Những bài cùng tác giả

Ngày 30/9/2009, Quan họ Bắc Ninh đã
được UNESCO công bố là Di sản văn hóa phi vật thể Đại diện của nhân loại.
Quan họ Bắc Ninh
được Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá cao về giá trị văn hóa đặc
biệt, về tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách
ứng xử văn hóa, bài bản, ngôn từ và cả về trang phục. Hồ sơ đã đáp ứng đầy
đủ tiêu chí để quan họ Bắc Ninh trở thành di sản đại diện của nhân loại với
các kết luận: Quan họ luôn được thực hành trong các hoạt động văn hóa, xã
hội của cộng đồng, được cộng đồng hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang lưu giữ,
trao truyền từ nhiều thế hệ trở thành bản sắc của địa phương và lan tỏa trở
thành không gian văn hóa đặc thù.
Việc quan họ được đăng ký vào danh sách đại diện sẽ góp phần tăng cường vị
trí, vai trò của di sản đối với xã hội làm giàu thêm bức tranh đa dạng văn
hóa của Việt Nam và của nhân loại.
Nhân sự kiện này,
chúng ta nhìn lại thái độ, việc làm của các nhà nghiên cứu âm nhạc Việt Nam
đối với hát Quan họ qua báo chí vào hậu bán thế kỷ XX.
***
Hát Quan họ là thể loại ca
hát dân gian được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, bình luận, khảo cứu nhiều
nhất, bởi tính đặc sắc trong thủ tục, lề lối diễn xướng và sự phong phú về
làn điệu của nó. Cho đến nay, số trang, bài được tuyển chọn của thể loại này
có tỷ lệ áp đảo so với các thể loại dân ca khác.
Trưóc năm 1945, một số tác
giả như Chu Ngọc Chi (năm 1928),Việt Sinh (1933), Minh Trúc (1937)... đã có
đề cập đến Hát quan họ trên các báo Thụy Ký, Phong Hóa, Trung Bắc tân văn...
nhưng chủ yếu chỉ khai thác về mặt phong tục, lề lối sinh hoạt và văn chương
trong Hát quan họ. Các tác giả này đều không phải là những người nghiên cứu
âm nhạc, mà ở nước ta, thời kỳ này cũng chưa hề có giới nghiên cứu, lý luận
âm nhạc chuyên nghiệp, nhất là âm nhạc cổ truyền dân gian.
Giai đoạn từ sau Cách mạng
Tháng Tám đến 1954 thì ai cũng biết đây là thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Mặc dù được bản Đề cương văn hóa khai sáng về vấn đề văn hóa dân tộc trong
Hội nghị Văn hóa Văn nghệ toàn quốc năm 1948, nhưng trước cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện với phương châm: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng” thì văn hóa, văn nghệ chuyển hướng để tập trung cao độ cho việc phục
vụ kháng chiến. Bởi vậy, công tác nghiên cứu, lý luận âm nhạc cổ truyền phải
nhường chổ cho nhiệm vụ trước mắt là động viên toàn dân kháng chiến.
Nhưng từ năm 1955 trở đi, sau
khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, công tác sưu tầm nghiên cứu dân ca, dân
nhạc mới thực sự khởi sắc, có kế hoạch, có tổ chức bởi sự đầu tư của nhà
nước. Nhiều nhóm nghiên cứu mà thành viên là các nhạc sĩ chuyên nghiệp đã tổ
chức những cuộc điền dã quy mô, dài ngày ở các trọng điểm hát quan họ của
tỉnh Bắc Ninh. Từ năm 1956 trở về sau, trên các tập san, tạp chí xuất hiện
các bài viết của các tác giả: Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Đình Tấn, Tú Ngọc, Tử
Phác, Trần Văn Khê, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm... Lúc nầy, công chúng mới
được biết có một thể loại dân ca đặc sắc tại Bắc Ninh. Chính Gs.Trần Văn Khê
trong một khảo luận về Quan họ đăng trên tạp chí Bách khoa Sài Gòn năm 1958
(chủ yếu là tham khảo từ các nghiên cứu của Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Đình
Tấn, Tú Ngọc...công bố năm 1956) cũng từng thừa nhận là trước năm 1954 ông
chưa nghe nói tới Quan họ bao giờ!
