Những bài cùng tác giả
Năm nảo năm nao, năm nào cũng vậy, ngày hết
Tết đến, viết bài Tết, ký ức lại xôn xao nhiều hình ảnh quê xưa,
nao nao vần điệu ca dao.
Năm Tý, nhớ câu :
Chuột kêu rúc
rích trong rương
Anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay
Ngày nay, nhất là ở thành phố, thấy chuột
chạy, nghe chuột kêu, sẽ có người hoảng hốt. Nhưng xưa kia, việc
ấy bình thường, thậm chí câu lục bát nói trên, còn là một âm
vang của hạnh phúc. Nó chứng tỏ trong nhà có cái ăn. Tiếng rúc
rích canh khuya gợi lên khoảng thời gian thanh lắng, và không
gian êm ả. Trong khí hậu yên lành đó có tiếng chân người, kín
đáo, kiêng dè : hạnh phúc đang đi dần, đi dần lại, cùng bóng đêm
đồng lõa. Chúng ta tưởng tượng đôi vợ chồng mới cưới, về thăm
cha mẹ, có lẽ là cha mẹ vợ, vào một dịp giỗ tết. Cứ tưởng tượng
tối mồng hai Tết : mồng một lễ cha, mồng hai lễ mẹ, mồng ba
lễ thầy. Vợ chồng đã cưới hỏi, nhưng khi về nhà cha mẹ, vẫn
phải giữ kẽ nằm riêng. Tại sao lại sợ « má hay », mà không sợ
cha, sợ tía ? Có lẽ là thời ấy, đàn ông ngủ nhà trên, phụ nữ ngủ
nhà dưới. Xưa. Hạnh phúc ngày xưa : dè dặt mà đằm thắm sâu xa,
không như cái vồ vập, thường dễ phôi pha ngày nay.
Tình huống đêm hôm khuya khoắt này ắt là hư
cấu, hoặc ít xảy ra. Nhưng tình cảm là thật và lễ nghi là
thường. Lời người con gái – tôi dùng từ sai – nói ra lúc nào ?
Phải chăng chỉ là giấc mơ hạnh phúc, thậm chí là hoang tưởng của
người phụ nữ, đặt trên tình yêu, đồng cảm và lễ nghĩa, và trong
chừng mực của kinh tế. Hạnh phúc trong không gian âm phái :
người vợ, người mẹ, canh khuya, cái giường. Phải đặt tiếng chuột
rúc rích trong không gian đó, chứng nhân, đồng lõa, rúc rúc chúc
phúc.
Một câu ca dao ngắn, ôi sao mà súc tích !
Tiếng chuột biểu hiện hạnh phúc, không phải
tôi suy ra để tán tụng câu ca dao, mà do Tô Hoài kể lại, trong
truyện O chuột, 1941, một thành công đầu tay của anh :
« Người ta chỉ
ưa cái tiếng kêu « chuúc… chuuúc.. ». Các cụ ta nói : ấy chuột
chù bảo : « túc, túc » « đủ đủ ». Nhà ai mà chuột chù cứ túc túc
luôn, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài ».
Nửa thế kỷ sau, Tô Hoài nhắc lại ý cũ, và đế
thêm vào câu ca dao minh họa :
Thứ nhất đom đóm
vào nhà,
Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn.
Lại Chuyện chuột, trong Chuyện Cũ
Hà Nội, ấn bản 2000, là một đoản văn hay, đầy đủ về loài
chuột. Tác giả giải thích :
« Tôi viết bài
lại kể về chuột này bởi xưa nay tôi có cơ duyên với chuột, đã
viết nhiều về chuột. Những truyện ngắn O chuột, Chuyện gã Chuột
bạch, Chuột đồng chuột nhà, và những Chuột thành phố, Đám cưới
chuột… Tôi kiếm cơm nhờ chuột, vậy mà tôi vẫn chén thịt chuột… »
Trong các tác phẩm được nhắc lại, đặc sắc
nhất là Chuyện gã chuột bạch, tinh vi và tinh quái, ý vị
và thi vị :
« Cả hai vợ
chồng cùng ưa đêm tối. Bởi ban ngày họ thường ngủ. Bốn cái chân
trước sát vào nhau ; bốn con mắt cùng khép. Chiều đến đã đem
bóng về dần dà trong cửa sổ, Bấy giờ vợ chồng chuột mới bừng
mắt. Họ ngơ ngác nhìn hoàng hôn. Gã chuột đực mò mẫm tìm cái đĩa
đựng gạo. Chị vợ cũng nhẹ nhàng đi theo. Họ gậm nhấm mấy hạt.
