Những bài cùng tác giả
(Tham luận ở Hội thảo Tự lực văn đoàn tại Cẩm Giàng
ngày 9-5-2008)

Trước khi phát
biểu mấy ý kiến trong bản tham luận ngắn này - giới hạn vào hai đặc điểm
thuộc tính theo tôi là cốt lõi của Tự lực văn đoàn với tư cách một tổ chức
văn học, chứ không bàn sâu đến thành tựu sáng tác của họ - xin được nói vài
lời phản biện với bản Báo cáo đề dẫn mở đầu Hội thảo, trong phần điểm
lại hai mặt: con người tiến bộ và con người phản động của Nhất Linh, nhân
người đề dẫn có mời gọi sự phản biện của đại biểu “để cho ý kiến đề dẫn sáng
tỏ hơn”.
Tôi nhắc lại một câu bất hủ trong lá thư tuyệt mệnh của
nhà văn Nhất Linh: “Đời tôi để cho lịch sử xử”. Nhất Linh tin chắc lịch sử
sẽ phán xử công bằng với mình. Nhưng lịch sử mà ông hiểu là cả một thời đoạn
dài, đủ sức sàng lọc mọi giá trị và vén xong các lớp mây mù để lộ diện quy
luật vận hành khách quan của nó. Lịch sử quyết không phải là phát ngôn của
quyền lực ở bất kỳ thời điểm nào đấy, càng không phải là phát ngôn của những
ai ảo tưởng rằng mình chính là tiếng nói cuối cùng của chân lý. Nếu chấp
nhận với nhau trên một cách nhìn như thế, tôi nghĩ, câu nói của Nhất Linh
phải được coi là nguyên tắc phương pháp luận then chốt của cuộc hội thảo
khoa học tại địa điểm Cẩm Giàng hôm nay, cũng như mọi cuộc hội thảo về Nhất
Linh và Tự lực văn đoàn rồi đây sẽ còn được tiến hành ở những vùng miền
khác. Có nhiều con đường yêu nước khác nhau chứ không phải chỉ một, và sự so
sánh hơn kém đúng sai giữa chúng, thông qua một góc nhìn thường là chật hẹp,
nặng tính chất thời sự, bao giờ cũng chỉ rút ra được những giá trị hết sức
tương đối, đôi khi là giá trị ảo. Chưa biết con đường nào đã hay hơn con
đường nào nhưng nếu nhà yêu nước nuôi dưỡng trọn đời một lý tưởng trong
sáng, không có mưu đồ đem giang sơn Tổ quốc mà mình giành được ra chia chác,
“xã hội hóa” vô vàn đất đai béo bở thành của riêng của bè cánh mình, họ hàng
con cháu mình, làm cho đất nước lại có nguy cơ lâm vòng hiểm họa, thì trước
sau, hình bóng họ sẽ vẫn ghi đậm trong lòng dân chúng.

Phía trước nơi xưa kia là “Trại Cẩm Giàng” nhìn ra con
đường xe lửa trong truyện ngắn
Thạch Lam. Từ trái sang: Phong Lê, Lại Nguyên Ân, Nguyễn
Huệ Chi, Chương Thâu
Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng
I. Tự lực văn đoàn là tổ
chức văn học đầu tiên của nước ta mang đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng
tác theo nghĩa hiện đại. Hội đoàn ấy bắt đầu bằng một tờ báo, đấy là tờ
Phong hóa bộ mới mà số đầu tiên phát hành vào ngày 8 tháng Chín năm 1932
- tức số 13 - đã lập tức biến một tờ báo vốn đang ế ẩm thành một hiện tượng
đột xuất trong làng báo Hà Nội lúc ấy. Theo Nguyễn Vĩ, ngay số đầu tiên, tờ
báo đã “bán chạy như tôm tươi” (Văn thi sĩ tiền chiến) báo hiệu một
cái gì thật mới mẻ đang xuất hiện trên đất Hà thành. Hội đoàn ấy chính thức
tuyên bố thành lập vào tháng Ba năm 1934,
với một tôn chỉ gồm 10 điều mà chúng ta có thể tổng hợp lại trong 4 điểm,
thể hiện bốn phương diện nhận thức liên quan khăng khít, tự thân chúng có ý
nghĩa đối trọng ngay lập tức với hiện tình sáng tác và thực trạng xã hội
đương thời:
1. Về văn học, tôn chỉ nhắm tới 3 mục tiêu lớn:
a. Dấy
lên một phong trào sáng tác làm cho văn học Việt Nam vốn đang nghèo nàn có
cơ hưng thịnh (“Tự sức mình làm ra những cuốn sách có giá trị về văn
chương... mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước”/ trước 1930 sự
vắng vẻ của văn đàn vẫn là một tâm trạng mặc cảm của giới cầm bút, mặc dầu
văn học miền Nam đã sản xuất vô số tiểu thuyết văn vần và văn xuôi theo hình
thức lục bát và chương hồi);
b. Xây dựng một nền văn chương tiếng Việt đại
chúng (“Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có
tính cách An Nam”/ ngôn ngữ của tạp chí Nam phong đại diện cho tiếng
nói văn chương thuở ấy vẫn là ngôn ngữ đệm nhiều danh từ Hán Việt và dành
cho tầng lớp học thức cao trong xã hội);
c. Tiếp thu phương pháp sáng tác
của châu Âu hiện đại để hiện đại hóa văn học dân tộc (“Đem phương pháp khoa
học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam”/ ảnh hưởng của tiểu thuyết
phương Tây đã đến miền Nam khá sớm nhưng hình thức lại bị “lại giống” do
“lai” với tiểu thuyết cổ Trung Quốc).
