Nhiều người trong chúng ta đã đọc đi đọc lại những
câu mở đầu và kết thúc Truyện Kiều, nhưng không phải ai cũng hiểu hết
những ý tình ẩn trong đó. Xin giới thiệu với các bạn bài TRĂM NĂM TRONG
CÕI NGƯỜI TA trong quyển Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn
chương Truyện Kiều của tác giả Phạm Đan Quế – Nxb Giáo dục 2002,
Nxb Thanh niên tái bản năm 2004.
Truyện Kiều có đặc điểm là nhiều
khi cứ đọc đi đọc lại mãi rồi ngẫm nghĩ mới thấy được hết cái hay. Ở
đây, chúng tôi chỉ xin được trao đổi trước hết về kết cấu đoạn thơ và
triết lý trong 20 câu Kiều quen thuộc: 6 câu đầu và 14 câu cuối tức
20/3.254 câu (0,61%) của tác phẩm bất hủ này.
A. Trước hết là 6 câu mở đầu tác
phẩm. Đây là đoạn giới thiệu nguồn gốc đề tài, cốt truyện và cảm hứng
chủ đạo của tác giả. Trong kết cấu tác phẩm, đoạn thơ mở đầu Truyện
Kiều, thuộc thành phần ngoài cốt truyện. Từ câu thứ 7 trở đi (Cảo thơm
lần giở trước đèn), chúng ta được tiếp xúc với gia đình của nhân vật
chính và những sự kiện mở đầu cho câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều bạc
mệnh.
Để nói được chủ đề của tác phẩm
cùng triết lý trong truyện, Nguyễn Du mở đầu bằng 6 câu chia làm 3 đoạn:
0001. Trăm năm trong cõi người
ta,
Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau.
Đây là thuyết Tài mệnh tương đố của
các nhà Nho áp dụng cho mọi người (Nam cũng như nữ). Là con người thì có
tài ắt mệnh kém và ngược lại. Quan niệm được nọ mất kia, hơn tài kém
mệnh là tinh thần giáo điều dựa theo đề tài, cốt truyện trong các tác
phẩm xưa thể hiện khuynh hướng cảm hứng chính thống trong nền văn học
trung đại. Khuynh hướng ấy đã được các tác giả kinh điển của Nho gia
phát ngôn như qua sách Luận ngữ trong câu “Thuật nhi bất tác” có nghĩa
là: Noi theo, dựa theo (người xưa) mà không sáng tạo.
0003. Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Chủ ý của hai câu này là từ tư
tưởng Phật giáo: Đời là bể khổ, ý chính là đoạn trường (đau đớn đến
đứt ruột) cũng là để nêu nhan đề của tác phẩm: Đoạn Trường Tân Thanh
(Tiếng mới đứt ruột).
Chữ mà ở đây dùng để nhấn mạnh một
lời than của tác giả đau đớn vì thấy hết được cái đau đớn của nàng Kiều,
bởi tác phẩm của ông là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt ruột không
chỉ cho một mà cho mọi số kiếp bị đọa đầy.
0005. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Bỉ: cái kia, sắc: ít, tư: cái
ấy, phong: nhiều– Bỉ sắc tư phong là điều kia kém thì điều này hơn,
đã đẹp (má hồng) thì phải chịu khổ, trời xanh đã định vậy: thuyết
Hồng nhan bạc mệnh. Đây là diễn ý của câu 1–2 cho mọi người, câu 5–6
dành riêng cho phận gái – Một nửa của nhân loại.
Còn câu 2 và 6 lại nói về mệnh trời
(chữ MỆNH, TRỜI xanh), đây là thuyết Thiên mệnh của Nho giáo.
Như vậy chỉ có 6 câu mở đầu mà tác
giả đã trình bày được tới 4 triết thuyết: thuyết Tài mệnh tương đố
của các nhà Nho, tư tưởng Phật giáo: Đời là bể khổ, thuyết Hồng nhan bạc
mệnh, thuyết Thiên mệnh của Nho giáo. Chả thế mà Chỉ với hai câu mở đầu,
nhà Nho Vũ Trinh ở thế kỷ 19 đã phê: “Mạo đầu sổ ngữ cảm khái hệ
chi. Khai quyển sổ cú tận chi “ (Ở mấy lời mở đầu quyển truyện niềm
cảm khái đã vang theo. Mấy câu đầu đã nói trọn cốt truyện).
