Những bài cùng tác giả
Trong những năm gần đây, một mốt thời thượng trong một số nhà văn thơ
Việt Nam trong nước và ngoài nước là sáng tác theo trào lưu “hậu hiện
đại” (post-modernist), bắt nguồn từ tư tưởng và văn hóa của các trí thức
phương Tây trong những thập niên cuối thế kỷ 20. Những tiên phong và
tiền vệ (avant-guard) đầu tiên mong muốn khai phóng, tạo ra những cái
mới, đột phá trong sáng tác để tạo ra dòng chảy mới trong văn học, nghệ
thuật Việt Nam như trước đây văn học “thơ mới”, tiểu thuyết hiện đại
thời tiền chiến đã phát sinh trong bối cảnh thay đổi tư tưởng, xã hội to
lớn mà văn hóa truyền thống Việt Nam hấp thụ từ bao thế kỷ của nền văn
minh phương đông, chủ yếu dựa vào Khổng Mạnh trong tầng lớp trí thức và
Phật giáo trong quần chúng, đã bị buộc phải thích nghi trong thế giới
hiện đại khi văn minh Tây phương ảnh hưởng mạnh mẽ từ thế kỷ 19, thì
trào lưu “hậu hiện đại”, theo họ là một bước tất yếu trong quá trình hội
nhập của Việt Nam, nhất là trong thời kỳ toàn cầu hóa đang xảy ra hiện
nay.
Tuy nhiên, hiện có một hố ngăn cách lớn lao giữa những nhà văn, nghệ sĩ
theo “hậu hiện đại” và tất cả những nhà văn hóa khác thuộc diện “không
hậu hiện đại” về sự đánh giá các sáng tác, nền tảng mỹ quan, tư tưởng và
ngay cả sự hiểu biết thế nào là “hậu hiện đại” và lịch sử tư tưởng dẫn
đến triết lý “hậu hiện đại”.
Cũng xin nói trước là tôi không phải là chuyên gia nghiên cứu về “hậu
hiện đại”, nhất là “hậu hiện đại” trong bối cảnh trong văn hóa nghệ
thuật Việt Nam hiện nay, và càng không phải là nhà văn hay nhà thơ “hậu
hiện đại”. Tôi viết bài này, dưới nhãn quan của một người làm khoa học
đã có tìm hiểu về sự liên hệ giữa “khách quan” khoa học và “chủ quan”
hiện đại và hậu hiện đại, không ngoài mục đích muốn tìm hiểu và có sự
thông hiểu giữa những nhà làm văn hoá nghệ thuật “hậu hiện đại” và những
người không hay chưa “hậu hiện đại” trong sáng tác về tư tưởng, triết lý
và đặc điểm chính của “hậu hiện đại” trong bối cảnh Việt Nam.
Vấn đề cơ bản hiện nay cho sự phát triển văn học “hậu hiện đại” trong
văn học Việt Nam là sự khuyến khích, môi trường có sự đối thoại, trao
đổi, tranh luận trên các diễn đàn rộng rãi với nhiều giới làm văn hóa
tham gia và sự thông hiểu dễ dàng thế nào là “hậu hiện đại”. Dĩ nhiên
nếu chỉ chủ tâm vào độc giả đã thấm nhuần tư tưởng hậu hiện đại và cùng
hội ý, đồng tâm trong sáng tác thì không còn là vấn đề gì nữa đáng nói.
Nhưng trong bối cảnh hiện nay trong văn học trong và ngoài nước, đã có
những sự va chạm giữa những nhà hậu hiện đại và “chính thống” mà nhiều
người theo hậu hiện đại cho rằng là do sự bảo thủ, sức trì quá lớn của
văn học Việt Nam so với các nước khác và có hơi bi quan về sự phát triển
của văn học nghệ thuật hậu hiện đại trong văn hóa Việt Nam. Đa số các
nhà hậu hiện đại đều trẻ và có trình độ nhận thức cao và họ đã tạo cho
họ có chổ đứng riêng trong môi trường sách báo, tạp chí và mạng hiện
nay. Trong không gian đấy rất sôi động và rất sáng tạo. Nhưng không gian
ấy vẫn còn nhỏ và sẽ phát tán rộng hơn nếu tư tưởng hậu hiện đại được
phổ cập hay phổ thông hóa trong quần chúng và chính vì thế trách nhiệm
của các nhà hậu hiện đại là phổ thông hóa thay vì phàn nàn hay bi quan
về sức trì hay trình độ nhận hiểu tiếp nhận của độc giả hiện nay. Toàn
cầu hóa có thể làm cho sự khó khăn này dần dần biến mất nhưng hệ quả của
toàn cầu hóa là chưa nhất quán ở nhiều nơi.
