
nó, bèn đưa nó vào thể loại mơ hồ nhất trong lý luận văn học của họ :
littérature, văn chương ! Đọc đi đọc lại vẫn mê hồn. Vậy, văn phong
của Sartre là văn phong nào ? Tác phẩm của Sartre chỉ có một mẫu số chung
thôi : triết lý của ông, ai biết, nhận ra liền. Chưa ai phát hiện mâu thuẫn
nào giữa triết lý và văn chương của ông. Nhưng nhiều người chia sẻ triết lý
ấy, không ai viết như ông cả, ngay khi viết triết, cứ đọc Francis Jeanson
trình bày lại triết lý ấy trong quyển Le problème moral
et la pensée de Sartre
thì thấy. Kenzaburo Oe công nhận mình chịu ảnh hưởng tư tưởng của
Sartre. Nhưng ông viết tiểu thuyết rất khác Sartre. Như thế văn của
Sartre không thể tìm thấy cả trong hình thức lẫn nội dung của các
tác phẩm của Sartre. Nó là gì, ở đâu ?
Câu văn của X có nghĩa trong
rất ít trường hợp.Có lẽ tiêu biểu nhất là trường hợp Isidore
Ducasse, nhà văn đã đăng tác phẩm trác tuyệt Les chants de Maldoror
dưới bút hiệu Vicomte de Lautréamont, rồi... chết. Nói rằng văn phong trong
Les chants de Maldoror là văn phong của Isidore Ducasse
thì không ngoa : ngoài tác phẩm ấy, Isidore Ducasse không có tác phẩm văn
chương nào khác.
Trường hợp ít tiêu biểu hơn : có nhà văn
suốt đời chỉ mài giũa một bút pháp thôi. Có người sáng tác
được một hay vài tác phẩm hay. Thí dụ tiêu biểu : Claude Simon, Nobel văn
chương, tác giả tiểu thuyết La route des Flandres.
Đúng, đọc Claude Simon ta luôn luôn đụng những câu văn tràng giang đại hải
kéo dài hàng trang giấy có lúc hàng chục trang liền mà không cần chấm phẩy
gì hết. Thường thường ta buồn ngủ, xếp sách lại, vứt lên kệ. Thế mà tôi đọc
La route des Flandres một mạch, miên man, không bao giờ muốn
ngừng, như đọc Cent ans de solitude của Marquez vậy. Trong
trường hợp này, nói tới văn phong của Claude Simon thì có lý : ngoài kiểu
viết ấy, ông không viết kiểu nào khác. Nhưng kiểu viết ấy chỉ thành
văn trong La route des Flandres thôi. Trong những tác
phẩm khác, nó không thành văn, nói rằng đó là văn phong của Claude
Simon thì tội nghiệp cho ông ấy : độc giả ngáp ! Đối với tôi thôi.
Tôi chưa đọc hết tác phẩm của Claude Simon. Sau La route des Flandres,
tôi đọc thêm vài quyển, nuốt không trôi nên không đọc nữa. Mình đâu có nhiệm
vụ đọc Claude Simon toàn tập. Chỉ có tình này thôi : La route des
Flandres cực hay. Vậy, cách nói chính xác nhất, đối với tôi, là :
văn phong của La route des Flandres cực hay. Thế thôi.
Văn phong của Claude Simon là gì, tôi không biết. Còn văn là
người trong nghĩa văn La route des Flandres là Claude
Simon, chắc chắn đúng, ngoài ông không ai có thể viết tiểu thuyết ấy. Đúng
trong nghĩa nào, ta bàn sau.
Cuối cùng, chắc ai cũng công nhận điều này.
Khi ba người đọc cùng một tác phẩm trong cùng thời điểm, cùng hoàn cảnh,
trong đầu họ hình thành ba tác phẩm khác nhau ! Ngoài ba tác phẩm ấy, chẳng
có gì có thể gọi là tác phẩm cả, chỉ có giấy trắng lem nhem mực thôi. Tác
phẩm hình thành xuyên qua quá trình đọc của độc giả. Một người đọc một tác
phẩm ở hai thời điểm khác nhau trong đời mình thì cũng hình thành hai tác
phẩm khác nhau ! Văn của tác giả là văn của tác phẩm nào ?
