Năm 1978, cố giáo sư Lưu Hữu
Phước và tôi có dịp đi điền dã và dự một vài liên
hoan cồng chiêng tại ba nơi: Buôn
Ma Thuột, Daklak
và Pleiku. Vùng này lúc ấy còn hoang dã và cồng
chiêng Tây Nguyên ít người biết đến. Chúng tôi bắt
đầu làm quen với những nhạc cụ chưa từng thấy trong
đời như: Đàn Goong, đàn K’ ni, và các loại cồng
chiêng của vài dân tộc Êđê, M’nong ga, Gia rai,
Bahnar. Chúng tôi được nghe những âm thanh mới lạ,
được uống rượu cần và gặp gỡ một số nghệ nhân, nghệ
sĩ tại vùng Tây nguyên. Sau đó, hai chúng tôi đều
nhận thấy rằng vùng này có một nền văn hóa và âm
nhạc rất độc đáo mà trong một chuyến đi điền dã ngắn
hạn không thể nào nắm bắt hết được... Cố giáo sư Lưu
Hữu Phước đã nhận thấy điều ấy và sau khi khai quật
và tìm được đờn đá Khánh Sơn lại còn thêm lý do để
nghiên cứu sâu sắc hơn sinh hoạt âm nhạc trong vùng
này.
Trong những chuyến đi, chúng tôi
may mắn được một nhạc sĩ người Việt gốc Bahnar tên
là Kpa Ylang biết nhiều tiếng địa phương, biết sử
dụng một số nhạc cụ vùng Tây Nguyên, lại được đào
tạo tại nhạc viện Hà Nội và đã du học bên Trung
Quốc, làm người hướng dẫn đáng tin cậy để đưa chúng
tôi khám phá những kỳ hoa dị thảo trong vườn âm nhạc
Tây Nguyên.
Sau chuyến đi đó, khi trở lại
Pháp, chúng tôi có thêm may mắn là được nhiều lần
gặp gỡ những nhà Dân tộc học nổi tiếng như Georges
Condominas, Jacques Dournes, những người đã từng
sống trên vùng Tây nguyên như dân bản xứ trong nhiều
năm. Chúng tôi biết rõ thêm nhiều chi tiết về những
dàn cồng chiêng, những buổi hát thâu đêm, những sử
thi, trường ca, anh hùng ca của vùng núi rừng miền
Thượng.
Nhưng vì làm việc cho Trung tâm
Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, tôi có nhiệm vụ
phải sưu tầm nghiên cứu âm nhạc truyền thống dân
gian và bác học của người Kinh, và dòng đời đã đưa
chúng tôi bôn ba, bốn biển năm châu, hình ảnh Tây
nguyên chỉ còn là những khu rừng nhiều cây rậm lá,
là “biển hồ” đầy thơ mộng vùng Pleiku, là những âm
thanh trầm bổng
của cồng chiêng, những nhạc cụ làm
bằng tre nứa, những tiếng khèn bè M’buat của dân tộc
M’nong, Ding Nam của dân tộc Êđê, tiếng đàn K’ni của
dân tộc Gia rai... Những băng từ ghi lại âm nhạc
vùng Tây nguyên của các nhà Dân tộc học Jacques
Dournes, Georges Condominas, bà De Haute Cloque, bà
bá tước De Chambure mà chúng tôi được nghe trong các
phòng tàng trữ tư liệu của Bảo tàng viện Con người
và Bảo tàng viện Guimet chỉ kéo chúng tôi trở lại
trong khoảnh khắc không khí Tây Nguyên.
Sau này, giáo sư Tô Vũ và các
chuyên gia Viện nghiên cứu âm nhạc và múa của thành
phố Hồ Chí Minh đã tổ chức những liên hoan cồng
chiêng và ghi thêm nhiều hình ảnh, âm thanh của các
dàn cồng chiêng đa dạng.
 |
Bảo tàng viện Guimet
|
Giáo sư Tô Ngọc Thanh, người đã
lặn lội cùng ăn cùng sống với dân tộc Tây Nguyên
trong 6, 7 năm trời, và nhiều chuyên gia khác như
Trương Bi, Vũ Ngọc Bình, A Đôi, Đặng Hoành Loan v.v…
đã cho tôi một hình ảnh đậm đà của văn hóa âm nhạc
Tây Nguyên. Nhưng tôi chưa có dịp trở lại Tây Nguyên
để nghe tận tai, thấy tận mắt những điều tôi đã được
biết qua các bài tiểu luận đã viết hay băng từ đã
ghi lại hình ảnh và âm thanh của nền âm nhạc núi
rừng.