Đối với những người mới với “hậu hiện đại” và muốn tìm hiểu về “hậu hiện
đại”, thì khi đọc các bài của các tác giả “hậu hiện đại” thì phải nói là
rất khó hiểu qua nhiều lý do. Một lý do chính là từ ngữ và sự chuyển ngữ
các từ trừu tượng mang tính triết học hay tư tưởng như siêu tự sự
(meta-narrative), phá cấu trúc (deconstruct), cấu trúc luận
(structuralism), hâu cấu trúc luận (post-structuralism)... và ít khi
giải thích hay nói rõ cốt lõi những quan niệm, triết lý trên mà hàm ý là
người đọc đã biết rồi. Lý do nữa là các lập luận dựa trên quá nhiều tu
từ thường lập đi lập lại (rhetoric) và từ ngữ thời thượng của các tác
giả hậu hiện đại Tây phương mà các tác giả này viết cho độc giả đã có ít
nhất cơ bản về lịch sử truyền thống tư tưởng của văn hóa phương Tây. Để
có thể làm hiện đại và hậu hiện đại rõ hơn và được sự thông hiểu ở độc
giả Việt Nam, các nhà văn hậu hiện đại nên để ý là người đọc là trọng
tâm chứ không phải là “văn bản”, và vì trong một môi trường văn hóa khác
phương Tây phải giản đơn được các quan niệm dựa trên nguyên lý càng dễ
hiểu càng tốt.
Hậu hiện đại (và hiện đại) nhập môn là một sự cần thiết. Hiện nay anh
Bùi Văn Nam Sơn ở Việt Nam có hợp tác với nhiều học giả để xuất bản một
loạt sách dịch về triết học nhập môn rất phổ thông và dễ hiểu. Theo tôi
biết thì đã có quyển sách về “hậu hiện đại” nhập môn trong tủ sách này.
Tủ sách tri thức hy vọng sẽ có nhiều sách chi tiết hơn về triết học và
lịch sử các tư tưởng như hiện đại, hiện sinh, cấu trúc luận, hậu cấu
trúc luận, phá cấu trúc... và các nhà triết học như L. Wittgenstein, F.
Nietszche, M. Heidegger, J. Derrida, R. Barthe, J. Sartre, A. Camus, J.
Baudrillard, J.F. Lyotard, M. Foucault ...
Bài này có mục đích tóm tắt các ý niệm chính của hậu hiện đại theo sự
hiểu biết của tác giả với tư cách là nhà khoa học tự nhiên và vì thế có
thể có những góc cạnh khác với các nhà nghiên cứu văn học và suy nghĩ về
hậu hiện đại trong bối cảnh Việt Nam. Đề tài thế nào là hậu hiện đại và
chủ nghĩa hiện đại (modernism) và hậu hiện đại (post-modernism) thật ra
vẫn còn là đề tài tranh luận của nhiều học giả, nhà phê bình, nghiên
cứu.
Hiện đại và hậu hiện đại
Hậu hiện đại, bắt nguồn từ hiện đại (modernism) với cơ sở hiện sinh và
cấu trúc luận, dựa chung trên tư tưởng tương đối nhưng lại phản ứng lại,
không hài lòng với sự giới hạn của hiện đại trong khuôn khổ qui luật của
xã hội và tư tưởng đóng khung của cấu trúc luận (structuralism) về tôn
giáo, giới tính, kỷ thuật, tiến bộ, cấu trúc xã hội ... mà hiện đại đã
tiếp tục từ truyền thống lý trí của thời khai sáng. Hậu hiện đại chủ yếu
đặt trên căn bản của tư tưởng hậu cấu trúc luận (post-structuralism).
Trước hết hãy nói sơ về biểu tượng học, cấu trúc luận và hiện sinh trong
hiện đại.
Biểu tượng học (Semiology), cấu trúc luận, hiện sinh và hậu cấu trúc
luận
Như sẽ đề cập chi tiết hơn sau, các văn bản trong thơ văn hậu hiện đại
rất chú trọng đến các biểu tượng hay kích vật mang nhiều ý nghĩa khác
nhau tuỳ theo cái nhìn, suy tư và kinh nghiệm của mỗi người đọc. Biểu
tượng là vật thể tự nó không có ý nghĩa nhưng khi được tiếp nhận lại
mang nhiều sự tự riêng biệt. Biểu tượng học (Semiology) là khoa học về
các biểu tượng, các dấu (science of signs) như chữ viết, hình ảnh, dấu
ấn. R. Barthes, J. Baudrillard, hai trong số những nhà hậu hiện đại nổi
tiếng, đặc biệt chú ý đến biểu tượng học
Cơ sở của biểu tượng học là dựa vào lý thuyết ngôn ngữ của nhà ngôn ngữ
học Thụy Sĩ, Ferdinand de Saussure vào đầu thế kỷ 20, cho rằng ngôn ngữ
chỉ là ý tưởng chứ không phải là tiêu chỉ sự thể (referential). Mỗi từ
là sự cấu tạo của hai phần, ký hiệu cho một ý niệm (signified) và âm
thanh phát sinh từ ký hiệu đó (signifier). Không có sự liên hệ nào giữa
hai phần này: cùng một ký hiệu cho quan niệm, sự thể ấy nhưng phát âm
đều khác nhau tuỳ ngôn ngữ. Thứ tự tập hợp của ngôn từ cấu tạo thành các
ý tưởng trừu tượng ở một tầng cao hơn. Các từ và tập hợp từ ở mỗi tầng
mang các chức năng khác nhau trong các tầng cấu trúc của ngôn ngữ. Như
vậy ngôn từ là ký hiệu, biểu tượng của ý tưởng, ý niệm và ngôn ngữ là hệ
thống liên hệ giữa các chức năng của các ý niệm trong một cấu trúc đầy
sự liên hệ đang chéo của các ý niệm, tư tưởng. Mỗi ngôn ngữ, gồm ký hiệu
viết và tiếng nói, là một cấu trúc khác nhau. thể hiện hệ tư tưởng văn
hóa của người sử dụng nó. Thuyết về ngôn ngữ của Saussure, khai phá và
mở đường cho chủ thuyết hiện đại, có ảnh hưởng lớn trong nhiều ngành
khác nhau ngoài ngôn ngữ học từ triết học, kiến trúc, nhân chủng học,
hội hoạ, xã hội học đến văn học và là nền tảng cho Claude Levi-Straus
triển khai cấu trúc luận (structuralism).