Ý tưởng trứ danh của Buffon bao hàm ý này :
nội dung anh viết không quan trọng lắm vì ai cũng có thể hiểu được. Khi
người ta đã hiểu, ý tưởng đó là của người ta. Nếu người ta có tài văn
chương, người ta sẽ biểu hiện nó dưới hình thức đáng lưu truyền hậu thế hơn
điều anh viết. Tính văn chương cơ bản ở hình thức : cách viết. Đúng thế. Bản
thân thân phận câu văn của Buffon chứng minh điều ấy. Le style est
l’homme même, không ai nhớ cả. Nhưng Le style, c’est l’homme,
cả nhân loại nhại đi nhại lại hơn 250 năm rồi. Y như câu Je pense,
donc je suis
của Descartes hay câu L’enfer, c’est les autres
của Sartre. Câu nói cùng hình thức sau cũng đã lưu truyền hậu thế :
L’État, c’est moi của vua Louis 14. Phải chăng văn phong đơn thuần
nhờ hình thức mà thành ? Không chắc tí nào. Câu L’Esprit, c’est Dieu
chẳng hạn. Tuy nó biểu hiện một niềm tin phổ cập trong các nền văn hoá Tây
Âu, chẳng ai thèm nhớ. Vì sao ? Vì nội dung xoàng xĩnh !
Tại sao câu văn « của » Buffon được loan
truyền, ngưỡng mộ đến thế, khiến hàng mấy thế hệ nhà văn, nhà lý luận văn
học trên khắp thế giới lùa chính mình và lùa nhau vào ngõ cụt tư duy ? Vì nó
vận dụng một lối suy luận hình thức rất bổ ích trong một số quan hệ giới hạn
của con người với thế giới nhưng lại vô cùng nguy hiểm khi ta hồ đồ vận dụng
nó vào quan-hệ tổng-hợp giữa người với người xuyên qua ngôn-ngữ chung của
họ.
Trong câu Văn phong là
người, ta dùng hai khái niêm hình thức không có định nghĩa :
văn phong và người. Rồi ta dùng một nguyên lý
lôgích hình thức, là, để « đồng nhất » hai khái niệm rỗng
tuyếch ấy. Kết quả đương nhiên : một câu nói không có nội dung đích
thực, không có nghĩa. Thế thôi. Nỗi đau của tôi đó, nỗi đau của một
thằng trí thức do Tây Âu nhào nặn, không có nghĩa, không có tình. Tính chất
lơ mơ hàm hồ của câu nói lồng vào hình thức cô đọng, mãnh liệt của nó khiến
ta bùi tai, nghe rất « siêu » nhưng ai muốn hiểu sao cũng được. Ai thích
loại văn chương lơ mơ hàm hồ, thích ra vẻ siêu kiểu ấy ắt mê câu của Buffon
do người đời cải biến.
Người đời nhớ câu nói của Buffon cũng không
tình cờ. Nó chứa một ý đúng tuy không đầy đủ : bất kể với nội dung nào, tác
phẩm đáng lưu truyền hậu thế phải có hình thức hoàn chỉnh.
Nhưng nếu chỉ thế thôi, thành « tác phẩm »
chăng ? Không chắc tí nào. « Tác phẩm » không có nội dung đáng lưu truyền,
chỉ có văn vẻ kêu kẻng mượt mà... thường không tồn tại quá vài mùa thời
trang. Người Pháp hiểu điều ấy từ thế kỷ... 17. Cứ đọc lại Les
précieuses ridicules của Molière thì thấy. Tác phẩm loại ấy, đọc
thấy hay hay. Đọc xong, quên liền.
Trong thế kỷ 19, người Pháp tổng kết vấn đề
như thế này :
« Kiểu cách bắt đầu khi văn phong chấm dứt.
