Tháng 9.1871 (hai tháng trước khi qua đời), Nguyễn
Trường Tộ mong triều đình nhà Nguyễn thực hiện những đề nghị canh tân mà
ông đã đề xuất từ năm 1863 : “Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực
hành trăm năm cũng chưa hết thế mà bảy, tám năm nay chưa thấy thực hành tí
nào, chả lẽ đợi đến trăm năm sau mới thực hành được sao? Nay có thể làm
được rồi, thời đã đến, thế đã có, mở rộng giao thương để đem của cải thiên
hạ đến, chấn hưng phương pháp mới để làm hưng thịnh nguồn lợi trong nước.
Tiến hành cả hai thì mọi cái hỗ trợ nhau, lợi ích sẽ ùn ùn đưa đến. Tôi
tính toán cái thời hạn 20 năm chỉ một ngày có thể hy vọng được”.
Theo Nguyễn Trường Tộ, các năm 1871-1872 là thời gian
các nước tư bản đang cạnh tranh gay gắt với nhau đặc biệt là tình hình
nước Pháp sau thất bại trước Phổ. Vì vậy “nếu để thời cơ bối rối của
họ đi qua thì còn làm gì được nữa, hiện nay hết sức khẩn cấp. Hãy đứng dậy
nhảy xổ ra bắt tay thực hiện ngay! Thời đã đến rồi. Thời khó mà dễ mất.
Chớ nên nói hãy để sang năm” (4).
Những suy đoán của Nguyễn Trường Tộ về tình hình nước
Pháp những năm 1870-1871 không phải hoàn toàn không có cơ sở. Nhưng, theo
chúng tôi, điều quan trọng hơn là cần tìm hiểu hai vấn đề sau:
Một là: Về mặt chủ quan, liệu cho đến những năm 60, 70
của thế kỷ XIX, triều đình Huế có còn khả năng xoay chuyển tình thế như
thời vua Gia Long còn trị vì, hay ít ra là khoảng những năm cuối đời Minh
Mạng, khi nhà vua bừng tỉnh về đường lối “đóng cửa” thất sách của mình? Về
vấn đề này, chúng tôi đã nói qua ở phần trên, khi nhắc lại thực trạng xã
hội Việt Nam trước và trong thời gian có những đề xuất canh tân, trong đó
có những điều trần của Nguyễn Trường Tộ.
Hai là: Về mặt khách quan, liệu chính phủ Pháp, và thực
dân Pháp nói riêng, có vì “tình hình bối rối” của họ trong các năm
1871-1872 mà đành bó tay nhìn vua quan triều Nguyễn xông ra “chớp thời cơ”
để canh tân đất nước, một khi quyết tâm xâm chiếm toàn bộ nước ta của họ
đã được xác định?
Như mọi người đều biết, sau khi hiệp ước 1862 được phê
chuẩn, vua Tự Đức cử một phái bộ sang Pháp, xin vua Pháp (Napoléon III)
cho chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Tháng 11-1863, vua Pháp hứa với phái bộ sẽ
cử đại diện (Aubaret) sang Huế để sửa lại hiệp ước 1862.
Sau một tháng điều đình (từ giữa tháng 6 đến giữa tháng
7.1864), Aubaret và Phan Thanh Giản ký bản điều ước gồm 21 khoản: Pháp trả
lại cho Tự Đức 3 tỉnh miền Đông nhưng vẫn làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ
Tho; đồng thời triều đình Huế thừa nhận sự “bảo hộ” của Pháp trên lục
tỉnh. Các điều khoản về thương mại, truyền giáo... vẫn giữ nguyên như hiệp
ước 1862.
Về thực chất, “tạm ước” Aubaret - Phan Thanh Giản không
có lợi hơn, thậm chí có hại hơn đốt với vận mệnh đất nước so với hiệp ước
1862. Thế nhưng ngay sau khi đề án tạm ước vừa đệ trình vua Pháp và
Aubaret chưa kịp đến Huế, thực dân Pháp (ớ nước Pháp cũng như ở Nam kỳ)
đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Chasseloup Laubat cực lực
phản đối, yêu cầu vua Pháp ra lệnh đình chỉ việc triển khai đề án tạm ước
Aubaret.
Sự phản đối này thể hiện rất quyết liệt qua 3 bức thư
(viết khoáng cuối tháng 9 đầu tháng 10.1863) mà chúng tôi tìm thấy trong
Kho lưu trữ quốc gia Pháp tại Paris. Tác giả 3 bức thư này là Rieunier -
sĩ quan tham mưu ở Nam kỳ - gửi cho một nghị sĩ có thế lực ở Viện Lập
pháp, đồng thời cũng là tác giá viết cuốn Vấn đề Nam kỳ xét theo quyền lợi
người Pháp để kịp thời phân phát cho các chính khách thực dân Pháp, làm áp
lực phản đối việc phái bộ Phan Thanh Giản xin chuộc đất.