Những tiếng răng nghiến trên hạt gạo, nghe ken két, sàn sạt như
tiếng một con mọt cựa mình trong thớ gỗ ».
Không biết trong văn học thế giới, có nhiều
những âm hao tinh tế như vậy chăng ?
Một hôm chuột vợ ngoạm được miếng mồi to,
nuốt trửng một chú bọ ngựa : « Một mạng lớn, giết đi một mạng
nhỏ, êm nhẹ như hơi chiều lặng lờ sang… »
Chuột ả chết vì mắc nghẹn, chuột chàng không
mấy quan tâm : « Gã đã khỏi ốm. Không có đàn bà thì chừng như
gã khỏe khoắn lắm lắm. Một mình đánh cả hai cái vòng, nghe rộn
ràng, cũng vui… ».
Truyện đăng báo Tiểu Thuyết thứ bảy,
1941. Nhân cái Tết năm Tý này, đọc lại, ngoài niềm thích thú, ta
còn tìm được đôi ba chìa khóa đưa vào triết lý Tô Hoài, hiểu
thêm non 200 trước tác của anh, về sau.
Trong Lại Chuyện Chuột đã dẫn, Tô Hoài
có nhắc đến truyện dân gian Trinh Thử ; chắc là anh đã
nghe truyển khẩu và không kiểm soát văn bản nên đã kể… ngược,
nhầm nhân vật chuột chồng ra chuột vợ.
Trinh Thử, con chuột trinh tiết là một
truyện nôm bằng thơ, ra đời cuối thế kỷ 19. Vì các bản in xưa
kia, ngoài bìa ghi tác giả là « Trần triều xử sĩ Hồ huyện Qui
tiên sinh soạn » nên độc giả tưởng là tác phẩm thời Trần Hồ.
Ngày nay, giới biên khảo tìm ra nguồn gốc là
truyện văn xuôi Trung Quốc xuất hiện nửa sau thế kỷ XIX, tên là
Đông thành trinh thử truyện, chuyện con chuột trinh tiết
thành phía đông. Bản in sớm nhất hiện nay là 1875, có người cho
là của Nguyễn hàm Nghi, quê Quảng Bình.
Tác phẩm gồm 850 câu lục bát, kể chuyện con
chuột Bạch góa bụa đi kiếm mồi nuôi con ; một hôm tránh chó, lỡ
cơ sa vào ổ khác. Gặp lúc chuột Cái đi vắng, chuột Đực thừa cơ
tán tỉnh, chuột Bạch một mực từ chối ; chuột Cái về, bắt gặp,
nghi ngờ và ghen tuông. Cuối cùng là đả thông và hòa giải.
Chuyện răn đời, đề cao tiết hạnh, cảnh cáo
thói trăng hoa và tính ghen tuông không cơ sở. Nhưng đặc sắc của
Trinh Thử là đã đưa lời ăn tiếng nói dân gian vào tác phẩm, đôi
khi bất ngờ. Ví dụ thành ngữ « râu quặp » chỉ người sợ vợ, qua
lời chuột Đực :
Ta đây dễ nạt
được nào
Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ roi.
Thành ngữ « no cơm rửng mỡ » tưởng là
đã hiện thực, Trinh Thử lại còn táo tợn hơn : « no cơm thì
rửng hồng mao ». Một câu nói đùa vui, không ngờ xuất hiện
trong tác phẩm văn học :
Ruồi kia một
phút bay qua
Biết là đực cái, lọ là sự ai.
