(làng xã: từ góc nhìn tư liệu học
- foklore)
Những bài cùng tác giả
Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt
ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại phong kiến,
Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi,
để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người
dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ
và được bảo lưu trong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa
dân gian, trí thức Nho giáo luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó
có việc soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của
cộng đồng. Đây có thể xem là một nét riêng của trí thức Nho giáo Việt Nam so
với các nước trong khu vực Đông Á cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Bài tham luận này dựa trên những tài liệu do các nhà Nho
tham gia biên soạn, chỉnh lý đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ
cách tiếp cận liên ngành tư liệu học và foklore, để điểm lại những cố gắng
của trí thức Nho giáo trong quá trình Nho giáo hóa xã hội.
Phổ biến truyền bá biên dịch kinh điển Nho giáo:
Trong quá khứ đội ngũ các nhà trí thức đều đọc được chữ
Hán Nôm. Các hình thức dịch Nôm như diễn âm, giải âm, diễn ca, diễn nghĩa
các tác phẩm chữ Hán cũng chỉ nhằm chủ yếu cho 2 đối tượng là người còn
đang đi học (học các tác phẩm kinh điển qua bản diễn Nôm) và tầng lớp
bình dân (diễn Nôm các tích truyện, hoặc kinh Phật, diễn ca các bài
thuốc). Kinh điển Nho gia cũng đã từng được chú ý dịch sang chữ Nôm - tiếng
Việt. Hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 25 tên tài liệu là bản dịch kinh
điển sang quốc âm (chữ Nôm), dịch Nôm hầu hết Tứ thư, Ngũ kinh trong đó chủ
yếu là Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Trung Dung(1).
Riêng việc dịch Nôm Kinh Thi đã thấy có hai khuynh hướng là Thi học
và Kinh học. Xu hướng Thi học đã tước bỏ những chú giải của Tống Nho, để trả
lại vẻ đẹp ban đầu của Kinh Thi. “Các bản dịch Nôm khá đa dạng về thể
loại (văn xuôi, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ đan xen không đều
đặn giữa song thất với lục bát), và cũng đa dạng về hướng tiếp nhận, đan xen
cả việc tiếp nhận theo hướng kinh học và văn học, trong đó các bản dịch xuôi
có thiên hướng tiếp nhận kinh học hơn, còn với các bản dịch thơ, đặc trưng
thể loại đã giúp cho dịch giả phần nào thoát khỏi sự chi phối của yêu cầu
“kinh học hóa” để chuyển hướng dần sang cách tiếp nhận Kinh Thi với
tư cách một tác phẩm văn học” (2).
Việc phổ biến và truyền bá kinh điển Nho gia đến với xã
hội còn được thể hiện ở những lời dẫn dụng Nho điển trong khi các nhà Nho
soạn văn bia, câu đối, hoành phi cho các địa phương. Các sưu tập hoành phi,
câu đối và văn bia mà chúng ta đã sưu tầm được đầy rẫy những chữ nghĩa rút
ra từ kinh điển Nho gia. Đáng tiếc là cho đến hiện nay, chưa có khảo sát nào
về vấn đề này, để từ đó có thể rút ra những kết luận bổ ích về sự xâm nhập
của Nho điển trong làng xã cổ truyền Việt Nam.
Tham gia vào tín ngưỡng dân gian
Trí thức Nho giáo ở Việt Nam luôn sống giữa cộng đồng
làng xã. Con đường vào đời của họ là dùi mài kinh sử, theo nghiệp bút
nghiên, trải qua các kỳ thi, và “tiến vi quan, thoái vi sư”. Nếu đỗ đạt, họ
ra làm quan theo sự điều động của nhà vua, nếu không đỗ đạt, họ suốt đời ở
lại chốn hương thôn, trở thành những trí thức của làng quê. Họ trở thành
thầy đồ dạy học, thầy lang bốc thuốc, họ như những lãnh tụ tinh thần của
cộng đồng, trở thành chỗ dựa của xóm làng. Họ tham gia vào các sinh hoạt tín
ngưỡng của dân làng bằng việc văn bản hóa các truyền thuyết, sự tích ở địa
phương. Kết quả là cho đến nay, sưu tập về thần tích, sự tích, huyền tích
dân gian, tín ngưỡng dân gian có thể coi là một sưu tập có trữ lượng rất
lớn.