2. Về xã hội, đề cao chủ nghĩa
bình dân và bồi đắp lòng yêu nước trên cơ sở lấy tầng lớp bình dân làm nền
tảng (“Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến
cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách
trưởng giả quý phái” / cho đến cuối những năm 20, các khái niệm “chủ nghĩa
bình dân”, “nết hay vẻ đẹp bình dân” và “yêu nước một cách bình dân” hãy còn
là quá mới lạ, chưa hề xuất lộ trong tư duy của tầng lớp sĩ phu được gọi là
“tiên tri tiên giác”, và cũng chưa hiện hình thành quan điểm ở một người vốn
đã thực hiện chủ nghĩa bình dân trong thực tiễn như Nguyễn Văn Vĩnh);
3.
Về tư tưởng, vạch trần tính chất lỗi thời của những tàn dư Nho giáo đang
ngự trị trong xã hội (“làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời
nữa” / công khai chống lại lễ giáo phong kiến Tự lực văn đoàn đã gây một cú
“sốc” ý thức hệ, chấn động hết thảy mọi thành phần còn dính dáng ít nhiều
đến Nho học, thậm chí vẫn để dư chấn đến tận Hội thảo này);
4. Về con
người, lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của mọi sáng tác
(“Tôn trọng tự do cá nhân”, “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu
và tin ở sự tiến bộ” / văn chương trước 1930 chưa bao giờ đưa con người cá
nhân lên vị trí trung tâm, không những thế, giọng điệu chung của nó là bi ai
sầu thảm. Tự lực văn đoàn tuyên chiến với thứ tâm trạng xã hội nặng nề đó;
với nó “cái bi” cũng phải được đối xử, vượt qua, bằng niềm vui sống).
Với 4 điểm như đã tóm tắt, cái hội đoàn do Nguyễn Tường
Tam thành lập rõ ràng đã hiện ra trong tư cách một trường phái văn học hoàn
chỉnh, khu biệt với mọi kiểu tổ chức văn học xuất hiện trước mình. Trở về
trước, các thi xã truyền thống trong lịch sử thường phải dựa vào thế lực của
một tầng lớp bên trên như vua quan, hay lãnh chúa một vùng, chẳng hạn Hội
Tao đàn của Lê Thánh Tông, Chiêu Anh các của Mạc Thiên Tích. Hoặc là tập hợp
của một đám thượng lưu quý tộc, chẳng hạn Mặc Vân thi xã của Anh em Miên
Thẩm. Các loại thi xã đó đều lấy việc ngâm vịnh văn chương để chơi
làm mục đích, nên rất ít mở rộng ảnh hưởng ra ngoài thi xã. Tính khép kín là
đặc điểm hiển nhiên của chúng. Tự lực văn đoàn trái lại, là sự tập hợp những
con người không có quan tước, cũng không có thế lực nào bảo trợ.
Họ gồm 7
người là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân
Diệu (không có Trần Tiêu).