Đây là lời chuột Cái trách chồng, rất thực tế
và dân dã :
Chiếu chăn nào
có hững hờ
Mà như voi đói thì vơ dong dài
Quen mùi bận khác ăn chơi
Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu.
Ghẻ tàu là tên nôm na của bệnh dương mai, da
liễu. Truyện Kiều lắm lầu xanh, từ Tú Bà sang đến Bạc Bà dập dìu
lắm kẻ vào ra, mà không nghe những Thúc Sinh, Từ Hải bệnh hoạn
gì.
Trinh Thử thật sự là một truyện dân
gian.
*
Trên đây là những con chuột tượng trưng, tô
điểm cho văn chương. Không phải là loài chuột thực tế, phá hoại
mùa màng và đồ đạc trong nhà. Chưa kể phương Tây còn cho rằng
chuột truyền nhiễm nạn dịch. Trong tiếng Pháp, từ thông dụng để
nói hỏng việc là rater, nguồn gốc là từ rat, loài
chuột đồng, chuột cống.
Vì nạn phá hoại mùa màng, từ thời Kinh Thi do
Khổng Tử san định, đã có ba bài Thạc thử, Chuột lớn :
chuột lớn chuột lớn…, đừng ăn nếp ta… Chớ ních gạo mạch… đừng
cắn mạ ta…
Ngoài nghĩa đen, ở đây loài chuột còn ám chỉ
tham quan, ô lại. Cùng nghĩa ấy trong thơ Việt Nam, Nguyễn Bỉnh
Khiêm 1491-1585, có bài Tăng thử, Ghét chuột, dữ dội, với
câu thơ cô đúc : thành xã ỷ vi gian. Con chuột, không
những tàn phá đồng áng, mà còn ẩn nấp, dựa vào nơi tường thành,
đàn xã (bàn thờ xã tắc) để làm điều gian xảo. Trích đoạn bản
dịch của Ngô Lập Chi :
Chuột lớn kia
bất nhân
Gậm khoét thật thâm độc
Đồng ruộng trơ lúa khô
Kho đụn hết gạo thóc
Nông phụ cùng nông phu,
Bụng đói miệng gào khóc
Mệnh người dám coi thường
Chuột mi sao tàn khốc ?
Ỷ thành xã làm càn
Thần, nhân đều hằn học.
Rõ ràng là Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ nhắm
vào chuột-súc vật. Thơ Trạng Trình như là có tính cách sấm ký.
Gần ta hơn Nguyễn đình Chiểu, 1822-1888, có
bài Thảo thử hịch, Hịch đánh chuột, hiện thực, chân xác
và quyết liệt :
Gọi danh hiệu :
chuột xạ, chuột lắt, chuột chù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều
tên, tra quán chỉ : ở nhà, ở ruộng, ở lạch, ở ngòi, bầu bạn non
sông lắm lối…
Lớn nhỏ răng đều
bốn cái, ăn của người thầm kín biết bao nhiêu, vắn dài râu mọc
hai chia, vắng mặt chủ hung hăng đà lắm lúc…
(…) Sâu hiểm bấy
tấm lòng nghiệt thử, cục cứt ra cũng nhọn hai đầu…
(…) Ngàn dòng
nước khôn bề rửa sạch tội đa dâm …
Bị kết án đa dâm vì… mắn đẻ.
Trong bài, có câu nằm ngửa cắn đuôi tha
trứng… nhắc tới thơ Trinh Thử : cắn đuôi tha trứng
gần xa…. Con chuột muốn tha quả trứng, phải nằm ngửa, ôm
trứng trên bụng, đợi một con chuột khác ngậm đuôi kéo đi. Tranh
Trung quốc có minh họa cảnh này :

Loài chuột, do đó, được tiếng tinh khôn, có tài « ngũ
kỹ » gồm năm cái khéo, theo sách Tuân Tử : bay, leo, bơi, đào,
chạy. Lại có sách nói : thiên khai ư tý : trời mở ở cung
Tý, vì theo lịch Trung Quốc, thiên can và địa chi khởi đầu ở
cung Giáp Tý. Mỗi chu kỳ 12 hay 60 năm đều vậy.