Trong số đó sưu tập thần tích có quy mô nhất, ghi chép lai lịch,
hành trạng thần kỳ và công đức lớn lao của hàng nghìn vị thần linh, các vị
thành hoàng được thờ ở khắp nơi, mang ký hiệu AE với 568 cuốn chép thần tích
của các vị thần của 2821 làng xã (thôn, trang, ấp) thuộc 22 tỉnh từ Nghệ An
trở ra Bắc.
Tiến hành nghiên cứu văn bản học mảng thư tịch này, có thể bóc tách
các lớp văn hóa được lưu lại. Trường hợp thần tích Tản Viên Sơn Thánh, Chử
Đồng Tử là những ví dụ(3). Đáng chú ý nhất là
chúng ta sẽ thấy được sự can thiệp của nhà Nho vào văn bản tín ngưỡng, cũng
như áp đặt tư tưởng Nho giáo vào trong hệ thống bách thần; nói cách khác,
người ta thấy được
các thần linh được dân gian thờ cúng đã hiện lên như thế nào qua lăng kính
nhà Nho(4).
Ngoài thần tích trong kho AE, còn một sưu tập khác ghi lại các câu
chuyện linh dị, các sự tích thần kỳ, thiêng liêng lưu truyền trong các làng
quê Việt Nam. Các nhà nghiên cứu thường đưa các sưu tập này vào mục tiểu
thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa), văn xuôi tự sự (Nguyễn Đăng Na), truyện truyền
kỳ (Nguyễn Huệ Chi) (5).
Các khảo cứu về văn bản học của Nguyễn Văn Hoài (đối với
Nam thiên trân di tập và Công dư tiệp ký)(6),
Nguyễn Thị Oanh (đối với Lĩnh Nam chích quái)
(7), Đào Phương Chi (đối với Việt điện u linh)(8)
cho thấy trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà Nho đã dành cho các tác
phẩm này sự quan tâm đặc biệt, thể hiện ở việc sao chép, thêm bớt, bình
luận, tăng bổ, chú giải… theo những quan điểm riêng của mình, mà kết quả là
làm cho chúng trở nên rất phức tạp về văn bản học, biến những tác phẩm từ
loại hình văn học chức năng sang loại văn học hình tượng và ngược lại.
Thần sắc (kho AD) với 411 cuốn là các bản sách chép các
sắc phong của triều đình phong cho các vị thần thành hoàng qua các thời kỳ
lịch sử. Tài liệu này nói lên sự đánh giá của nhà nước phong kiến đối với
các vị thần trong cả nước qua từng thời kỳ, từng triều đại cũng như hệ thống
thần linh phong phú và phức tạp của thần điện Việt Nam.
Khổng Tử không nói đến “quái, lực, loạn, thần”, không tin
quỷ thần, hoặc đối với thần linh thì “kính nhi viễn chi”. Nhưng ở Việt Nam,
thần quyền có một vị trí quan trọng trong đời sống quá khứ. Các triều đại
phong kiến Việt Nam đều rất coi trọng đến việc tế lễ, thờ phụng các vị thần,
đời nào cũng có ban tặng sắc phong cho các vị thần, đưa vào điển lễ. Vương
quyền và thần quyền đi song song với nhau trong tâm thức dân gian. Các cuộc
tế lễ ở đình làng luôn có sự tham gia của các nhà Nho ở hầu hết các nghi
thức: soạn văn tế, soạn bài hát thờ, soạn tục lệ thờ cúng, sưu tầm chỉnh lý
thần tích.
Ghi lại sinh hoạt làng xã:
Cho đến nay, những Cổ chỉ, Xã chí, Tục lệ, Hương ước, Địa
chí địa phương có thể xem là những sưu tập tư liệu hết sức đặc sắc mà các
nhà Nho đã ghi lại và đang trở thành nơi lưu giữ những ký ức về mọi mặt đời
sống quá khứ.