Tương tư như cấu trúc ngôn ngữ của Saussure, Levi-Straus áp dụng vào
nhân chủng học, huyền thoại hoc trong văn hóa khác nhau, ông đặt cơ sở
nghiên cứu về sự liên hệ các đơn vị cấu trúc lẫn nhau và các chức năng ở
các tầng ý niệm, như đơn vị cha, mẹ, vợ, chồng, con, gia đình, bác,
cháu, cô, họ hàng.. hay các “đơn vị huyền thoại” (mytheme) như “âm vị“
(phoneme) trong ngôn ngữ. Cấu trúc khác nhau vì cơ sở văn hóa và diễn
tình lịch sử biến hóa thay đổi khác nhau trong mỗi xã hội. Ông đặt tên
phương pháp nghiên cứu tiếp cận này là cấu trúc luận (structuralism). Và
từ đó từ này được dùng và phong trào cấu trúc luận được phổ biến trong
nhiều lãnh vực khác nhau như tâm lý, văn chương, kiến trúc,.. theo đó
tất cả mọi “hệ thống” đều có “cấu trúc” cùng sự liên quan các chức năng
giữa các thành phần.
Cấu trúc luận là nền tảng cho biểu tượng học. Giáo sư và nhà văn Umberto
Eco, tác giả của các tác phẩm, The Name of the Rose, Foucault’s pendulum
được dịch ra nhiều tiếng trên thế giới là chuyên gia biểu tượng học có
ảnh hưởng lớn ngoài giới hàn lâm trong xã hội hiện đại. Tác phẩm “The
Name of the Rose” dùng khung cảnh điều tra các án mạng liên quan đến các
sách trong thư viện của một tu viện thời Trung cổ để đưa ra các giả
thuyết, hình ảnh những gì có thể xảy ra khác nhau qua các dấu vết, biểu
tượng để lại trong mỗi thời điểm và tình thế cảnh quan nào đó. Người tu
sỉ học giả mù trong truyện được mô phỏng theo nhà văn học giả Jorge Luis
Borges, một tác giả hiện đại và hậu hiện đại có ảnh hưởng nhiều đến Eco,
sách của ông được chuyển thành phim và ngay cả truyện và phim mới ra gần
đây, “Da Vinci Code”, cũng có chịu ảnh hưởng từ ông. Trong tác phẩm
Opera aperta ("Tác phẩm mở”), ông cho rằng văn bản không phải là chuổi
các ý nghĩa mà là vùng chứa các ý nghĩa. Văn bản cơ bản là hệ mở năng
động và mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Văn bản nào càng “mở”, càng làm
tăng sự khởi động giữa tư tưởng, xã hội và văn từ trong văn bản là những
văn bản sống động, sáng tạo và tốt nhất. Ý này của Eco cũng có thể giúp
cho ta giải thích được là tại sao vở kịch “Waiting for Godot” (“Chờ đợi
Godot”) nổi tiếng là sáng tạo và được đánh giá xuất sắc nhất của nhà văn
Samuel Beckett (Nobel văn chương 1969) là do kịch bản này rất “mở”, làm
cho mọi người xem đặt ra nhiều câu hỏi và các diễn giải khác nhau.