Nó gồm những hình thái, dáng vẻ, kiểu ăn
nói, ẩn dụ và, để nói gọn, tất cả những thủ thuật ngôn ngữ dùng để che đậy
sự thiếu hụt một ý ban đầu hoặc, đơn giản hơn, khi nó được dùng để thăng hoa
một ý-chúng kém cỏi. Đó là điều dị hợm lạ lùng nhưng phổ cập : độc giả
thường ngại ý mới. Một kiểu cách mới luôn luôn quyến rũ nó.
Nói chung, sự quyến rũ ấy không lâu bền và
hậu thế luôn luôn xác định điều ấy. Nhưng khi nó còn tác dụng, đối với thế
hệ chứng kiến sự ra đời của nó, nó có sức quyến rũ bất khả kháng của một
thời trang. »
Ý đúng trong câu nói của Buffon sẽ hoàn
chỉnh nếu ta thêm vào đó ý này, có trong câu nói ấy nhưng hết sức nhạt mờ,
hàm hồ, không cơ bản : muốn có hình thức hoàn chỉnh, không nên dây dưa với
chuyện nhỏ nhen. Xin nói rõ ngay : trong văn chương không có đề tài nào
tự nó nhỏ nhen, từ khát khao tâm linh tới khát vọng tình dục của
con người. Chỉ có ý-tưởng, suy-luận của nhà văn về chúng nhỏ nhen thôi. Văn
bạo dâm, loạn dâm của người đời hiện nay thường nhỏ nhen vì tác giả chẳng có
điều gì đáng nói ngoài chuyện ngủ nghê. Chỉ đủ mua vui vài giờ rồi quên. Vì
thế trong văn chương Pháp suốt thế kỷ 20, chẳng còn mấy tác phẩm loại ấy
đáng để đời. Văn bạo dâm của Sade không nhỏ nhen. Ông có nhiều kiến thức,
văn hoá. Không những ông hiểu rằng cách mạng tư sản vĩnh viễn khai tử một
nền văn minh, khai tử giai cấp quý tộc của ông, nó còn dồn loài người vào
ngõ cụt về mặt giá trị. Cứ đọc Français, encore un effort si vous
voulez être républicains !
của ông thì biết. Văn dâm có nội dung văn hoá, tư tưởng là thế, không phải
ai cũng viết được. Không phải tình cờ mà tên ông đã trở thành tính từ trong
văn chương, văn học Tây Âu. Chúng ta nên hiểu, không nên bắt chước. Đã bắt
chước, toi mạng văn chương.
Tính đặc thù của văn xuôi khiến nó
khác hẳn mọi nghệ thuật khác kể cả một số hình thái thơ là nó dùng
ngôn-từ làm vật liệu. Ngôn-từ tự nó có nghĩa mà người đời hiểu được qua ý
nghĩa thông thường của từ ngữ, ai không hiểu thì mở từ điển ra xem. Đương
nhiên, mỗi độc giả hiểu nó ít nhiều tùy kiến thức và nghiệm sinh của chính
mình, nhưng dù sao cũng có một cách hiểu tối thiểu gọi là ý-chúng. Thí dụ
câu Địa ngục, chính là tha nhân của Sartre, ai cũng có thể
hiểu : chính tha nhân khiến đời ta biến thành địa ngục. Vì sao, tuỳ nghiệm
sinh của mỗi người. Ai biết triết lý của L’Être et le Néant,
có thể hiểu thêm : tha nhân là một bộ phận cấu tạo ra chính ta, nó là kẻ duy
nhất có thể mang lại cho ta điều ta thiếu hụt, Thực-Thể (l’Être),
để trở thành chính ta mà vẫn là một ý thức hoàn toàn tự do. Khốn nạn thay,
cũng như ta, nó tự do. Nó cho ta điều ta thiếu hụt hay không, bao nhiêu lâu,
chỉ tùy nó. Như tình yêu ấy mà. Ta không thể chiếm hữu tình yêu của người
khác, chỉ có thể xin thôi. Nhưng xin toát mồ hôi chưa chắc được cho. Hè
hè... Thế nào đi nữa, những nội dung ấy đều có thể trình bày với nhau, có
thể hiểu nhau. Trong văn chương, chỉ có điều ấy có thể bàn được. Nó nằm ngay
trong văn bản. Tác giả viết kín đáo đến mấy, chịu khó đọc đi đọc lại vẫn tìm
được. Ngoài ra, chỉ còn cảm nhận ngôn ngữ bằng bản năng, cảm tính của từng
cá nhân. Điều này không có gì bàn được. Nói cho nhau nghe để chia sẻ với
nhau thôi : văn mượt mà quá, tôi thích quá, văn mượt mà quá tôi không thích
tí nào, thế thôi.