Kho Cổ chỉ ký hiệu AH, có 21 cuốn, bao gồm nhiều
loại hình tư liệu khác nhau, trong đó có cả các gia phả, thần tích, ngọc
phả...Sưu tập cổ chỉ được tập hợp theo từng xã, có ghi tên, chức tước và chữ
ký của người thừa lệnh sao chép, nhận thực. Có những bản còn ghi rõ nơi tàng
trữ và đóng dấu của địa phương ở phần cuối văn bản. Sưu tập này được sưu tầm
được tại một số xã thuộc 5 tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Sơn Tây, Lạng Sơn, Phúc
Yên.
Xã chí có ký hiệu kho
AJ, gồm 107 cuốn sưu tập các bản điều tra về địa chí một số thôn xã thuộc 27
tỉnh, từ Khánh Hòa trở ra Bắc, do các nhà Nho thực hiện theo yêu cầu của
Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội.
Tục lệ có ký hiệu kho
AF, gồm 732 cuốn, ghi chép về tục lệ, khoán ước của 74 huyện, phủ, châu,
thuộc 18 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Các bản tục lệ cũng được đóng theo từng
xã, thôn; trang đầu hoặc trang cuối văn bản thường ghi năm tháng lập hoặc
sao chép tục lệ, nhiều bản còn ghi được đầy đủ cả tên người lập khoán lệ,
tên những người ký tên xác nhận (9).
Biên soạn địa chí là một việc rất được các nhà Nho
quan tâm. Địa chí hiện thống kê được khoảng 113 cuốn. Nghiên cứu địa chí
ngoài việc quan tâm đến bản thân cuốn địa chí, còn góp phần nghiên cứu về sự
đánh giá và hiểu biết, cũng như sự gắn bó, tâm trạng và cảm quan của người
viết đối với vùng đất mà họ quan tâm biên chép. Các ghi chép của Dương Văn
An, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức, Bùi Dương Lịch, Vũ Phạm Khải, Phan Huy
Chú…đã thể hiện rất rõ điều này. Cuốn địa chí xưa nhất là Dư địa chí
của Nguyễn Trãi được viết trong niềm tự hào về non sông gấm vóc Đại Việt có
chủ quyền, có văn hiến, có nhân dân anh hùng và sáng tạo.
Ngoài những sưu tập kể trên, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán
Nôm cũng còn có nhiều thác bản văn bia khoán ước, điều lệ được sưu tầm từ
nhiều địa phương trong nước. Trong đó, đặc biệt phải kể đến các văn bia có
nội dung khuyến học, khuyến tài. Thống kê cho biết có đến 780 văn bia thuộc
loại khuyến học được tìm thấy trong kho thác bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(10).
Làng xã cổ truyền rất coi trọng người có học hành và
người đỗ đạt. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người trong xã hội, bất kể
sang hèn, giàu nghèo đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là
một trong những lý do để các làng xã coi trọng việc học hành. Và hình ảnh
“võng anh đi trước võng nàng đi sau” luôn là giấc mơ cao sang của các thôn
nữ, vợ của các khóa sinh. “Một người làm quan cả họ được nhờ” cũng là kỳ
vọng của các dòng họ đối với con đường nghiên bút của các sĩ tử trong họ.
Những người đi thi, đều có khát vọng được ghi tên tuổi, quê quán trên bảng
vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình
và đất nước. Dưới sự sắp đặt của những người có chữ hoặc đã đỗ đạt trong
làng, một số thiết chế văn hóa đã được thiết lập như các văn chỉ được xây
dựng để thờ Đức Khổng Tử và các vị tiên hiền, tiên nho trong làng; ruộng học
điền được lập; các hương ước có thêm phần khuyến học, miễn lính, miễn phu
cho các khóa sinh; v.v. Đặc biệt nhất phải kể đến các hội Tư văn ở các làng
xã, được xem là một tổ chức bao gồm những người có học trong làng.