Sự hồ nghi về sự định sẵn (deterministic), có trật tự, mục đích trong sự
hiện hữu của con người và vật thể cũng là cơ bản trong sự hình thành hậu
hiện đại mà triết lý hiện sinh là tiêu biểu cho sự hồ nghi trên. Triết
lý hiện sinh (existentialism), được phổ biến rộng rãi trong thập niên 60
của thế kỷ trước, mặc dù tư tưởng “hiện sinh” đã được các nhà triết học
trước đó từ Tây sang Đông như S. Kierkegaard, F. Nietzsche, Phật Thích
Ca đề câp từ lâu. Nội dung thì hiện sinh cho là thế giới hiện thực và
thiên nhiên mà con người là một thành phần xảy ra không có mục đích, hỗn
loạn, vô tư, không có đấng đế cao và mỗi người phải tự tìm cho mình ý
nghĩa và mục đích sống riêng với trách nhiệm trong sự lựa chọn cá nhân
đó mà không phải dựa vào hay theo hệ thống ý nghĩa, mục đích do một
quyền lực, hệ thống đặt ra cho mọi người. Tất cả hiện thực chung quanh
tôi có thể là ảo tưởng nhưng sự hiện hữu, hiện diện của tôi là có thật.
Hiên hữu đi trước tư tưởng, đối lập với Descartes (tư tưởng xác định sự
hiện hữu của tôi). Vì cuộc sống, thế giới xoay vần không có mục đích,
mỗi người phải tìm mục đích, việc làm gì đó để lấp khoảng trống nhàm
chán vô vị nếu không có được. Miễn là cá nhân tìm được ý nghĩa làm việc
nào đó và hạnh phúc với chính mình mà không xâm phạm đến ai thì đó là ý
nghĩa của sự hiện hữu của cá nhân đó. Như Camus phân tách về nhân vật
Sisophus trong huyền thoại Hy Lạp đẩy đá lên đồi và đá lại lăn xuống và
tiếp tục làm mà vẫn hài lòng với việc làm đó. Camus nói đến sự vô nghĩa
lý (absurd) có thể xảy ra khi con người áp đặt trật tự trong thế giới vô
tư vô định. Hầu hết các nhà hậu hiện đại như R. Barthes, J. Baudrillard
, J. Derrida... đều có bị ảnh hưởng của phong trào hiện sinh.
Trong bài trước tôi viết về triết lý khoa học (1) có đề cập sơ qua về
cấu trúc luận của hiện đại và hậu cấu trúc luận của hậu hiện đại. Xin
trích lại sau:
“Chủ nghĩa hậu hiện đại phổ biến và phát triển rộng rãi trong văn học,
nghệ thuật, khoa học xã hội vì với cái nhìn tương đối đánh giá thưởng
thức khác nhau với các tác phẩm, sản phẩm nghệ thuật, nó phóng khoáng và
bao gồm. Nó cũng dựa vào triết lý hậu cấu trúc luận
(post-structuralism), tiêu biểu bởi hai triết gia Pháp R. Barthes và
Jacques Derrida. Khác với cấu trúc luận (structuralism) của Claude
Levi-Straus, cho rằng bất cứ tác phẩm viết về thiên nhiên, lịch sử hay
chủ đề gì thì cả chủ đề và ngôn ngữ dùng để cấu tạo tác phẩm cũng phải
được xem xét trên một hệ thống rộng lớn hơn bao gồm qui ước, hoàn cảnh
lịch sử, xã hội trong thời đại mà tác phẩm được ra đời, chứ không chỉ
chuyên về chủ đề mà thôi, và ta có thể dùng hệ thống cấu trúc cùng ngôn
ngữ, lý luận, phương pháp khoa học để khám phá ra sự thật cụ thể.
Derrida cho rằng cả hệ thống cấu trúc như vậy là tự mâu thuẫn không
tưởng, và sụp đổ bởi sự không nhất quán của nó. Ngay cả ngôn ngữ diễn
đạt dùng trong tác phẩm cũng không hàm chứa sự thật, và ý nghĩa của bản
văn luôn thay đổi chứ không cố định. Ông cho rằng một cấu trúc
(structure) phải có một trung tâm mà các thành phần liên hệ của cấu thể
dựa vào. Trung tâm này không thể thay thế được và vì thế không phải là
một bộ phận hoạt động của cấu trúc. Sự bền vững của cấu trúc vì thế bị
phá đổ (deconstruct) và không còn giá trị hay chỉ còn giá trị tương đối
với các khuyết điểm.
Hậu cấu trúc luận cũng cho rằng bản văn không thể được định nghĩa hoàn
toàn và giới hạn bởi nghĩa mà chính tác giả muốn như vậy. Vì thế bản văn
được xem như có nhiều tự chủ trong đó nghĩa của nó được tách rời sự ràng
buộc ý muốn của tác giả và ý nghĩa của nó tự do muốn hiểu sao cũng được
vì ngôn ngữ và nghĩa luôn luôn thay đổi chứ không cố định.
“
Theo J. Derrida, văn bản phải được phá trúc (deconstruct) theo đó tất cả
quan niệm chính, phụ, sai đúng... mà văn bản được tạo dựng trên căn bản
trên qua sự áp dụng trật tu và ý nghĩa siêu hình vào văn bản đều được
phơi bày sẽ được thấy rõ và từ đó phá đi không còn ý nghĩa phân biệt các
nhị phân trên nữa.