Chuyện nọ bù chuyện kia, hình ảnh chuột, ngay
ở phương Tây cũng không phải luôn luôn và hoàn toàn xấu. Bằng cớ
là con chuột Mickey trong tranh và phim hoạt họa Walt
Disney, có lẽ là chú chuột lừng danh nhất thế giới hiện đại.
Hãng phim này trong năm 2007 đã sản xuất một phim hoạt họa lừng
danh, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, « Ratatouille »,
một cách chơi chữ, lấy tên một món ăn bình dân, tương đương với
món bung của ta, và bắt đầu bằng tiếng Rat (chuột).
Phim kể chuyện con chuột Rémy chạy lạc vào
một tiệm ăn lớn ở Paris, lừng danh là nơi có nhiều tiệm ăn ngon.
Tình thế đẩy đưa, chú chuột Rémy trở thành một đầu bếp xuất sắc,
được làng chuột Paris bảo vệ và ủng hộ. Phim có tính cách ngụ
ngôn, vui nhộn, truyền cảm, nhạc hay. Ý nhị, tinh tế.
Ngày nay, trong máy điện toán, con chuột là
bộ phận thân thiết nhất với bàn tay, có lẽ dịch từ tiếng Anh
Mouse, tiếng Pháp Souris, là chuột nhắt, chứ không
phải là chuột cống, Rat, mang âm vang xấu hơn.
Trong ca dao, dường như cũng là chuột nhắt :
Con mèo mày trèo
cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ?
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.
Tranh Đám cưới chuột, có tiêu đề
Nghênh hôn, vẫn có người gọi là Chuột vinh quy ,
trong nghệ thuật dân gian, có lẽ nguyên ủy là hai bức tranh kết
hợp, bổ sung cho nhau, không rõ là chuột gì; có lẽ là chuột nhắt
mới phải đấm mõm mèo, dù là trên đường vinh quy.

Dung hòa những nét đa dạng, có khi tương phản về loài
chuột, Apollinaire, 1880-1919, có bài thơ La Souris, Con chuột,
trong bộ Le Bestaire, Tranh cầm thú, gồm 30 bài được Raoul Dufy
minh họa, 1911. Bài thơ ngắn, đơn giản, hiện thực và thi vị :
Belles journées,
souris du temps
Vous rongez peu à peu ma vie.
Dieu ! je vais avoir vingt-huit ans,
Et mal vécus, à mon envie.
Tạm dịch :
Bao nhiêu ngày
đẹp, chuột thời gian
Gậm nhấm đời ta đã mẻ mòn.
Trời ơi ! mình sắp lên hăm tám
Sống vất vơ và mộng dở dang.
Nhạc sĩ Nguyễn Tư Triệt đã phỏng dịch và phổ
nhạc :
Năm tươi tháng
đẹp, ôi lũ chuột thời gian,
Đời ta từng chút gậm mòn…
Bài hát Chuột thời gian được in trong
tập nhạc Khúc hát tiều phu, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế,
2003 và ghi vào đĩa hát CD.
Đây là cuộc giao duyên tươi đẹp của nghệ
thuật, mà con chuột đã giăng đầu tơ mối nhợ.
*
Chuột gây tai hại, thì ai cũng biết.
Nhưng tâm thức con người và qua văn thơ, nhất
là ngôn ngữ dân gian, chuột là một hình ảnh thân thuộc và thân
ái. Có lẽ vì vậy mà chuột đứng đầu trong hàng can chi, và nhiều
người tin năm Tý là năm may mắn.
Ở đời, không có gì may mắn bằng Chuột sa
chĩnh gạo.
Đón mừng xuân Mậu Tý, mình cứ chúc nhau dân
dã như thế.
Orléans, Tết Mậu Tý 2008
Đã đăng trên Diễn Đàn Forum
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Đặng Tiến
|