Đây là mảng tài liệu tổng hợp về mọi mặt đời sống nông
thôn Việt Nam trong lịch sử như phong tục, tập quán, lề thói, thổ ngơi, diên
cách, di tích, lễ hội của các làng quê.
Xây dựng gia đình truyền thống:
Ý thức về dòng họ đi liền với việc xây dựng và duy trì
nền nếp gia phong rất được các nhà Nho quan tâm. Với quan niệm “Quốc hữu sử,
Gia hữu phả” thường là câu mở đầu của các gia phả, các nhà Nho đã biên soạn
những bộ gia phả cho dòng họ mình và thậm chí còn viết gia phả cho các dòng
họ khác. Gia phả không chỉ cho biết việc của một dòng họ, quá trình thiên di
phát tán, phát triển của một dòng họ mà còn cho chúng ta biết về sự hình
thành một vùng đất, những cư dân đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp, và sự đóng
góp của các dòng họ cụ thể đối với một làng quê, một vùng đất cụ thể...Nhiều
gia phả dòng họ lớn đã ghi được nhiều sự kiện mà chính sử đã không thể ghi
chi tiết, từ đó đã bổ sung cho chính sử. Thống kê cho biết Viện Nghiên cứu
Hán Nôm có 264 cuốn gia phả (11).
Về tài liệu gia huấn hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, thống kê được 51 tên sách (12). Gia huấn
góp phần xây dựng tiêu chuẩn, lối sống cho mọi người theo đạo đức Nho giáo.
Nói đến gia huấn, người ta vẫn nghĩ đến một cuốn sách
giấy dó, trên viết chữ Hán Nôm, ít người biết gia huấn còn được khắc trên
đá. Chọn hình thức lưu giữ trên bia đá, hẳn các nhà Nho mong muốn những lời
giáo huấn này sẽ lưu truyền mãi mãi và vững bền như cùng các giá trị truyền
thống của các bản gia huấn. Đó là những quyển sách đá ghi những lời vàng
ngọc của tổ tiên truyền dạy lại cho con cháu. Chúng tôi đã tìm được một số
gia huấn được khắc trên bia đá, trong đó có một số văn bia tiêu biểu cho
loại này như sau:
Văn bia Tích thiện gia huấn bi ký
(13) do Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm soạn năm 1765,
khi ông đang giữ chức Binh bộ thị lang, hiện còn tại miếu làng Tiên Điền, xã
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Văn bia ghi lại lời dạy của ông đối với
con cháu trong gia tộc, khuyên giữ gìn gia phong, tu dưỡng đạo đức, dốc sức
làm việc thiện để vun trồng cội phúc, làm gương cho hậu thế.
Văn bia Tân san gia huấn bi
(14)tại nhà thờ họ Nguyễn ở xã Phú Đa, huyện
Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc khắc bài văn bia do Phạm Vĩ Khiêm soạn năm 1767,
khắc rõ 10 điều gia huấn, khuyên con cháu: Giữ lòng ngay thẳng, chăm chỉ học
hành, hiếu thuận nhân từ, ăn ở kính nhường, vợ chồng hòa thuận, cung kính
đôn hậu, bạn bè tin cậy, hòa mục với láng giềng, phụng dưỡng cha mẹ, chăm
chỉ nghề nghiệp.
Nhà thờ họ Vũ, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có
tấm bia Miễn tử tôn cần học thi (16),
tạc năm 1660, khắc bài thơ Đường luật và đôi câu đối khuyên con cháu cần cù
học hành giữ nghiệp tổ tiên cày bừa trên ruộng sách, sau này được hiển vinh
nơi khoa giáp rồi ra giúp vua giúp nước.
Nhà thờ họ Vũ, xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương, có tấm bia Tu cấu đường châm (16)
do Tiến sĩ Vũ Đăng Long soạn năm 1675, khắc bài châm nói về việc tu
dưỡng lòng trung tín, dốc sức học hành.