Không cấu trúc, phi trung tâm, xóa nhoà biên giới phân biệt trong mọi
nhận thức, phá qui luật, đa dạng, không có sự thật khách quan hay tuyệt
đối mà tất cả là chủ quan hay tương đối là những đặc thù của hậu hiện
đại. Hậu hiện đại vì thế có rất nhiều khuynh hướng khác nhau: từ thái
độ, phong cách chống lại hiện đại để trở về với truyền thống lãng mạn
xưa, trở lại thiên nhiên, nội tâm đến phá vỡ mọi truyền thống, không
trung tâm trong mọi cấu trúc xã hội, nhân sinh quan trong môi trường đa
văn hóa, của mọi chủng tộc hay dân tộc, không biên giới. Gọi là sau hiện
đại thì có thể coi “hậu hiện đại” là một phong trào sau thập niên 1950
mà diễn tiến phong trào văn hóa ở phương Tây phát triển rộ của tuổi trẻ
bất mãn sau cột mốc mùa hè 1968 ở Pháp cho đến ngày nay của thời kỳ
không gian ảo internet và toàn cầu hóa. Nếu coi “hậu hiện đại” là một
phong trào hay trào lưu văn hóa phản ứng lại hiện đại thì bản chất của
“hậu hiện đại” là không hiện đại, không đóng khung trong mọi vật thể, tư
tưởng nhưng chấp nhận những tiến bộ, phương tiện sẳn có để phát huy
những dị biệt, khác với qui luật được cấu trúc trong xã hội.
Tư tưởng hậu hiện đại cơ bản là đối chọi với thuần lý, tuyệt đối, chính
xác, khách quan mà khoa học dựa vào. Cũng không lạ là đã có sự đụng
chạm, “chiến tranh” tư tưởng giữa các nhà khoa học trong khoa học “cứng”
thuần tuý và các nhà khoa học xã hội bị ảnh hưởng tư tưởng hậu hiện đại
về tính tương đối và chủ quan của tất cả các hệ thống tư tưởng do con
người tạo dựng (1).
Một trong những cơ bản của hậu hiện đại là hệ quả của sư tương đối,
không có gì tuyệt đối dẫn đến sự phi trung tâm, xoá nhoà biên giới mà
một số nhà sáng tác hậu hiện đại không áp dụng cho chính mình là sự
trung tâm hóa tác giả trong sáng tác. Chủ thể của văn bản không còn là
tác giả nữa mà là tất cả các độc giả mà mỗi người là một trung tâm khác
nhau qua cảm nhận hiện thực hay phi hiện thực (ảo) của mỗi cá nhân ấy.
Cái mà Roland Barthe gọi là “tác giả đã chết” vì ngay cả là khi tác giả
có chủ ý đặt cảm xúc, tư tưởng ý niệm trong văn bản qua ngôn ngữ thì qua
thời gian và sự tiến hóa nghĩa của văn bản sẽ thay đổi ngay đối với tác
giả khi đọc lại.
Tác phẩm, văn bản chỉ là hình thái (form) hay tàu chở (vessel), dụng cụ
hay kích vật để chuyển tâm tư, tư tưởng người đọc mỗi cách khác nhau chứ
không còn là tâm tư, tư tưởng của tác giả lúc ban đầu khi hoàn thành văn
bản. Trong thơ văn, hình thái của hậu hiện đại là phi trung tâm, kết hợp
nhiều dạng khác nhau (collage) qua các phương thức, biểu tượng hình ảnh
hay ngôn ngữ từ mọi lãnh vực trong sinh hoạt xã hội, kinh tế, tư tưởng,
tôn giáo từ tầng thấp nhất đến tầng cao, bất câp nhất thời ngay thời
điểm hiện tại, trong quá khứ truyền thống hay tương lai, cả ảo lẫn thực.
Những biểu tượng thường ngày tầm thường trong đời sống cũng có thể được
“đọc” chúng với rất nhiều ý nghĩa, đầy lịch sử và truyện súc tích không
kém các tự sự (narratives) của một hay các chủ thể đặc biệt nào. Nói
chung là không có qui luật và cấu trúc nhất định hay ngay cả để lại dấu
ấn đặc thù của tác giả. Nhà văn Samuel Beckett, được xem là một trong
những nhà văn hậu hiện đại đầu tiên, nói về vở kịch “Waiting for Godot
(“Chờ đợi Godot”) của ông, trong đó những sự thể, hành động của các nhân
vật trong vở kịch mang nhiều biểu tượng về triết lý, cuộc sống và đặt ra
nhiều câu hỏi mà sự diễn giải đều khác nhau tùy theo mỗi độc giả: “I
cannot explain my plays. Each must find out for himself what is meant”
(“Tôi không thể giải thích các vở kịch của tôi. Mỗi người phải tự tìm
cho mình ý nghĩa của các vỡ kịch ấy”).