Trong ngôn ngữ truyền thống, người
ta gọi đây là đoạn “phát đoan”. Các nhà nghiên cứu văn học hiện nay xếp
đoạn thơ này thuộc thành phần ngoài cốt truyện mang nội dung biểu hiện ý
kiến có tính chất triết lý, có giá trị tổng kết của tác giả. Thuật ngữ
khoa học gọi đoạn thơ này là ngôn ngữ thuyết lý, là lời bình luận trữ
tình hoặc cụ thể hơn, là lời bình luận trữ tình ngoại đề. Từ câu 7 là
đoạn chuyển: Cảo thơm lần giở......
Câu 9– Rằng: Năm Gia Tĩnh.. là thời
gian, thuộc thế kỷ 15, câu 10– Bốn phương... hai kinh...là không gian
của câu chuyện sắp xảy ra để đi vào tác phẩm, bắt đầu bằng câu 11:
Có nhà viên ngoại họ Vương..
Chỉ với 6 câu thơ mở đầu mà ta thấy
ở đây một giá trị nghệ thuật đặc sắc ở tính chất khái quát hàm súc trong
nội dung, ý nghĩa bộc lộ trực tiếp thế giới quan và nhân sinh quan của
tác giả và cả một phong cách ngôn từ sinh động đưa triết học đến với thế
giới văn chương và tạo cho gương mặt thi ca chiều sâu của tư duy triết
học (Đặng Thanh Lê).
Cũng trong những câu mở đầu này,
chúng ta cần chú ý đến mấy từ thuần Việt mà tác giả đã chuẩn bị công
phu:
Khéo là ghét nhau: khéo ở đây là
tiếng lấy làm ngạc nhiên, mỉa mai, châm chọc, tưởng khen mà lại là
chê bai, dùng để chê trách như khéo thay, rõ khéo biểu thị sự lạ
lùng, nực cười, khó hiểu cũng như khéo trong những cụm từ khéo
chửa, khéo vẽ.Trong Cung oán ngâm khúc cũng có câu: 88.Cái phong ba khéo
cợt phường lợi danh.
–Lạ gì: chẳng có gì là lạ, biểu thị
một thái độ bực tức, chán ngán, dè bỉu, khinh thường, quen quá đi rồi
còn lạ gì nữa trong các câu:
1161. Đà đao lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay.
1287. Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra?
– Quen thói với giọng chì chiết,
bêu riếu, khinh thị, xấc xược, căm ghét trong câu:
1303. Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
Trong 6 câu, tác giả ghi nhận một
cách thản nhiên cái định luật oái oăm của ông Trời, của tạo hóa với
những sắc thái biểu cảm sinh động biết bao. Về 6 câu này, trong bài
Giọng điệu trong văn chương, Hoàng Ngọc Hiến viết:
Muốn hiểu Truyện Kiều phải bắt được
cái giọng của tác giả trong 6 câu triết luận mở đầu. Điều quan trọng
trong đoạn mở đầu này không chỉ ở luật oái oăm, ác hại của cõi người ta:
Tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh. Điều quan trọng
hơn cả là cái giọng mỉa mai hờn mát đay đả của tác giả khi nói đến những
luật này.
0001. Trăm năm trong cõi người
ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
Tác giả không thản nhiên ghi nhận
cái luật oái oăm này. Thái độ tác giả bao hàm nhiều sắc thái. Từ khéo là
có bao nhiêu nghĩa thì cái giọng của tác giả biểu hiện ở đây có bấy
nhiêu sắc thái: mỉa mai, hờn mát, rỡn cợt, châm chọc... Tài mệnh
tương đố không phải là tư tưởng của Truyện Kiều. Triết lý của Truyện
Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ
khéo là vào câu tài mệnh tương đố.