Năm 2005, tôi có dịp tiếp cận với
Tây Nguyên qua việc Hội đồng quốc tế Khoa học Xã hội
thuộc UNESCO giao cho tôi trọng trách thẩm nghiệm và
đánh giá hồ sơ về Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên do Việt Nam đệ trình UNESCO xem xét để có thể
công nhận Không gian này là một kiệt tác di sản
truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Nhờ hồ sơ
này, tôi được biết rõ thêm về bề dày lịch sử, chiều
sâu nghệ thuật của những dàn cồng chiêng trong một
không gian văn hóa đa dạng và phong phú, và gặp
nhiều chuyên gia như Bùi Trọng Hiền, Nguyễn Quang
Tuệ, những người trẻ tuổi mà đã có nhiều công trình
rất đầy đủ và sâu sắc về cồng chiêng và văn hóa dân
gian vùng Tây nguyên.
 |
Lễ Tiếp nhận Bằng UNESCO
tôn vinh Không gian Văn hóa Cồng chiêng
Tây Nguyên là kiệt tác Di sản truyền
khẩu và phi vật thể của nhân loại. Người
đứng bên cạnh GS Trần Văn Khê là
cô phóng viên người Ede. |
Năm 2006, tôi lại vinh hạnh được
mời tham dự buổi lễ đón Bằng của UNESCO vinh danh
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tại thành
phố Pleiku.
Sau hai mươi tám năm, tôi rất
ngạc nhiên và thích thú khi trở lại nơi này, một
vùng đất trước kia hoang sơ mà nay rất trù phú,
trước kia là một làng xã nhỏ mà nay là một đô thị
sầm uất, là nơi có thể tổ chức buổi lễ hoành tráng,
qui mô mang tầm cỡ quốc tế và có đủ điều kiện để đón
những vị khách quý từ bốn phương.
Buổi lễ được cử hành tại sân vận
động lớn của thành phố, đã huy động được nhiều dàn
cồng tiêu biểu của các dân tộc Tây Nguyên cùng những
học sinh sinh viên, thanh niên nam nữ trong buôn
làng, và các vị
quan khách Việt Nam,
các ban ngành văn hóa, kinh tế
và quốc tế như ông Gadigy Ngomezulu, đại
diện cho Tổng giám đốc cơ quan văn hóa Liên hiệp
quốc và các nhân viên phái đoàn UNESCO.
Lễ hội cử hành đúng giờ qui định,
rất trang nghiêm.
Một hồi trống vừa dứt, tiếng hoan hô vang dậy cả sân
vận động. Trên mười dàn cồng cùng biểu diễn chung
một lúc những bản nhạc dành cho lễ hội. Hàng trăm
thanh niên nam nữ rực rỡ trong lễ phục của các dân
tộc nhịp nhàng múa theo tiết tấu của cồng chiêng.
Hàng trăm phóng viên các báo toàn quốc về đây để lấy
tin và ảnh của buổi lễ. Truyền hình đã phát sóng
trực tiếp từ lúc khai mạc để đông đảo khán giả trong
cả nước có thể theo dõi.
Tôi nhìn quan khách quốc tế, thấy
trên nét mặt của các vị có vẻ ngạc nhiên và thán
phục. Các bạn nhìn tôi mỉm cười. Tôi nói với Ông đại
diện UNESCO: “Chắc ông không chờ đợi rằng việc
UNESCO tôn vinh giá trị nghệ thuật của cồng chiêng
đã gây nên một sự hưởng ứng của toàn quốc Việt Nam
như thế. Tôi đã thường mơ màng rằng nếu một bộ môn
nghệ thuật nào mà được chánh quyền trung ương và địa
phương quan tâm, được nghệ nhân, nghệ sĩ chắt chiu
gìn giữ và hãnh diện với di sản của cha ông để lại,
được quảng đại quần chúng hoan hô đón nhận, nhứt là
được thế hệ trẻ sẵn sàng tiếp thu nghệ thuật ấy, tìm
hiểu thương yêu, học hỏi và luyện tập thì bộ môn
nghệ thuật đó có được một sức sống mãnh liệt và sẽ
không bao giờ bị chìm trong quên lãng. Thì hôm nay,
hình ảnh đó đã hiện rõ trong sân vận động thành phố
Pleiku”. Ông đại diện UNESCO nói rằng ông chưa bao
giờ tham dự một buổi đón tiếp bằng tôn vinh của
UNESCO được tổ chức một cách trọng thể như thế này.