Để xóa đi sự phân biệt nhị phân của văn hóa cao và văn hóa thấp, văn hóa
bình dân và văn hóa trí thức, sự độc nhất hay bất biến của nghĩa trong
văn bản và sự thật tuyệt đối hay cái chính cái phụ trong văn bản, thì
các phương pháp chính mà các nhà thơ hậu hiện đại dùng là văn hay thơ
nhại và diễu (parody) và phỏng nhại (pastiche). Văn hay thơ nhại và diễu
nhại lại một văn bản (thường là có tiếng hay được biết nhiều) mang vẽ
dỡn cợt hay chế diễu. Phỏng nhại là cóp nhặt chung lại các dạng văn,
kiểu văn hay biểu tượng (dấu hiệu, hình, quảng cáo, văn trích..) nguyên
bản đã có hay phỏng nhại câu truyện của nguyên bản nhưng khác với dạng
đầu là không có ý chế diễu mà tôn trọng. Tuy nhiên hai dạng trên (mặc
dầu là chủ yếu và oái ăm thay lại tự nó đã trở thành khung tiêu chuẩn,
qui ước mang dấu ấn hậu hiện đại, trái với tư tưởng phi trung tâm, phá
cấu trúc trong mọi khung qui ước ban đầu của hậu hiện đại) không phải là
dấu ấn duy nhất của văn bản hậu hiện đại.
R. Barthe trong quyển sách đầu tiên “Le Degré zéro de l'écriture” (“Độ
không của tác phẩm”) (3) của ông, cho rằng văn bản sáng tạo không phải
tùy thuộc, dựa vào ngôn ngữ đương thời, quy luật, văn phong, hay chất
lượng (substance) để hợp với thị hiếu qui ước của độc giả mà sáng tạo là
thái độ hơn là chất lượng, giá trị hơn là sự kiện, khả năng nó mang đến
hơn là mục đích muốn đạt được. Khó có sáng tạo khi mà ta buộc phải viết
những gì hiện nay dựa vào ngôn ngữ vì ngôn ngữ đã có truyền thống văn
hóa, tư tưởng, khái niệm từ lâu đời và không thể chính xác và tự nó cũng
thay đổi. Vậy thì sáng tạo nằm trong thái độ, cách viết, sự thay đổi,
chọn lựa các phương pháp trình bày trong văn bản và từ đó khả năng tàng
trữ của văn bản được nâng cao. Nhà văn Mỹ Donald Barthelme, được cho là
có phong cách hậu hiện đại, viết những truyện cực ngắn về các sự cố hơn
là có cốt truyện, và các truyện mà cấu trúc gồm nhiều mảng khác nhau
không có liên hệ logic theo thư tự nhưng có nhiều từ ngữ biểu tượng gây
những ý tưởng mới khác nhau cho người đọc. Những nhà văn như Gabriel
Garcia Marquez, Italo Calvino kết hợp huyền thoại, tưởng tượng (fantasy)
và hiện thực trong văn bản và truyện, mà hiện nay được xem là thuộc chủ
nghĩa hiện thực thần kỳ (magic realism), cũng có thể được xem là một
nhánh của phong cách hậu hiện đại.
Siêu tự sự (meta-narrative).
Siêu tự sự (meta-narratives) hay đại tự sự (grand narratives) là một ý
tưởng trừu tượng, chủ thuyết đặt ra để giải thích tổng thể các sư kiện,
kinh nghiệm xảy ra hay là tri thức nào đó. Sở dĩ gọi là siêu hay đại
(meta) là vì nó nằm trên bao trùm và tổng quát hóa và giải thích được
các tự sự trong hệ thống toàn thể nó đặt ra. Tương tự như từ trong công
nghệ thông tin từ metadata (dữ kiện về các dữ kiện trong hệ lưu trữ),
siêu tự sự là tự sự về các tự sự. Thí dụ cho rằng xã hội sẽ tiến bộ, con
người trong đó sẽ hạnh phúc khi xã hội đó dựa vào lý trí phán đoán,
không mê tín, dân chủ, hệ thống pháp luật nghiêm minh là một siêu tự sự.
F. Lyotard chỉ trích bản chất sự thật hoàn vũ của ý tưởng siêu tự sự,
hoài nghi về các siêu tự sự và cho rằng chúng không còn có sức thuyết
phục nữa trong thế giới càng tiến bộ của khoa học ngày nay. Chúng không
còn chính đáng và chính thống nữa, và trong giai đoạn chuyển tiếp từ
hiện đại đến hậu hiện đại thì thay vào đó là những kinh nghiệm nhỏ,
những tiểu tự sự (petit récits, small narratives) trong các hoàn cảnh,
địa phương riêng biệt khác nhau mới thực sự có ý nghĩa và giá trị hơn.
Càng có nhiều đa dạng cộng hữu trong các nhận thức, kinh nghiệm, cách
nhìn, cuộc sống, hoàn cảnh thì mới có cái nhìn toàn bộ, tiến bộ và làm
giàu hơn cho tư tưởng và đời sống con người.
Nhưng đối với những người trỉ trích sự hoài nghi của Lyotard về “đại tự
sự” thì theo Lyotard, hậu hiện đại không tin vào đại tự sự và chỉ cho là
tiểu tự sự (petits récits hay small narratives) là có ý nghĩa trong thế
giới đa dạng và đầy bất trắc tình cờ (random) thì cũng tự nó là một đại
tự sự (meta-narratives hay grands récits) rồi.