Một võ quan cao cấp dưới triều Lê Cảnh Hưng là Nguyễn Sỹ
Trung vào năm 1766 cũng tự tay soạn văn bia Từ huấn bảo minh
(17) khắc một bài văn vần 50 câu căn dặn con cháu phải giữ gìn đạo
đức, cần kiệm, trung hiếu, không rượu chè bê tha, không làm điều phi nghĩa,
để giữ lấy truyền thống của tổ tiên, đặt tại nhà thờ họ Nguyễn của mình ở xã
Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Đặc biệt nhất, phải kể đến bia Vũ Vu thiển thuyết
khắc hẳn cả một cuốn sách của Ninh Ngạn (1715 - 1781) được con trai là Ninh
Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã
Yên Mỹ, huyện Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Văn bia gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn
ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông. Phần 2 khắc toàn văn bộ
sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách. Trong đó có các chương 1 và
2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan
hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ
chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người;
chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về
việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều
nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở
tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32
bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về
những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng
khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống - chết, vinh - nhục ở đời
(18).
Sưu tập văn học dân
gian và sáng tác thơ ca
Nhà Nho Việt Nam sống giữa làng xã, tham gia vào các sinh
hoạt làng xã. Không chỉ soạn thảo các văn bản ghi chép về phong tục tập quán
hay phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, hoặc sưu tầm, ghi chép lại các
câu chuyện thần kỳ linh dị trong dân gian mà còn sưu tập thơ ca dân gian.
Một trong những kết quả đó là kho tàng truyện thơ Nôm.
Kho tàng truyện thơ Nôm có một khối lượng tác phẩm đáng
kể với 106 tên tác phẩm truyện Nôm và 47 tác phẩm truyện thơ của các dân tộc
ít người, được viết bằng chữ Nôm của dân tộc họ (19).
Truyện thơ Nôm khuyết danh do các nhà Nho hoặc ghi lại được, hoặc sáng tác
dựa trên các tích truyện lưu truyền trong dân gian, và có mục đích là dành
cho đông đảo công chúng rộng rãi ở tầng lớp bình dân (có người gọi mảng văn
học này là truyện Nôm bình dân).
Theo các soạn giả của bộ sách Kho tàng ca dao người
Việt thì chúng ta có 12 sưu tập ca dao được ghi chép bằng chữ Nôm
(20). Đó là các tập Nam phong giải trào,
Thanh Hóa quan phong, Nam giao cổ kim lý hạng ca dao chú giải, Đại Nam quốc
túy, Quốc phong thi tập hợp thái, Việt Nam phong sử, Nam âm sự loại, Nam
phong nữ ngạn thi, Khẩu sử ký, An Nam phong thổ thoại, Phỏng Thi kinh Quốc
phong, Lý hạng ca dao. Các sưu tập ca dao này cũng đã được sử dụng trong
quá trình tuyển chọn đưa vào bộ sách.
Gần đây, Nguyễn Thúy Loan cho biết có 7 cuốn sách Hán Nôm
sưu tập tục ngữ của người Việt (21) và giới
thiệu trong tập sách Tục ngữ trong sách Hán Nôm
(22). Những sưu tập này đều do các nhà Nho
thực hiện.
Ngoài ca dao, tục ngữ chúng ta còn thấy có các sưu tập
thơ ca dân gian. Đáng chú ý về mảng này là các tác phẩm thơ văn giáng bút,
theo thống kê của Nguyễn Xuân Diện riêng ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có 254
cuốn sách, trong đó có 226 bản là bản in(23).
Các tập thơ văn này được sưu tập từ 98 Thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở
châu thổ Bắc bộ. Nghi lễ giáng bút là một hoạt động mang đậm tín ngưỡng dân
gian dưới ảnh hưởng của Đạo giáo. Nhưng nội dung thơ văn giáng bút cũng
chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn lại do các nhà nho
chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian nửa
cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng
yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.
- Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi: Giáng bút lời các vị
anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng,
Bà Triệu...; Giáng bút lời các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như:
Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo
Hạnh...; Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hóa như: Tô Hiến Thành,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan...Thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ, thúc
giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất
nước.
- Chấn hưng văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Đề
cao việc nâng cao dân trí; Bài bác hủ tục; Đề cao phụ nữ (giáng bút lời
Thánh Mẫu cho phụ nữ); Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau; In
ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ.
Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm rất thuận lợi
cho việc truyền miệng và không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình
dân không biết chữ .
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, nó đã
làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Đó là những biểu
tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Yêu Nước Thương Nòi, Giống
Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm
đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động.
Một mảng nữa, nằm ở gạch nối giữa văn học và sử học là
các bộ sử ca, diễn ca lịch sử bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát như:
Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca,...Là các
tác phẩm sử học, nhưng các tác phẩm này lại chứa đựng ít nhiều cảm quan, tâm
thức dân gian trong việc xây dựng các hình tượng anh hùng dân tộc. Hình ảnh
Bà Triệu vú dài ba thước chẳng hạn, đấy là một hình ảnh phóng đại của lối
nói dân gian. Đấy là chưa kể đến cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, lối nói ví
von của dân gian trong miêu tả, xây dựng nhân vật.
Sáng tác và sưu tầm nghệ thuật sân khấu, ca nhạc
dân gian:
Sân khấu dân gian:
Hai loại hình ca vũ để lại nhiều văn bản thư tịch nhất là
tuồng và ca trù. Điều này hoàn toàn không khó hiểu, vì đây là hai loại hình
ca vũ nhạc gắn liền với sinh hoạt của cung đình và trí thức.
Tuồng luôn đề cao tư tưởng quân quốc, kịch bản đa số bắt
nguồn từ các tích truyện của Trung Hoa.
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 23 pho tuồng, và
49 pho tuồng là các bản photocopy do thư viện Hoàng gia Anh trao tặng
(24. Tác giả Phan Ngọc cho biết, khi ông cùng
với ông Lê Ngọc Cầu viết quyển Nội dung xã hội và mỹ học Tuồng đồ thì
đã có trong tay trên 100 vở tuồng đã phiên chuyển quốc ngữ
(25).
Về chèo, hiện chúng ta có 7 kịch bản chèo cổ (Hà Ô
Lôi, Nhị Độ Mai, Kiều, Hoa Vân, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Viên...).
Việc trình diễn các tích chèo được diễn ra tại làng (địa điểm là giữa đình -
một nơi công cộng), trong hội làng (thời điểm có đông nhất các thành viên,
thành phần tham dự: chức sắc, quan viên, dân làng). Các kịch bản chèo Nôm
còn lại đến nay cho thấy các nhà nho đã trực tiếp văn bản hóa các tích chèo,
góp phần gìn giữ di sản sân khấu dân gian.
Ca nhạc dân gian:
Vốn ca nhạc dân tộc được ghi chép rất tản mạn, có thể
hình dung như chúng ta đang có các sổ tay của những người yêu nghệ thuật ca
hát. Ca trù tạp lục (VHv.2940) có chép các bản đàn Giao duyên, Cổ
bản, Nam bằng, Kim tiền, Nam ai, Nam thương, Tứ đại cảnh...Ca trù thể
cách (AB.160) có chép ca từ của một số làn điệu Hát lý, Hát bội, Hát sắc
bùa. Đại Nam quốc âm ca khúc (AB.146) có ca từ các điệu Nam bằng, Nam
ai, Tứ đại cảnh; các bản đàn Kê Khang, Tư Mã Phượng Cầu, Tam Thiên tụng, Phú
lục (26).