Đứng về mặt xã hội phải nói họ đều là “chân trắng”. Nhưng họ lại tập hợp
nhau lại vì một lý tưởng muốn cống hiến cho văn học, thông qua văn học mà
đóng góp cho xã hội, và cùng chung sức nhau xã hội hóa hoạt động sáng tác
của họ, trong sự vận hành của cơ chế thị trường văn học nghệ thuật đang dấy
lên từ Nam ra Bắc thuở bấy giờ. Nghĩa là họ chấp nhận sự cạnh tranh để sống
còn bằng nghề văn của mình. Họ không chỉ biết đến tiểu thuyết, thơ ca mà còn
ràng buộc với nhau trong việc sống nhờ vào hai tờ báo và một nhà xuất bản.
Họ không hy sinh mục đích văn chương cao quý cho việc kiếm kế sinh nhai bằng
mọi giá, nhưng việc kiếm kế sinh nhai lại chính là điều kiện để họ giữ vững
thiên chức văn học như một “mục đích tự thân”,
điều mà có lẽ, từ 1945 đến nay, chưa một văn đoàn nào trên đất Việt
làm nổi và có ý thức, có gan làm (còn nhớ cách đây vài năm, khi có ý kiến đề
xuất chuyển các hội sáng tác văn học nghệ thuật trở về đời sống dân sự đúng
nghĩa, bỏ hẳn cơ chế “xin cho”, thì chính các vị lãnh đạo ở các hội ấy đã
đồng loạt lên tiếng khẩn thiết đòi bảo vệ quyền thiêng liêng của mình là...
vẫn được sống dựa vào Nhà nước).
Cũng khác với các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, để có thể tổ chức được
một nhóm cầm bút với mục đích truyền bá cái mới của Âu Tây cũng như bước đầu
xây dựng nền văn chương quốc ngữ, đều không tránh khỏi phải núp bóng Nhà
nước Bảo hộ, Tự lực văn đoàn là một đoàn thể văn học hoàn toàn mang tính
chất tư nhân, không ve vãn, nhân nhượng bộ máy đương quyền và không hề phát
ngôn cho quyền lực dù lâm vào tình huống o ép khó xử nhất.
Như vậy, có thể nói, Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học
chưa có tiền lệ trong văn học Việt Nam. Những mặt ưu trội kể trên đưa lại
cho nó một sức hấp dẫn đặc biệt, không tiền và nếu tính đến nay thì cũng là
khoáng hậu, đẩy nó lên địa vị gần như tuyệt đối trên văn đàn trong vòng 8
năm nó tồn tại trên thực tế. Sự ra đời của nó có tác dụng kích thích phong
trào sáng tác văn học của cả nước như là một tất yếu, một nhu cầu nội tại,
với tư cách một sự tìm kiếm và tự thực hiện của khát vọng tự do. Đó là
phương diện chủ chốt vạch rõ sự khác biệt bản chất giữa nó với các hội đoàn
văn học từ 1945 về sau mà ta không thể mượn tiêu chí này kia làm những cột
mốc so sánh.
II. Bên cạnh đặc điểm
quan trọng như đã nói, một phẩm chất khác cũng không kém nổi bật l à Tự lực
văn đoàn thể hiện cái khát vọng dân chủ trong đời sống văn học nghệ thuật.