Hậu hiện đại trong bối cảnh Việt Nam
Inrasara cho là văn hóa, tư tưởng Việt Nam phương đông truyền thống đã
có cốt rễ hậu hiện đại nên thật sự sẽ tự nhiên dễ dàng thấm nhuần thâu
nhận “hậu hiện đại” mà không cần phải qua giai đoạn “hiện đại” (4). Tôi
đồng ý với Inrasara là không cần phải có, tiếp thu và đi qua giai đoạn
hiện đại mới đến được hậu hiện đại. Tinh thần của hậu hiện đại về tương
đối, hồ nghi, sự tình cờ (random) của sự thật, hiện tượng và được khai
sinh ra từ hiện đại và đối chọi lại với sự tin tưởng có giá trị hoàn vũ,
tuyệt đối chung trong các kinh nghiệm, niềm tin vào tương lai định trước
với lý trí khám phá hiện tượng qua các cấu trúc. Không thể bàn về thái
độ sáng tạo của R. Barthes mà không đề cập đến thế nào là văn chương của
Sartre, không thể nói về phá cấu trúc mà không nói về cấu trúc. Không
có hiện đại thì không có hậu hiện đại. Hai chủ thuyết hiện diện song
song với nhau như hai mặt của đồng tiền. Hậu hiện đại hiện diện vì có
hiện đại và đã có không ít nhà nghiên cứu, phê bình đã cho là hậu hiện
đại chỉ là một nhánh, một hiện tượng thái độ thể hiện trào lưu văn hóa
của hiện đại. Và dĩ nhiên nếu đã có cơ bản hậu hiện đại thì không cần
phải qua hiện đại. Nhưng thực tế ở Việt Nam (trong và ngoài nước), hậu
hiện đại đã có những phê bình gay gắt và nhiều sự phản ứng không thuận
lợi trong sự chấp nhận về mỹ quan, sáng tạo.
Ở các nước phương Tây, văn chương nghệ thuật “hậu hiện đại” chủ yếu chỉ
trong giới hạn của một số trí thức, hàn lâm, các nhà văn học nghệ thuật
“bị“ hay “được” coi là thuộc “phái tả”, “nữ quyền”, “sắc tộc thiểu số”,
“da màu”, “đa văn hóa”,.. tôn trọng, chấp nhận sự khác biệt về nhân sinh
quan, phủ nhận cái chính thống của đa số, tất cả kể cả giá trị đều là
tương đối, không có “sự thật” tuyệt đối, mà mỗi cái nhìn, nhân sinh quan
là mỗi “sự thật”. Nguợc lại ở văn hóa bình dân Việt Nam thì các tư tưởng
trên lại phổ biến hơn văn hóa “bác học” thường dựa vào qui luật, chính
thống qua các qui trình lịch sử, học thuật từ thời xưa đến nay.
Vì thế theo tôi nghĩ cơ bản là văn hóa Việt Nam trong thành phần chính
thống, bác học không chắc là có thể chấp nhận “hậu hiện đại” dễ dàng.
Theo tôi biết hiện nay trong nước nhiều người làm văn hóa và ngay cả
trong chính quyền trong lãnh vực văn hóa rất dị ứng và coi một số nhà
văn hâu hiện đại là những thành phần “bất mãn”, “tự kiêu” với các tư
tưởng không truyền thống và ngoài luồng. Dĩ nhiên tình thế có thể thay
đổi và trong tương lai “hậu hiện đại” có thể là chính thống nhất là
trong thời kỳ toàn cầu hóa và sư trao đổi hấp thụ thông tin nhanh chóng
không biên giới trong thế giới ngày nay. Nhưng nếu có xảy ra như vậy,
thì chỉ có ở trong thành phần trí thức, và bản thân “hậu hiện đại” không
còn “hậu hiện đại” với đặc tính dị biệt phi chính thống và chắc chắn sẽ
phải có “hậu hậu hiện đại” thay thế nó.
Nguyễn Hưng Quốc (2) luận bàn về sự khả thi của sự chấp nhận hậu hiện
đại trong văn học, văn hóa Việt Nam, cho rằng hiện nay chủ nghĩa hậu
hiện đại chỉ mới phôi thai và hiện đại mặc dầu đã được tiếp cận đã lâu
nhưng vẫn không phát triển được. Điều này là rất rõ và cho thấy cho thấy
tương lai của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học có thể không có gì
tươi sáng. Ngay cả một số triết lý hiện đại cũng rất vất vã có cơ hội
phát triển ở Việt Nam. Chúng ta hãy lấy một thí dụ như hiện sinh
(existentialism) và cấu trúc luận mà trong thập niên 1960 ở miền Nam đã
được khởi xướng và thu nhập trong giới văn nghệ sĩ và trí thức nhưng
chúng chỉ tồn tại trong một nhóm ốc đảo lẽ loi và dần biến mất. Nhưng
cũng có nhiều tác động ngoại vi trong bối cảnh toàn cầu hóa khi mà biên
giới tư tưởng, thông tin không biên giới được phổ biến rộng rãi và cộng
đồng “công dân toàn cầu” càng nhiều hơn trong môi trường chấp nhận sự đa
văn hóa, đa dạng thì chúng ta cũng khó tiên đoán được khuynh hướng chung
của văn học văn hóa Việt Nam.