Chữ nghĩa chỉ có nội dung thôi, không thành
văn. Trừ mấy ngài lý luận bằng thơ, không ai lẫn lộn « khoa học nhân văn »
với văn chương nghệ thuật cả. Chữ nghĩa không có nội dung đáng lưu truyền
cũng không thành văn. Không ai lẫn lộn Delly với André Gide. Chữ nghĩa loạn
xà ngầu không thể thành văn. Chữ nghĩa chỉ có hình thức bùi tai đẹp mắt kêu
kẻng thôi cũng vậy. Để ngôn ngữ thành văn, phải có nội dung đáng nói với
người đời và phải có hình thức hoàn chỉnh biểu hiện nó trong
một tiếng nói của con người.
Văn là người.
Đúng, trong ý giới hạn này : nó đã là một người ở một
thời điểm nhất định, trong một quan-hệ nhất định với thế-giới.
Thế thôi. Sau đó, nếu nó đạt mức nghệ-thuật, nó không là người đó nữa vì
người đó đã trở thành người khác rồi, nó trở thành người đời.
Thế mới đáng gọi là văn.
Mỗi lúc, mỗi người đều có nhiều gương mặt
khác nhau, tuỳ trong quan-hệ nào với đời, với chính mình. Khi ta hiện-thực
những quan-hệ ấy bằng văn-chương, ở cùng thời điểm, ta có thể có nhiều
văn-phong khác nhau.
Ở những thời điểm khác nhau trong đời mình,
nhà văn có thể có nhiều văn-phong khác nhau, tuỳ quan-hệ nó muốn hiện-thực
với người đời, với chính nó trong lĩnh vực nào đó của kiếp người.
Khi nó không còn khao khát ấy, khi nó đánh
mất niềm say đắm làm người cùng với tha nhân, nó biến thành
thợ chữ, trường hợp phổ biến với không ít nhà văn : nhại lại
chính mình, văn chỉ còn xác, mất hồn. Đúng hơn, văn vô tình, rỗng ý, chỉ còn
hình thức : nhạt phèo, ai cũng viết được. Có đầy thí dụ.
Tôi từng nghiệm-sinh những điều trên. Xin
lỗi bạn đọc. Chẳng gì trơ trẽn hơn là nói về mình, phải không ? Nhưng có lúc
phải nói. Chính mình. Nếu mình muốn không chỉ là mình thôi,
lại điên cuồng muốn làm mình, cái mình khốn nạn lê lết qua thế
kỷ 20. Nếu mình muốn chân tình nói với nhau một chuyện đáng nói.
Vậy, nghiệm-sinh của tôi thế này.
Khi tôi cho đăng tập truyện Un amour
métèque,
Bùi Mộng Hùng tinh mắt nhận định : ba truyện ngắn trong quyển sách ấy tải ba
văn phong rất khác nhau. Văn nào là PHĐ ? Cả ba và
chẳng cái nào cả. Khá dễ hiểu : chúng thể hiện ba quan-hệ khác nhau của một
người với thế-giới ở hai thời điểm khác nhau trong đời mình. Hai truyện
Un squelette d’un millard de dollars và Vacance,
tôi viết cùng lúc, song song, trong cùng hoàn cảnh : lê lết ngồi café
đợi vợ. Nhưng chúng thể hiện hai quan-hệ khác nhau với thế-giới.