Câu 5–6: Cũng như cách phân tích ở
trên, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh không phải là tư tưởng đích
thực của Truyện Kiều. Ở đây cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật cõi
đời và luật của trời, Nguyễn Du là một người đáo để với cái giọng đay
đả, đay nghiến của ông: Lạ gì... Ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực
tức, chán ngán... Cái giọng văn của Nguyễn Du khi nói đến luật hồng nhan
bạc mệnh bao hàm một thái độ đối với trời xanh, một cái giọng “xẵng” và
thái độ “xấc”. Với cái giọng này và thái độ ấy, nhà thơ có chửi luôn
cả Trời thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên...
B. Về 14 câu cuối cùng của tác phẩm. Nếu thuyết
Thiên mệnh của Nho giáo được nêu ra ở câu 1–2 (chữ TÀI, chữ MỆNH) và
5–6 (trời xanh) thì trong 4 câu đầu của đoạn kết của tác phẩm lại được
nhắc lại và mở rộng:
3241. Ngẫm hay muôn sự tại TRỜI
TRỜI kia đã bắt làm người có thân.
3243. Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao
Ngẫm hay: chỉ hai chữ này thôi
cũng cho ta thấy tác giả đã nung nấu suy nghĩ rất nhiều để đi đến
kết luận này dù còn rất bi quan: Ở đời người ta đều có số, do Trời định
sẵn (Mệnh Trời). Tác giả đay nghiến ông Trời kia bằng cách lặp lại chữ
TRỜI ngay ở đầu câu 3242 tiếp ngay chữ TRỜI ở cuối câu 3241. Ông còn
dùng những chữ bắt–phải, cho–mới được, rồi chì chiết bằng cách lặp lại
hai lần những chữ phong trần, thanh cao.
Tiếp theo là 4 câu về thuyết Tài
mệnh tương đố tương ứng với câu 2 (Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét
nhau) được phô diễn cụ thể:
3245. Có đâu thiên vị người nào,
Chữ TÀI chữ MỆNH dồi dào cả hai,
3247. Có tài mà cậy chi tài,
Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.
Tác giả lặp lại bốn lần: chữ TÀI,
chữ MỆNH, chữ TÀI, chữ TAI dùng hai lần chữ TÀI và một lối chơi chữ
rất thần tình Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần làm cho người đọc
càng thấy xót xa, căm giận cho cái luật lệ trớ trêu này của tạo hoá.
Nếu câu 3–4 ở đầu truyện chỉ nhằm
nói triết thuyết đời là bể khổ của đạo Phật (Trải qua một cuộc...Những
điều trông thấy...) thì ở đây với những chữ của nhà Phật nghiệp, thân,
thiện căn lại là 4 câu khuyên phải làm gì để thoát khỏi bể trầm luân,
nỗi đau triền miên của nhân loại, là tư tưởng TU TÂM của Phật giáo:
3249. Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cùng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
3251. Thiện căn bởi tại lòng ta,
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.
Thế là đoạn mở đầu Truyện Kiều và
đoạn kết thúc tác phẩm mang tầm độ, ý nghĩa khái quát, tổng kết về toàn
bộ số phận và tính cách Thúy Kiều, về những vấn đề chủ yếu đã đặt ra
trong tác phẩm. Cái lối trên hô dưới ứng như vậy mà chúng tôi đã trình
bày trong chương III ở trên xưa gọi là phục bút. Nghiệp, thân, thiện
căn, chữ TÂM là những từ của nhà Phật. Tác giả mở đầu Truyện Kiều bằng 3
đoạn, mỗi đoạn 2 câu nói về thuyết Thiên mệnh (Tài mệnh tương đố, Hồng
nhan bạc mệnh) của Nho giáo và Đời là bể khổ của Phật giáo thì ở đoạn
kết ta cũng thấy có 3 đoạn mỗi đoạn 4 câu nêu lại những vấn đề ấy và
cũng là để khép lại chủ đề của truyện. Và chúng ta lại càng thấy thi hào
Nguyễn Du viết chặt chẽ đến từng câu từng chữ: Lời lời châu ngọc, chữ
chữ tổn tinh thần. Khi đọc đến 2 câu cuối cùng của cuốn sách trước khi
gấp lại, ta thấy sao mà khiêm tốn vậy và quả là rất Nguyễn Du:
2353. Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.