Nội dung 3 bức thư nhấn mạnh yêu cầu chính phủ Pháp
không giảm bớt hoặc triệu hồi sô quân viễn chinh ở Nam kỳ, liệt kê những
thành tựu “khai hoá” của Pháp ở Nam kỳ trong 4 năm qua (1859-1863). Vấn đề
cấp bách trước mắt - theo tác giả - là phải chiếm ngay toàn bộ Nam kỳ:
“Với những tài liệu gửi đến ngài trong bức thư
trước, tôi hy vọng giúp ngài khẳng định tầm quan trọng và triển vọng đặc
biệt của xứ Nam kỳ, một báu vật mà Thượng đế đã giao phó cho chúng ta,
cũng là vùng đất mà nước Anh thực sự thèm khát nhưng không dám thú nhận.
(…) Tại sao Chính phủ không nghĩ rằng cần phải có 3.000 hay 4.000 lính để
thúc đẩy nhanh chóng việc chinh phục thuộc địa tuyệt vời này? Hiện ở Nam
kỳ chúng ta chỉ có khoảng 1.800 - 2.000 lính. Và nếu chiến tranh lại nổ
ra? Rồi người ta sẽ hối tiếc khi không còn thời cơ nữa” (Kho lưu
trữ quốc gia Pháp - Fonds Berryer, 223AP-d2).
Cuối cùng, Napoléon III quyết định hủy bỏ tạm ước. Về
phía triều đình Huế, vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản làm Khâm sai đại thần ở
3 tỉnh miền Tây, tiếp tục thi hành lệnh giải giáp quân đội và nghiêm trị
những người nổi loạn.
Trên thực tế, ngay trong tháng 1.1865, được lệnh không
thi hành tạm ước, đô đốc De Lagrandière xúc tiến kế hoạch chiếm nốt 3 tỉnh
miền Tây. Tháng 10, 1866, y cử Vial ra Huế yêu cầu triều đình để cho Pháp
cai trị luôn 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Tháng 2.1867, một đai
diện của De Lagrandière lại ra Huế đòi chiến phí hàng năm theo điều ước
1862 và nhấn mạnh yêu cầu giao quyền cho Pháp ở 3 tỉnh miền Tây. Triều
đình Huế lúng túng, cuối cùng dành toàn quyền giải quyết vấn đề cho Phan
Thanh Giản.
Nắm được tâm trạng vua Tự Đức và triều đình Huế, De
Lagrandière triển khai kế hoạch đã dự tính và chỉ trong vòng 7 ngày (từ
18.6 đến 24.6.1867), quân Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây không tốn một
viên đạn. Bất lực trước tình thế, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử.
Thực ra, mưu đồ chiếm trọn Nam kỳ của thực dân Pháp để
từ đó nuốt gọn toàn bộ nước ta không phải chỉ mới xuất hiện sau hiệp ước
Nhâm Tuất (5.1862), mà là từ trước khi thực dân Pháp bắt đầu tấn ông Đà
Nẵng năm 1858. Một số chính khách có mặt lúc bấy giờ ở Trung Hoa như De
Courcy đã đề xuất việc cử một đạo quân viễn chinh sang Việt Nam, hoặc như
Bourboulon nêu ý kiến: “Phải dứt hoạt và phải làm đến cùng” nhằm
bước đầu chiếm cho được vài vị trí nào đó ở liệt Nam.
Nổi bật hơn cả là ý kiến của Huc, nguyên là một nhà
truyền giáo tại Trung Hoa. Tháng 1.1857, Huc gửi lên vua Pháp một bản ghi
nhớ với những đoạn như sau:
“(…) Cuộc cách mạng Pháp đã làm cho người ta quên
xứ Nam kỳ... Vùng Viễn Đông chẳng bao lâu nữa sẽ là nơi diễn ra những biến
cố nghiêm trọng. Nếu Hoàng đế muốn, nước Pháp sẽ đóng một vai trò quan
trọng và vinh quang ở vùng này; ngày nay hoàn cảnh hoàn toàn thuận hơn
trước cho việc chiếm Nam kỳ, để từ đó chúng ta có thể chiếm lấy lãnh thổ
Việt Nam.
Chiếm lấy Việt Nam là việc làm dễ dàng nhất trên
thế giới này và sẽ mang lại hiệu quả vô bờ bến. Tại biển Đông hiện lay,
nước Pháp có quá dư lực lượng để làm công việc này.