Có thể hậu hiện đại trở thành trào lưu chính, nếu không trở thành chính
thống thì nó cũng nổi bật, một dòng chảy song song, có một vị trí bền
vững lâu dài hay chỉ là một thời trang ngắn hạn. Tất cả cũng tuỳ thuộc
vào sự ứng sử của con người và văn hóa mỗi nước trong một thế giới mà sự
cạnh tranh rất khốc liệt không những trong địa hạt kinh tế mà còn trong
tư tưởng, truyền thống, văn hóa. Trong nghệ thuật tạo hình hay kiến trúc
có lẽ kiến trúc duy nhất của trường phái biểu tượng “hiện đại” được sáng
tác và chấp nhận ở Việt Nam là Nhà nghĩ Hằng Nga (hay còn được gọi là
ngôi nhà điên “Crazy House”) ở Đà Lạt của bà Đặng Việt Nga. Nhưng đây là
ngoại lệ vì tác giả là một kiến trúc sư kiên trì theo đuổi mục tiêu cho
đến khi được cho phép trong khuôn khổ ngoại lệ mà chính quyền mặc dù
không đồng lòng cũng phải chấp nhận miễn cưỡng. Ở đây cũng phải nói là
kiến trúc này đã trở thành điểm thu hút du khách nổi tiếng nhất là đối
với người nước ngoài và là một đặc thù của thành phố Đà Lạt như
Barcelona với nhà thờ Sagreda Familia của nhà kiến trúc “hiện đại”
Antoni Gaudi vào đầu thế kỷ 20.
Riêng về kiến trúc hậu hiện đại, thì khả năng phát triển rất triển vọng
không những ở Việt Nam mà nhiều nơi trên thế giới trong thời kỳ toàn cầu
hóa mà chủ yếu là các nhà kiến trúc nổi tiếng thế giới đều theo trường
phái này. Toàn cầu hóa và kinh tế không biên giới dẫn đến biểu tượng
kiến trúc quốc tế mà lực đẩy là các doanh nghiệp, công ty đa quốc gia,
tổ chức quốc tế tiên phong. Các tòa nhà mới từ các đô thị “toàn cầu” như
Beijing, Dubai, Paris, Hong Kong, Berlin đến Singapore đều có đặc thù
khác nhau của hậu hiện đại. Dĩ nhiên nó chỉ thể hiện ở tầng vĩ mô là
chính và ở địa hạt nhỏ hơn thành phần truyền thống bản sứ vẫn là chủ yếu
và còn tuỳ thuộc vào chính sách quản lý đô thị về giá trị văn hóa. Sự
chấp nhận trong một lãnh vực không nhất thiết là dẫn tới sự cởi mở trong
lãnh vực khác vì có sự khác nhau trong lãnh vực kiến trúc hậu hiện đại
và ý niệm sáng tạo trong văn học hậu hiện đại. Nhưng đây lại là một đề
tài khác ngoài phạm vi bài này.
Trong giáo dục đào tạo hiện nay cấp đại học ở nhiều nước (phương Tây và
một số ở Á châu), hiện đại và hậu hiện đại là những môn học cần thiết
trong nhiều ngành khoa học khác nhau như lịch sử, văn học, xã hội, nhân
chủng, kiến trúc, triết học. Hậu hiện đại không còn là phi chính thống
nữa mà là một phần của chính thống. Tôi không rõ là hậu hiện đại được
tiếp cận và giảng dạy ra sao trong giáo dục ở Việt Nam. Nhưng với trào
lưu hiện nay trong thời đại thông tin và toàn cầu hóa thì dù thế nào hậu
hiện đại cũng sẽ được học hỏi và phổ biến trong tương lai nếu không nói
là hiện nay ít nhất trong giới trẻ, có học của thế hệ tự cho mình là
“công dân toàn cầu” không biên giới.
Sydney 12/06/2008
Tham khảo
(1) Nguyễn Đức Hiệp, Triết lý khoa học, Tạp chí thời đại mới, tháng 2
2004, http://www.tapchithoidai.org/200402_NDHiep.htm
(2) Nguyễn Hưng Quốc,
http://tienve.org/home/activities/viewTopics.do;jsessionid=966D3811C92D9259B56FA76EA80E8268?action=viewArtwork&artworkId=327
.
(3) R. Barthes, Writing degree zero (transl. by Annette Lavers, Colin
Smith), Hill and Wang, New York, 1999.
(4) Inrasara, Nhập lưu hậu hiện đại (1-6), vanchuongviet.org, 2008.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Đức Hiệp
|