Trong truyện đầu, quan-hệ của một người với cái thế giới đang toàn cầu hoá
dưới dạng thị trường tư bản. Trong truyện sau, quan-hệ của một người di dân
với quê hương và tuổi thiếu thời của mình sau một cuộc chiến tranh kéo dài.
Truyện Un amour métèque, tôi viết từ hơn... 10 năm trước, nó
thể hiện quan-hệ của một người với chính mình trong cơn khủng hoảng. Không
thể sử dụng cùng một văn phong. Văn Un amour métèque, tôi viết
theo cảm tính. Văn hai truyện kia, tôi hành văn có ý thức.
Tất cả, xưa kia, đều là tôi.
Hôm nay, đã là tôi, tôi công nhận. Nhưng không còn là
tôi trong nghĩa này : tôi không chỉ là thế, không mãi
mãi là thế. Không lẽ tôi không có quyền hành văn, sáng
tạo, làm người nữa ? Mọi người đều có quyền ấy, đều thực sự sử dụng nó dưới
hình thái này hay hình thái nọ. Tôi cũng vậy. Thế thôi.
Từ nay ta không nên nói « văn của X »,
chỉ nên nói « văn trong tác phẩm Y ». Nếu thói quen ngôn ngữ
trói buộc ta, khiến ta vẫn viết « văn của X », độc giả chỉ nên
hiểu « văn của X trong tác phẩm Y » mà ta đang bàn.
Chỉ khi nào nhà văn đã chết,
câu văn là người mới có nghĩa và chỉ nghĩa này thôi : tác giả
là toàn bộ những gì nó đã viết đã đăng đã nói và... đã làm nữa
chứ ! Nó chẳng thể là gì khác hơn vì nó chẳng thể làm
gì khác nữa. Địa ngục, chính là tha nhân nghĩa là thế đó.
Huis-clos mà. Lúc đó, người đời cảm nhận, hiểu, đánh giá tác phẩm
nó để lại đời theo kiến-thức, nghiệm-sinh, lịch-sử chung và cá
biệt của chính mình. Năm thì mười hoạ mới có người biết
quên mình một tí, âu yếm tìm, đằng sau chữ nghĩa chết, khát khao làm
người của một người đã từng « dám sống », đã từng biết hành văn,
sự hiện diện ở đời của một con người. Cuộc gặp gỡ này, khi có,
không chỉ là kiến thức, tri thức. Không chỉ là lý trí đương thời. Nó là
quan-hệ-sống-có-ý-thức của một người với đời, với chính mình xuyên qua
quan-hệ ngôn-ngữ của mình với một người đã chết. Mỗi tác phẩm văn chương
đích thực đều là một người đã qua, đã vươn qua chính mình, đi vào một cuộc
đời khác. Cuộc gặp gỡ ấy là tình, là văn, là nghệ-thuật. Nó là
ta trong khát khao làm người với mọi người. Nó là em là
anh là... mình, quan-hệ đặc thù nhân tính xuyên qua
ngôn-ngữ giữa hai con người, tác giả và độc giả. Vì thế nó có thể « tồn
tại » vượt kiếp người.
Văn không là người, nó
hiện-thực dưới dạng ngôn-ngữ quan-hệ của một người với
thế-giới ở một thời điểm nhất định của đời mình trong
một vấn đề và một hoàn cảnh lịch-sử nhất định của loài
người. Khi quan-hệ cá nhân ấy có nội dung mới
đích thực và đáng tồn tại đối với một nền văn hoá và
khi nó được biểu hiện hoàn hảo đến mức người đời cảm nhận : không thể trình
bày ý đó, tình đó hay hơn, thì ngôn ngữ biến thành văn,
tác phẩm đạt mức nghệ-thuật, đáng lưu truyền hậu thế. Nó có
chung với mọi tác phẩm nghệ-thuật đặc tính này : độc nhất vô nhị. Thế thôi.
Ôi, biết đến bao giờ ta mới biết
hành văn, mới viết được một tác phẩm nghệ-thuật ? Hè hè...
Phan Huy Đường
12-2005
|