Đất đai Nam kỳ cực kỳ màu mỡ, ngang hàng với những
vùng đất chí tuyến giàu có nhất. Những sản phẩm chính có thể trao đổi, mua
bán hiện nay của Nam kỳ là đường, gạo, gỗ làm nhà, ngà voi v.v… Sau nữa là
vàng và bạc với những mỏ rất giàu đã được khai thác lâu nay.
Tóm lại, trong những điều kiện hiện nay, nước Pháp
rất cần có một cơ sở giàu và mạnh ở Viễn Đông. Xét về tất cả mọi phương
diện, Việt Nam là vị trí phù hợp với chúng ta nhất. Chúng ta có quyền
chiếm lấy Việt Nam, mà đây lại là công việc dễ dàng nhất trong mọi công
việc. Nước Pháp chẳng phải mất gì hết, có chăng chỉ là đánh mất những kết
quả lớn lao cả về vinh quang lẫn của cải (Dẫn theo Taboulet - La
geste francaise en indochine, tập I, tr.401-403).
Mưu đồ trước mắt và lâu dài của thực dân Pháp như vận
là đã rõ. 3 tỉnh miền Đông rồi 3 tỉnh miền Tây kế tiếp nhau rơi vào tay
Pháp, nhưng nhân dân Nam kỳ vẫn phất cao ngọn cờ kháng chiến, mặc dầu điều
kiện không còn thuận như trước.
Tháng 1.1872, lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội
Pháp dẹp giặc biển ở Bắc kỳ, Dupré cử trung tá hải quân Senez đem chiến
hạm Bourayne ra Huế báo tin rồi tiến thẳng ra vịnh Bắc kỳ. 10 tháng sau,
cũng dựa vào lý do trên, tướng D'Arbaud (tạm thay Dupré nghỉ phép) lại đưa
chiến hạm ra Bắc kỳ, tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội. Tuy bị
các quan địa phương phản đối, viên sĩ quan Pháp vẫn lên bộ quan sát Hà Nội
và các triền sông phụ cận rồi đệ trình một kế hoạch đánh chiếm Bắc kỳ.
Tháng 5.1873 Dupré báo cáo về Pháp: “Việc đánh chiếm Bắc kỳ là vấn đề
sinh tử cho tương lai thống trị của chúng ta ở Viễn Đông”
(J.Chesneaux dẫn trong Contribution à I’histoire de la nation
vietnamienne, tr. 122).
Trong việc xâm lược Bắc kỳ, thực dân Pháp ở Sài Gòn
liên kết hành động với Jean Dupuis, một lái buôn Pháp đang kinh doanh ở
Trung Hoa. Từ năm 1867, Dupuis dựa vào thế lực của quan nhà Thanh ở Vân
Nam cùng thực dân Pháp ở Sài Gòn bàn tính kế hoạch xâm nhập Bắc kỳ qua ngả
sông Hồng.
Tháng 7.1873, Thống đốc Nam Kỳ Dupré điện về Pháp: “Bắc
kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Dupuis, tạo hiệu quả sâu rộng trong
nền thương mại... Chiếm Bắc kỳ là tuyệt đối cần thiết để bảo đảm cho nước
Pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện binh gì hết,
tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi” (B.S.E.l. 2è sem.
1947 - J.Chesneaux dẫn, sách đã dẫn, tr. 122).
Giữa lúc đó, triều đình Huế cử một phái bộ vào Sài Gòn
yêu cầu thực dân Pháp ngăn chặn những hành vi ngang ngược của Dupuis ở Bắc
kỳ. Chớp cơ hội, ngày 11.10.1873, thiếu tá hải quân Francis Garnier được
cử ra Hà Nội phối hợp với lực lượng của Dupuis, đột nhập thành Hà Nội, yêu
cầu khai phóng sông Hồng.
Ngày 20.11.1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội;
Tổng đốc Nguyễn Tri phương uất ức nhịn ăn mà chết. Quân triều đình tan vỡ.
Quân Pháp thừa cơ chiếm các tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam
Định chỉ trong 20 ngày.
Mấy tháng sau đó, triều đình Huế lại phải ký tiếp với
thực dân Pháp hiệp ước Giáp Tuất (15.3.1874), chính thức thừa nhận Nam kỳ
là thuộc địa của Pháp, người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị
trên phần đất còn lại của Việt Nam. Như vậy, việc thực dân Pháp thực sự
đặt nền thống trị lên toàn cõi Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 60, 70 của thế
kỷ XIX, về quyết tâm chiếm đoạt Việt Nam bằng bất kỳ giá nào của thực dân
Pháp, triều đình nhà Nguyễn (cả vua lẫn quan) dù có phép thánh cũng không
thể nào nghe theo lời thúc giục của Nguyễn Trường Tộ là phải chớp lấy
“thời cơ” mà “nhảy xô ra” bắt tay thực hiện ngay những nội dung trong các
điều trần của ông.