Dân chủ trước tiên chính ở nề nếp sinh hoạt rất có tính nguyên tắc của một
tổ chức văn học được xây dựng theo những chuẩn mực mới mẻ của Âu Tây. Không
chỉ đề xuất ra 10 tôn chỉ mà thôi, để luôn luôn quán triệt 10 tôn chỉ trong
hoạt động thực tế, mọi công việc của văn đoàn, nhất là công việc ra từng số
báo, in từng cuốn sách, đều được bàn bạc tập thể, đều có tranh luận sôi nổi
với nhau và cuối cùng có sự nhất trí của cả nhóm. Tư cách rất đáng trọng của
Nhất Linh khiến ông làm tròn vai trò hạt nhân của văn đoàn cho đến khi nó
tan rã là ở chỗ, mặc dù quyết đoán, ông không bao giờ lạm dụng uy thế một
ông bầu và một ông chủ báo, hay cố giữ một “khoảng cách” với người cộng sự,
như hầu hết các ông chủ báo cốt dùng tờ báo để khoe danh và thăng quan tiến
chức. Ông hòa hợp mật thiết với anh em đồng đội, nhận số lương ngang như anh
em, gánh vác tất cả mọi việc không khác gì anh em. Chính vì thế, tình nghĩa
giữa 7 con người trong văn đoàn, như Tú Mỡ thừa nhận, giữ được thắm thiết
sâu bền. Quan trọng hơn nữa, nếu như Đông Dương tạp chí cũng có cả
một tòa soạn song rốt cuộc mọi cá nhân khác đều dường như lu mờ đi sau cái
bóng của Nguyễn Văn Vĩnh; nếu như Bộ biên tập của Nam phong tạp chí
còn hùng hậu hơn Đông Dương tạp chí mà vẫn không ai nổi đậm bằng hoặc
hơn so với Phạm Quỳnh, thì Tự lực văn đoàn toàn toàn khác. Nói đến văn đoàn
ấy không thể chỉ nói một mình Nhất Linh. Trọng lực của văn đoàn phân đều cho
mỗi thành viên và chỉ cần thiếu đi một, sáu “ngôi sao” còn lại đã không thể
hội tụ thành nguồn ánh sáng tiêu biểu của văn đoàn. Đông Dương và
Nam phong dù sao cũng chỉ mới là sự thăng hoa tài năng của một vài cá
nhân, còn đến Tự lực văn đoàn thì đã thật sự có một đột biến về chất: một sự
thăng hoa tập thể, nó là kết quả của ý thức dân chủ từ người đứng đầu chuyển
hóa sang đồng đội. Tất nhiên, cũng không phải vì thế mà uy tín người thủ
lĩnh của Nguyễn Tường Tam bị hạ thấp hay xem nhẹ. Là một nghệ sĩ đa tài, một
con người giàu tâm huyết và có tầm nhìn xa, Nhất Linh đã biết đoàn kết cả
nhóm lại trong một ý hướng chung do mình xướng xuất, biết truyền niềm say mê
mãnh liệt của mình cho người khác, nhất là có con mắt tinh đời, biết khơi
gợi đúng thiên hướng của từng người để mỗi tác giả trong văn đoàn trở thành
một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại.
Như
Khái Hưng, được ông
khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí,
Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ
được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn
vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu
cho “thơ mới”… Có ai ngờ được rằng bấy nhiêu lời chỉ bảo tưởng chừng bâng
quơ như thế cuối cùng đều có một đáp án chính xác: chỉ sau chưa đầy 3 năm kể
từ ngày thành lập, Tự lực văn đoàn nghiễm nhiên là một hàn lâm văn học sang
trọng, phát ngôn cho mọi chuẩn mực giá trị của văn học được công chúng xa
gần thừa nhận. Và mỗi thành viên của nó cũng nghiễm nhiên đóng vai trò ông
tổ của cái hình thức sáng tác mà Nhất Linh đã phó cho mình cầm chịch. Không
ai còn có thể tranh ngôi vị cây bút tiểu thuyết tài danh của Khái Hưng. Nói
đến giọng thơ trào phúng kế sau Tú Xương ai cũng phải nhường Tú Mỡ. Còn Thế
Lữ thì được cả làng “thơ mới” thừa nhận là chủ soái thi đàn. Cũng không thể
quên Thạch Lam với những kiệt tác truyện ngắn trữ tình mà về sau ít người
sánh kịp. Và Xuân Diệu, người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn thắng cho
“thơ mới”, phổ vào thơ cái ma lực của những cảm xúc đắm say quyến rũ. Riêng
Nhất Linh không những không nhường Khái Hưng về tiểu thuyết, ông còn là nhà
văn luôn luôn tìm tòi không ngừng, không mỏi. Vừa cho ra mắt một loạt tiểu
thuyết luận đề làm cả một thế hệ thanh niên mê thích, ông lại thoắt chuyển
sang dạng tiểu thuyết không cốt truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm
lý nhân vật làm chủ điểm (Đôi bạn), rồi lại thoắt chuyển sang dạng
tiểu thuyết khơi sâu vào những miền khuất tối, không dễ nhận biết của cái
“tôi”, cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người, kể cả sự mò mẫm vô thức
trên quá trình cái “tôi” phân thân, tự hủy, ít nhiều mang dáng dấp hiện sinh
(Bướm trắng)... Có thể nói từ sinh hoạt dân chủ trong nội bộ, thấm
vào tình cảm của mỗi thành viên rồi tác động qua lại lẫn nhau, tinh thần dân
chủ đã như một chất men kỳ lạ kích thích niềm phấn hứng sáng tạo của từng cá
nhân trong văn đoàn, bắt người nào cũng gắng sức đua tranh không chịu kém
thua người khác, khiến họ đều vươn tới vị trí đỉnh cao trên đàn văn cũng như
bộc lộ hết tài hoa của họ. Tác động liên hoàn giữa khát vọng dân chủ đến
bùng nổ sức sáng tạo chính là như vậy.