Về Ca trù hiện chúng ta có 49 cuốn sách, 70 văn bia có
liên quan đến ca trù (27). Nguồn tài liệu này
đóng một vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về ca
trù một bộ môn nghệ thuật kết hợp giữa thơ - nhạc - vũ đạo vốn có mặt trong
hầu hết sinh hoạt văn hóa tinh thần của ngưòi Việt qua nửa thiên niên kỷ. Ca
trù được ghi chép khá đầy đủ và toàn diện trước hết là vì ca trù gắn liền
với sinh hoạt của giới nho sĩ có học vấn nhất định. Các tư liệu thư tịch và
bi ký này đã cho phép khẳng định một số vấn đề sau: lịch sử và sự phát triển
của bộ môn nghệ thuật ca trù trong không gian trình diễn nghệ thuật riêng
của nó; về sinh hoạt và tổ chức giáo phường ca trù; về các làn điệu ca trù,
đặc biệt là thể thơ hát nói. Các văn bản Hán Nôm về ca trù ghi rõ lề
lối hát ca trù tại các đình làng, ca quán, tại buổi lễ tế tổ, hoặc tại tư
gia, thậm chí là quy cách và nội dung các vòng thi ca trù. Nhờ những ghi
chép của các nhà nho xưa mà chúng ta biết họ đã quan tâm đến nghệ thuật ca
trù như thế nào, và để nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù.
Kết luận
1. Nghiên cứu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo tại
Việt Nam ngoài các các vấn đề mang tính chính thống như quá trình truyền bá
kinh điển; ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học, sử học, giáo dục và khoa
cử, đạo đức và luật pháp, chính trị v.v. thì một vấn đề không kém phần quan
trọng đó là nghiên cứu ảnh hưởng và tác động của Nho giáo, Nho học đối với
văn hóa dân gian. Với thao tác tiếp cận liên ngành, đa ngành những dấu ấn
hay biểu tượng cũng như sự khúc xạ của Nho giáo trong những tầng sâu của văn
hóa dân gian sẽ được phát hiện và bổ sung cho những hiểu biết về một xã hội
Việt Nam đã được đặt dưới ảnh hưởng của Nho giáo như thế nào.
2. Trí thức Nho giáo Việt Nam đã tham gia soạn thảo thư
tịch để phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội vào sinh hoạt của cộng đồng
làng xã và để lại một khối lượng thư tịch lớn. Những thư tịch này cho thấy
trí thức Nho giáo đã tích cực xây dựng một xã hội theo Nho giáo, từ cấp
trung ương đến cấp địa phương, tới đơn vị nhỏ nhất là làng xã.
3. Việc tham gia vào sinh hoạt làng xã đã góp phần vào
việc Nho giáo hóa xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ. Quyết tâm ấy thể hiện
không chỉ ở việc ra sức truyền bá kinh điển Nho gia mà họ còn trực tiếp tham
gia vào mọi mặt của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của làng xã; xây dựng gia
đình theo truyền thống Nho giáo; ghi lại sáng tác dân gian và tự sáng tác
các tác phẩm mang đậm chất foklore.
4. Để có một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về vai trò của
trí thức Nho giáo trong việc Nho giáo hóa xã hội từ góc nhìn foklore còn cần
bổ sung bằng các cứ liệu của các ngành nhỏ của văn hóa dân gian như: Lễ hội,
Tín ngưỡng, Phong tục, Nghệ thuật tạo hình (mỹ thuật, kiến trúc và điêu khắc
dân gian), Nghệ thuật biểu diễn (âm nhạc, múa, trò diễn). Bài này chỉ giới
hạn khảo sát về những nỗ lực của trí thức Nho giáo để Nho giáo hóa xã hội
nhìn từ góc nhìn liên ngành tư liệu học - folklore.
CHÚ
THÍCH
1.
Xem thêm bài Tổng quan
tài liệu Nho giáo và Nho học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (khảo sát và đánh giá
về trữ lượng và giá trị
của Nguyễn Xuân Diện, tạp chí Hán Nôm số 1- 2005.
3.3 Xem bài của Nguyễn Xuân Diện trong kỷ yếu hội thảo
khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997; và
bài của Đỗ Lan Phương trên tạp chí Văn hóa dân gian số 1 năm 2004.
22. Tục ngữ trong sách Hán Nôm. Nguyễn Thúy
Loan. Nxb. Văn học. Hà Nội, 2007. 589 tr.