Mục đích của UNESCO là khơi dậy trong lòng các dân
tộc tình yêu thương di sản truyền thống của mình để
giữ lại cho nhân loại những hình ảnh và sắc thái đa
dạng của các nền văn hóa trên toàn thế giới. Lễ hội
hôm nay chứng tỏ rằng UNESCO đã đạt được mục đích
đó.
Buổi lễ kết thúc trong tinh
thần đoàn kết bằng cử chỉ của toàn thể quan khách và
diễn viên cùng nắm tay nhau, cùng múa theo nhịp cồng
chiêng quanh ngọn lửa hồng do Chủ tịch nước, các Bộ
trưởng và đại diện của UNESCO châm ngòi.
Hôm sau, trong buổi gặp gỡ với
nhân viên Sở Văn hóa Thông tin Pleiku và đại diện
các báo họp tại trụ sở của tòa soạn báo Gia Lai,
chúng tôi được biết rằng chánh quyền và cơ sở văn
hóa địa phương rất lo lắng không biết phải bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng như thế nào,
có nên giữ nguyên vốn cũ hay phải đổi mới mà đổi mới
theo cách nào. Các bạn yêu cầu tôi cho ý kiến về
công việc phải làm. Trước sự nhiệt tình chờ đợi câu
trả lời, tôi phải bỏ sự dè dặt mà phát biểu như sau:
“Các bạn không thiếu người
sáng suốt để chỉ đạo công việc này nhưng với kinh
nghiệm của tôi trong công việc bảo tồn và phát huy
vốn dân tộc truyền thống mà UNESCO đã hưởng ứng
trong mấy chục cuộc hội thảo quốc tế, tôi thấy rằng
một di sản đang bị chìm vào sự quên lãng tựa như một
căn nhà đang bị cháy. Trước khi nghĩ rằng phải trồng
loại hoa nào trong khu vườn trước nhà, phải trang
trí thế nào cho các phòng thì phải chữa cháy trước
đã. Do đó, công việc đầu tiên là làm sao gầy dựng
lại những dàn cồng chiêng Tây Nguyên theo lời hướng
dẫn của những nghệ nhân lão thành để chúng ta có một
dàn cồng chiêng mẫu mực, giữ lại được những nét hay
độc đáo và đặc thù của nghệ thuật mà cha ông chúng
ta đã dầy công xây đắp, đã được lưu truyền từ đời
trước qua đời sau, chịu thử thách của thời gian mà
ngày nay vẫn còn phù hợp với quan điểm thẩm mỹ và
tín ngưỡng của các dân tộc đang sống trên Tây
Nguyên.
Nhưng mỗi truyền thống đều có
sức sống và sự phát triển riêng của nó. Truyền thống
không phải bất di, bất dịch mà thường thay đổi theo
nếp sống của xã hội. Sự thay đổi đó rất tế nhị và
phải bắt nguồn từ bên trong và do những người nắm
vững truyền thống thực hiện chứ không phải do vay
mượn bừa bãi những yếu tố bên ngoài. Chúng ta thường
nghe rằng xã hội mới có một nhịp sống mới thì âm
nhạc cũng không thể chậm chạp lề mề theo nhịp sống
xưa. Theo tôi, hai tiết tấu của xã hội công nghiệp
và của nghệ thuật không có bắt buộc phải như nhau.
Nhịp sống xã hội là nhịp sống của kỹ nghệ, của công
nghiệp còn tiết tấu của âm nhạc là tiết tấu của nghệ
thuật, là tiết tấu của con tim thưởng thức nghệ
thuật. Nếu bắt con tim phải theo nhịp sống quay
cuồng của xã hội công nghiệp thì con người sẽ đi
ngược lại nhịp sống sinh lý vì thế đổi mới không
phải là làm cho ồn ào và rộn rịp hơn xưa. Chúng ta
không nên vì cái hào nhoáng bề mặt của nghệ thuật
phương tây mà chạy theo bắt chước để tạo thành một
loại nhạc ngoại lai, không còn bản sắc của dân tộc
và quên đi nét thâm trầm tế nhị và kín đáo bề trong
của nghệ thuật. Khi muốn phát huy vốn cổ bằng cách
thêm vào một vài yếu tố mới trong ngôn ngữ âm nhạc,
chúng ta nên thận trọng, phải có người nắm vững
truyền thống để biết rõ yếu tố có phù hợp hay không
với căn bản của truyền thống. Nếu không phù hợp sẽ
dẫn đi đến chỗ đào thải như cách ghép cây hay ghép
cơ quan nội tại trong một con người. Nếu phù hợp thì
loại cây mới ghép sẽ đơm hoa thơm kết trái ngọt,
hay đem lại sự sống mới cho người được ghép. Việc
làm đó đòi hỏi nhiều sự thử thách và thời gian rất
dài.