Nhưng là một tổ chức văn học và báo chí có ảnh hưởng ngày
càng sâu rộng, tinh thần dân chủ nhen nhóm trong văn đoàn Tự lực cũng đã lan
tỏa dần ra ngoài, đúng hơn, nó được cả văn đoàn sử dụng như một nguyên tắc
thẩm mỹ và một nguyên tắc hành nghiệp linh hoạt mà bất biến, trong bất kỳ
mọi sáng tạo văn học nghệ thuật cũng như mọi hoạt động xã hội nào của họ.
Dân chủ ở ngay cách đối xử với cộng tác viên nhiệt tình,
trân trọng và hết mực chu đáo, kể cả với người lần đầu cầm bút, nâng hẳn tầm
thước của họ lên trong chính mắt họ, đặt họ ngang hàng sòng phẳng với mình,
gieo vào lòng họ niềm tin ở thiên hướng nghệ thuật mà họ thực sự có tài năng
và đang tận tâm đeo đuổi.
Tự lực văn đoàn là nơi phát hiện ra Anh Thơ, Tế Hanh, Nguyên Hồng, Đỗ Đức
Thu, Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển, Thanh Tịnh... Cũng Tự lực văn đoàn lần đầu tiên
trình diện các bậc danh họa Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, xướng lên cuộc cải
cách y phục với kiểu áo “Lơ muya” của họa sĩ Cát Tường, và công bố trên tờ
báo của văn đoàn những bài tân nhạc của Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương... Dân
chủ còn ở cách họ tổ chức các giải thưởng văn học đầy uy tín, như những
trọng tài tận tụy, công tâm, mà một điều khoản hệ trọng được đặt lên đầu là
Hội đồng Giám khảo không bao giờ lại đồng thời là ứng viên dự giải - chuyện
tưởng chừng “sơ đẳng”, đến phong kiến cũng có luật “hồi tị”, mà hóa ra trong
nền văn học nghệ thuật của chúng ta suốt bằng ấy năm đã bị đảo ngược và cái
đảo ngược đã trở thành “thông lệ”, đến nỗi ở thời điểm 1956 học giả Phan
Khôi không sao hiểu được phải lên tiếng phê bình, oái oăm thay là sự thẳng
thắn đó đã giáng tai họa lên đầu ông. Bởi thế, khi xác nhận công lao của Tự
lực văn đoàn như một hội đoàn có vị trí khai sáng trong văn học hiện đại ta
không nên quên rằng chính cái văn đoàn ấy, với đích nhắm nghệ thuật vô tư,
trong sáng, với văn hóa ứng xử đàng hoàng, mẫu mực, phương pháp điều hành
minh bạch, quy tụ được rộng rãi tinh hoa văn nghệ trong cả nước, đã khai
sáng ra cùng với nó những hình thức thể loại mũi nhọn trong văn học hiện đại
Việt Nam và cả trong nghệ thuật hiện đại Việt Nam như hội họa, ca nhạc mà nó
là nơi thể nghiệm, nơi ghi dấu ấn của những đại biểu tiên phong.
Vài chục năm qua kể từ sau đổi mới, chúng ta đã dành
nhiều giấy mực để luận bàn nhằm từng bước giải tỏa nhiều thành kiến khắt
khe, cố chấp, cố gắng trả về cho lịch sử văn học những giá trị đích thực của
khối lượng tác phẩm do Tự lực văn đoàn để lại.
Ta đề cập tới trong sách vở của họ các khuynh hướng đấu tranh chống lễ giáo
phong kiến, khuynh hướng lãng mạn, ca ngợi tình yêu và hạnh phúc cá nhân,
khuynh hướng nghiêng mình xuống số phận những con người cơ cực, bần cùng,
cho đến khuynh hướng không bằng lòng với cuộc sống trưởng giả, tẻ nhạt cũ
kỹ, quyết dấn thân vào con đường gió bụi, “mê man trong hành động”, tuy chưa
biết hành động sẽ đi đến đâu nhưng ít nhất cũng là sự giải thoát cho mình
khỏi nỗi mặc cảm đau xót của thân phận người dân mất nước v.v... Ta cũng
không quên cuộc cách tân văn xuôi to lớn của họ, cấp cho họ một giọng văn
trong trẻo, chuẩn mực, giàu sức biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu, và một cấu
trúc thể loại mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho trục diễn tiến đường
thẳng theo trình tự thời gian và cái nhìn đa chiều trong soi chiếu nhân vật
thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện; là sự có mặt của
thiên nhiên như một đối tượng thẩm mỹ. V.v...