27. Nguyễn Xuân Diện: Nguồn tư liệu Hán Nôm với việc
nghiên cứu ca trù. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn đã bảo vệ thành công năm
2007. Bản lưu tại thư viện Hán Nôm.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba
tập. Gs. Trần Nghĩa và Gs. Francois Gros đồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã
hội. Hà Nội, 1993.
2. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Bổ
Di. Tập Thượng và Hạ. Trần Nghĩa chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội,
2002.
3. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Nguyễn Quang Hồng
chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
4. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919. Ngô Đức
Thọ chủ biên. Nxb. Văn học. Hà Nội, 1993.
5. 50 năm Sưu tầm Nghiên cứu Phổ biến Văn hóa - Văn
nghệ dân gian. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Khoa
học xã hội. Hà Nội, 1997.
6. Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân
gian Việt Nam. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Văn
hóa - Thông tin. Hà Nội, 2001.
7. Nghiên cứu Chữ Nôm. Kỷ yếu Hội nghi Quốc tế về
Chữ Nôm. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Hội Bảo tồn chữ Nôm Hoa
Kỳ đồng tổ chức. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
8. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế.
Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard-YenChing tổ chức.Nxb.
KHXH. Hà Nội, 2006.
[Tóm tắt]
Văn nghệ dân gian bao gồm các lĩnh vực sinh hoạt văn hóa tinh thần
của nhân dân lao động sống một đời sống khép kín sau lũy tre làng – một biểu
tượng của một xã hội đóng kín cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Tìm hiểu về dấu
ấn của Nho giáo trong văn nghệ dân gian cũng chính là tìm hiểu con đường
thâm nhập của Nho giáo vào cơ tầng làng xã vốn được xem như những ốc đảo
biệt lập. Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt
Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại, Nho giáo khẳng
định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn
thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn
Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo
lưutrong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, văn
nhân trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc
soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng
đồng. Kết quả là họ đã để lại trong kho tàng thư tịch cổ Việt Nam một khối
lượng thư tịch lớn các văn bản phản ánh nhiều mặt của cuộc sống trong quá
khứ.
Tham luận này đi sâu phân tích khối lượng tư liệu đồ sộ
này dưới ánh sáng của khoa học liên ngành, đa ngành, góp phần nghiên cứu các
vấn đề sau: Trí thức Nho giáo và quá trình Nho giáo hóa xã hội Việt Nam; Trí
thức Nho giáo với các thư tịch Hán Nôm được soạn thảo phục vụ sinh hoạt của
đời sống xã hội; Quá trình bảo lưu và khúc xạ của Nho giáo trong lòng xã hội
Việt Nam.
***
Confucian Scholars and the
Influence of Confucianism on Society
Nguyen Xuan Dien, PhD
Folklore includes many spiritual and cultural realms of
people who have a close life inside the “bamboo rampart”- the symbol of a
closed society in both a literal and figurative sense. To study the impact
of Confucianism in folklore requires studying Confucianism’s penetration of
the village’s community structure which was considered to be an “isolated
oasis”. Through thousands of years, Confucianism appeared in Vietnam as a
guide for rulers and as a foundation of dynasties. Confucianism’s influence
pervaded all aspects of life in Vietnam, particularly the spiritual culture
of people in the rural villages in Vietnam. From the beginning the values
and ideals of Confucianism was reflected and maintained in Folklore at
certain levels. Participating in folkloric activities, Confucian scholars
developed an interest in the community activities of the village chronicling
the religious ceremonies and customs and traditional practices and beliefs
of the community. In doing this they created and maintained a large number
of documents incorporating details of the traditional culture. These
materials serve as an invaluable source of information about the past.
Applying interdisciplinary methodologies and a review of
this body of materials, this study focuses on studying two points:
1. The role of Confucian scholars and the process by
which Confucianism influenced Vietnamese society;
2. The role of Confucian scholars and their work, the
body of Sino-Vietnamese documents, in chronicling the traditional social
activities, and helping preserve and perpetuating them.
|