Việc trước mắt là nên đem
nghệ thuật cồng chiêng vào trong học đường, không
phải đào tạo cho học sinh trờ thành diễn viên của
cồng chiêng mà cho mọi người hiểu biết những nét
khái quát của nghệ thuật cồng chiêng và thưởng thức
cái hay, cái đẹp của tiếng cồng, tiếng trống. Phải
biết cồng chiêng không chỉ là những nhạc cụ mà là
những vật thiêng và gắn liền với đời sống của con
người từ lúc sơ sanh đến lúc trở về với cát bụi và
trong những sinh hoạt thường ngày. Sau đó, phải nghĩ
đến vấn đề “tiếp thị” văn hóa cồng chiêng với người
trong nước và ngoài nước.
Đại khái như in những bưu
thiếp với hình ảnh, trang phục của thanh niên nam,
nữ của những dàn cồng chiêng lớn nhỏ, những lễ hội
độc đáo.
Nên tạo những hàng hóa thủ
công nhẹ nhàng không đắt giá để phổ biến hình ảnh cụ
thể của văn hóa cồng chiêng cho người trong và ngoài
nước.
Các nhà sản xuất băng dĩa nên
nghĩ ra những dĩa hát, những dĩa DVD ghi lại những
buổi biểu diễn của cồng chiêng Tây nguyên để phổ
biến trong các trường học, các đài truyền thanh,
truyền hình và những nơi công cộng.
Bưu chính viễn thông cần in
ấn những con tem về hình ảnh của văn hóa cồng
chiêng.
Tổ chức ngày lễ hội cồng
chiêng truyền thống trong một định kỳ thời gian để
qui tụ các dàn cồng chiêng khác nhau của các dân tộc
trong cả nước. Ngày đó cũng sẽ là một ngày đặc biệt
trong chương trình du lịch văn hoá của vùng Tây
Nguyên.
Những việc làm đó là những
phương pháp được áp dụng để “tiếp thị” văn hoá cồng
chiêng trên thế giới.
Ngoài ra, công việc chánh sẽ
làm là giáo dục và đào tạo những nhạc công trẻ tuổi
để một ngày kia tiếp nối việc làm của những nghệ
nhân cao niên sẽ lần lượt vĩnh viễn ra đi.
Đó là những đề nghị của chúng
tôi đến các bạn để cùng chung nhau thiết lập một
chương trình thực hiện việc bảo tồn văn hoá cồng
chiêng Tây Nguyên.
Công việc phát huy và phát
triển cồng chiêng Tây Nguyên cũng cần phải nghĩ đến,
nhưng không thể đưa ra trước những gì chúng ta muốn
làm mà phải tùy số nhạc sĩ trẻ tuổi mà thấm nhuần
truyền thống cổ và sự thích nghi của nghệ nhân cao
niên với nếp sống mới.
Tuy không thể thường xuyên
sống trên Tây Nguyên với các bạn nhưng có thể lúc
cần tôi sẽ gặp các bạn trên ấy. Chúng ta có thể trao
đổi tin tức và kinh nghiệm qua thư từ hay những băng
ghi âm, ghi hình.
Thân mến chúc các bạn thành
công”.
Sau
buổi họp báo, Sở Văn hóa thông tin có tổ chức một
buổi cho tôi trở lại Biển hồ, một thắng cảnh
trên Tây nguyên. Tôi được biết thêm là Biển hồ trước
kia là miệng của núi lửa nay lửa đã nhường chỗ cho
nước. Có người còn gọi đây là “T’ nưng” tức “hồ
không đáy” vì vùng sâu nhất đo được mười tám mét.
Ngày xưa, không có những cơ sở để cho người du khách
đứng nhìn toàn diện Biển hồ mênh mông, lai láng, là
nguồn nước ngọt ngào cung cấp cho toàn tỉnh Pleiku.
Tôi lại được đi viếng khu du lịch mang tên “vườn
xanh” để nhìn những cây hóa thạch, để nghe tiếng
suối đờn T’rưng, để xem “suối giã gạo”, để hưởng được không khí an lành tươi mát
của một vùng đầy cây xanh, có cả trăm ngàn bướm vàng
bay liệng.
Xưa, tôi đến vùng này trong
hai, ba tuần mà những điều mắt thấy tai nghe không
gây ấn tượng sâu đậm như chuyến đi ngày nay mặc dầu
chỉ ở có ba ngày.
|