Trong thế yếu tột cùng như vậy của triều Nguyễn và
trong điều kiện thực dân Pháp đã nắm chắc trong tay hai hiệp ước 1862 và
1874, những xét đoán của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề “thời cơ” của các năm
1871 -1872 đáng được trân trọng về mặt tâm huyết, nhưng nghiêm túc mà nói
thì đó là những xét đoán thiếu cơ sở thực tế, nếu không muốn nói là quá ảo
tưởng, thậm chí có người còn cho đó là “câu chuyện hài hước”.
IV
Hơn một thế kỷ nay, người ta đã bàn nhiều về tính “khả
thi” hay “bất khả thi” của những điều trần. Một số nhà nghiên cứu cũng ghi
nhận các điều trần của Nguyễn Trường Tộ phản ánh tâm huyết của một trí
thức có hiểu biết sâu rộng, thiết tha tìm cách giải nguy cho Việt Nam.
Có ý kiến nhận thấy những điều trần của ông không có gì
xa vời, ảo tưởng mà phần lớn nằm trong tầm tay của nước ta lúc bấy giờ.
Nhưng nhiệt tình và tài năng của ông đã bị bỏ qua chỉ vì “điều không may
cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu
nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, và một tầng lớp sĩ phu lỗi thời,
lạc hậu”. (Trương Bá Cần - Sách đã dẫn, tr.100).
Lại có ý kiến cho rằng: mãi đến năm 1871, Nguyễn Trường
Tộ mới đề xuất “sự thể hiện nay chỉ có hoà”. Nhưng từ 10 năm trước (1862),
vua Tự Đức đã thử nghiệm một cuộc “nghị hoà” (hiệp ước Nhâm Tuất và kết
quả là mất 3 tỉnh miền Đông, khiến cho thực dân Pháp tranh thủ “xin” nốt
toàn bộ Nam kỳ lục tỉnh (1867). Nếu Nguyễn Trường Tộ còn sống cho đến năm
1874 thì triều đình Huế còn một cuộc “nghị hoà” ngoạn mục hơn với hiệp ước
Giáp Tuất; và nếu ông còn sống lâu thêm cho đến các năm 1883, 1884 thì các
cuộc “nghị hoà” mang tên Harmand và Patenôtre còn ly kỳ hơn nhiều. Đã vậy
thì đâu phải triều đình Huế ngán ngại chuyện “hoà”, chẳng qua vì càng
“hoà” thì càng mất đất, mất quyền, cuối cùng là mất hết!
Ý kiến này cũng cho rằng tầm cao trí tuệ của Nguyễn
Trường Tộ thể hiện rõ nhất ở một số điều tiên đoán của ông, chẳng hạn như:
“Họ đã đến là không chịu đi nữa”, “con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ
cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi” hoặc: “Hiện nay
quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào
kinh đắp lũy thủ kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng,
rồng đã xuống biển..., có đánh họ cũng không đi, hoà họ cũng không đi”.
Nếu như hậu thế có quy phần nào trách nhiệm cho triều Nguyễn đã để mất
nước vào tay thực dân Pháp thì đó là vì nhiều lý do khác, chứ đâu phải vì
không vâng lời Nguyễn Trường Tộ nên để vuột mất “thời cơ”.
Nhắc lại ý kiến trên đây, chúng tôi sực nhớ câu nói của
một nhà sử học bậc thầy với các học trò của mình: Tìm hiểu con người mà bỏ
qua hoặc xem nhẹ vị thế của họ trong xã hội thì chẳng khác nào vớt một con
cá đang bơi tung tăng dưới sông đem đặt lên mặt bàn để phân tích về đời
sống của loài cá.
Vậy thì nên chăng vấn đề Nguyễn Trường Tộ và những điều
trần của ông cần được giới nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu thêm - dù có phải
tốn thêm thời gian và giấy mực - để có những nhận thức sâu sắc hơn về vị
thế của chính Nguyễn Trường Tộ trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam
những năm 60, 70 của thế kỷ XIX?
(1) Trương Bá Cần - Nguyễn Trường Tộ -
con người và di thảo - Nxb TPHCM, 1988.
(2) Nguyễn Trọng Văn - Quan điểm của Nguyễn Trường Tộ về
con đường cứu nước ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX - Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử số 4 (396), 2009, tr.32-35.
(3) Dẫn theo Trương Bá Cần - sđd, các tr.107-112.
(4) Dẫn theo Nguyễn Trọng Văn - tạp chí đã dẫn, tr.35.
Kiến thức ngày nay