Nhưng điều có dễ chưa mấy ai lưu ý là từ tất cả những
bình diện khác nhau kia, tác phẩm của Tự lực văn đoàn hình như đã đúc nên
được một phong vị khó lẫn, nó là cái yếu tố ẩn sâu dưới tầng ngôn bản, kết
nối các giá trị ấy lại với nhau. Theo tôi, đó chính là vẻ đẹp của tinh thần
dân chủ mà mỗi thành viên đã thấm nhuần sâu sắc và chuyển tải vào tác phẩm
theo cách riêng. Chính nó đã gây ra cho người đọc đương thời biết bao nhiêu
bâng khuâng thắc thỏm về một điều gì mới lạ mà mình không lý giải nổi khi
đọc văn chương của nhóm Tự lực; cũng chính nó bắt người đọc nhập thân vào
thế giới nghệ thuật của Tự lực văn đoàn không giống như đi vào thế giới của
các nhà văn hiện thực phê phán, một bên là cái thế giới bắt mình có sự
nghiệm sinh trong đấy, bên kia là cái thế giới để mình phẫn nộ, lên án,
nhưng không nhất thiết có mối liên lạc với mình. Phải chăng khi đến với
những trang viết của Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam... bao giờ người ta
cũng phải bắt mình đối diện với chính cái “tôi” một cách bình đẳng, nghiền
ngẫm tra vấn nó, tức là nhìn vào thế giới sâu thẳm bên trong mình. Dân chủ
trong tiếp nhận văn học trước hết là ở đấy. Dù ngày nay ngôn ngữ văn chương
không ít tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã bộc lộ sự mòn sáo thì âm hưởng “tự
nghiệm” của chúng vẫn không cũ.
Tuy nhiên, điều rất cần nhấn mạnh ở đây còn là một phương
diện khác, một cách biểu hiện dân chủ bằng sự vận dụng hữu hiệu ngôn ngữ
trào phúng. Với tờ báo Phong hóa, ngay từ buổi đầu thành lập, Tự lực
văn đoàn đã biết nắm lấy một vũ khí lợi hại là tiếng cười. Ai cũng biết
tiếng cười là một liều thuốc hóa giải được mọi khổ đau. Về mặt mỹ học, xin
mượn một câu nói của Hegel: nó “trình bày cái thế giới hư hỏng như là đang
giãy giụa chống lại tình trạng hư hỏng của mình, tình trạng này biến mất do
tính chất vô nghĩa lý ở bản thân nó”.
Tiếng cười còn thần kỳ ở chỗ, chỉ trong phút chốc, mọi địa vị xã hội bị nó
đảo lộn, thằng hóa ra ông, ông hóa ra thằng. Tận dụng được các phương cách
này, đúng như Vu Gia nói, tờ báo Phong hóa có sức công phá như một
“trái bom nổ giữa làng báo” .
Dưới ngòi bút của họ, cả một xã hội gồm những ông tai to mặt lớn trong giới
quan trường, học thuật, báo chí, văn chương, uy thế đến như Toàn quyền
Brévié, Thống sứ Châtel, Khâm sứ Graffeuil, Hoàng đế Bảo Đại, Thượng thư
Phạm Quỳnh, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, Đốc lý Virgitti, cho đến cả những nhân
vật hủ lậu ở nông thôn mà biểu tượng là Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh... đều bị
đem ra chế giễu, bị ngòi bút châm chọc của họ làm cho điêu đứng. Bằng tiếng
cười của mình, Tự lực văn đoàn đã khéo léo hạ bệ các thần tượng phong kiến
và thực dân, đưa các vị xuống đứng cùng hàng với đám chúng sinh khổ ải. Mặt
khác, lại cũng phải nói như Vũ Bằng, sự chế giễu tuy thế vẫn biết giữ ở
chừng mực của học vấn và trí tuệ, ngoại trừ một số trường hợp nào đó, nó
không đi quá đà đến đả kích cay cú, “cười cợt người ta mà không thóa mạ ai”.
Tuy cùng thời với Nhóm Tự lực cũng có khá nhiều tờ báo tìm nhiều cách gây
cười cho độc giả, nhưng phải đến báo Phong hóa thì cái cách cười hóm
hỉnh thông minh của nó mới đủ hiệu lực biến một xã hội già nua lụ khụ thành
một thế giới vui nhộn trẻ trung. Lần đầu tiên, báo chí giành được cho mình
cái quyền trao đổi công khai mọi chuyện nghiêm trang nhất, biến nó thành
những chuyện để cười, thành một sinh hoạt bình thường, hợp pháp, lành mạnh,
được xã hội thừa nhận. Thử hỏi, báo chí chúng ta cho đến đầu thế kỷ XXI này
đã dám đem những chuyện nghiêm trang ra trao đổi một cách dung dị từ góc
nhìn bình đẳng - đùa vui với nó - mà không có gì phải e ngại, hay là mỗi khi
muốn cười cợt đôi chút vẫn phải nhìn trước ngó sau xem đã đi đúng “lề đường
bên phải” mà quyền lực dành cho mình? Vậy nên, phải nói trào phúng là đóng
góp lớn lao của Tự lực văn đoàn vào việc dân chủ hóa đời sống xã hội, một
đóng góp từ trước chưa hề có và từ sau 1945 đến nay, báo chí cách mạng cũng
dễ đâu đã theo kịp.
*
* *
Tự lực văn đoàn đã chấm dứt hoạt động thực tế kể
từ sau năm 1940, tính đến nay đã 68 năm, gần bằng tuổi đời của kẻ viết bản
tham luận này. Một khoảng thời gian không phải là ngắn, kèm theo biết bao
sóng gió của một thời không chút bình yên về mọi mặt. Nhưng có điều rất lạ:
càng lùi xa thì độ sáng của hiện tượng văn học mà ta đang xem xét dường như
lại sáng hơn lên, diện mạo của những nhân vật nòng cốt trong Nhóm Tự lực lại
càng hằn bóng nơi tâm trí chúng ta. Đó là bằng chứng chắc chắn của những giá
trị đã biết cách tự khẳng định, không để cho quy luật sinh tồn đào thải.
Điều may mắn là chúng ta còn một địa chỉ để tìm lại ít nhiều những dấu vết
cũ: mảnh đất Cẩm Giàng, nơi xưa kia từng có trại Cẩm Giàng của dòng họ
Nguyễn Tường. May mắn, bởi vì với tốc độ của công cuộc công nghiệp hóa ào ạt
- và cả lộn xộn - hiện tại trên hầu khắp làng thôn Việt Nam, giữ được nguyên
trạng mảnh đất trại Cẩm Giàng xưa quả thực là hy hữu. Thiết tưởng, đã đến
lúc tỉnh Hải Dương và huyện Cẩm Giàng đón lấy thời cơ để biến mảnh đất gọi
là “cố trạch” ấy thành một di tích lịch sử đúng nghĩa. Đó là việc làm hợp lẽ
tiến hóa và là niềm mong mỏi không phải chỉ của Cẩm Giàng hay Hải Dương mà
còn của giới văn học và khách tham quan văn hóa trong cả nước, hơn thế, cả
nhiều người Việt ở nước ngoài và nhiều nhà Việt Nam học thế giới. Năm nay,
sau 74 năm chính thức xuất hiện bản tuyên ngôn thành lập Tự lực văn đoàn,
Hội thảo về Tự lực văn đoàn ở Cẩm Giàng tổ chức. Hy vọng không phải đợi đến
dịp kỷ niệm 80 năm ra đời bản tuyên ngôn đó mà sớm hơn, khi trở về lại Cẩm
Giàng, những người yêu mến Tự lực văn đoàn sẽ nhìn thấy một trại Cẩm Giàng
được phục chế đúng như nguyên trạng, bên cạnh đó là một Thư viện Tự lực văn
đoàn khang trang nhằm mở mang kiến thức cho bà con trong vùng. Đó là cách
thiết thực nhất kỷ niệm Tự lực văn đoàn và cũng là sự tiếp nối tích cực tôn
chỉ của họ: “Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình
dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân”.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Huệ Chi
|