Từ 1955 đến ngày thống nhất
đất nước - 1975, và cho đến nay, Quan họ vẫn được các nhà nghiên cứu quan
tâm, không những chỉ trong lĩnh vực âm nhạc học, mà còn cả trong các lĩnh
vực khác như Văn hóa dân gian và Dân tộc học... Do được quan tâm, đầu tư, có
tổ chức, kế hoạch... hoặc do sự hấp dẫn của đề tài, dân ca Quan họ đã lôi
cuốn nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nên đối với thể loại
dân ca này, việc bình luận, nghiên cứu có tính chất toàn diện hơn. Vì vậy,
trong khối lượng tài liệu sưu tập được, mặc nhiên đã tập trung vào bốn vấn
đề: nguồn gốc, sinh hoạt, nghệ thuật và bảo tồn, phát triển.
Vấn đề nguồn
gốc
Để xác định nguồn gốc, xuất
xứ của một thể loại dân ca thật không phải là điều dễ dàng. Sự biến thái,
chuyển hóa từ một thể loại này sang một thể loại khác trong quá trình giao
thoa, tiếp biến của truyền thống âm nhạc dân tộc dân gian đã là những vấn đề
hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp nghiên cứu liên ngành. Cách làm
này, chỉ trong những khảo cứu sau năm 1975 mới bắt đầu được chú trọng. Trong
việc xác định nguồn gốc, tên gọi hát Quan họ, tựu trung các bài viết thường
chú trọng đến vấn đề thời điểm ra đời của Quan họ, và bằng những cách tiếp
cận khác nhau.
Gs Trần Văn Khê trong bài
khảo cứu về Hát Quan họ năm 1958 [1], căn cứ vào tài liệu của
Lưu Khâm - Nguyễn Đình Tấn - Nguyễn Viêm
nêu ra 3 truyền thuyết về xuất xứ của quan họ, nhận xét một số bất hợp lý
của các truyền thuyết, nhưng không xác định theo quan điểm của mình. Ông
Nguyễn Tiến Chiêu trong bài Tìm hiểu nguồn gốc Quan họ Bắc Ninh
[2], sau khi nhận xét, lý giải, dung hòa 6 ức thuyết, tài liệu về nguồn
gốc quan họ, đã đi đến sự xác định: Quan họ phát sinh từ đời Lý tại Bắc
Ninh, thời kỳ mà “mọi hoạt động về văn hóa, xã hội đều phát triển đến tột
độ”; Quan họ thoát thai từ thể hát đúm, do những nghệ sĩ bình dân
sáng tạo. Cũng từ những truyền thuyết trong dân gian, nhạc sĩ Nguyễn Đình
Phúc trong bài Để góp phần vào vấn đề nghiên cứu Quan họ
[3] đã nêu ra 4 giả thuyết chính về thời điểm ra đời và nguồn gốc của
tên gọi Quan họ, đồng thời nhận xét các giả thuyết đó theo quan điểm riêng
của mình. Ông là một trong những người có bài khảo cứu sớm nhất về dân ca
quan họ từ sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, mà sau đó, Trần Văn Khê ở
Pháp (1958), Nguyễn Tiến Chiêu ở Sài Gòn (1959) và Lê Văn Hảo ở Huê
(1963)... đều đã tham khảo, làm cứ liệu cho các khảo cứu về Quan họ của
mình. Chẳng hạn, từ năm 1956 ông đã đưa ra nhận xét về đặc điểm của hát Quan
họ là “ đối giọng” .
Vào thời điểm này, một chuyên
khảo có tính khoa học của giới âm nhạc đã là hiếm, mà nhạc sỹ Nguyễn Đình
Phúc lại là một trong những người từng lăn lộn điền dã nhiều năm trên đất
Quan họ, tiếp xúc trực tiếp với các nghệ nhân quan họ, nên tư liệu trong
chuyên khảo của ông sống động và càng đầy sức thuyết phục hơn. (Theo lời tác
giả trong bài “ Để góp phần vào vấn đề nghiên cứu Quan họ”
đăng trên tập san Văn hóa số 11/1961, thì ông đã để tâm nghiên cứu Quan họ
ít ra cũng từ năm 1951.) Tuy nhiên, phương pháp trình bày hơi sa vào kiểu
mạn đàm, kể chuyện. Cụ thể trong phần Nguồn gốc, khi trình bày 4 giả thuyết
- truyền thuyết trong dân gian, tác giả không trình bày một cách khách quan,
mà lại lồng trước vào những nhận xét chủ quan của mình khiến người đọc bị
“nhiễu”, không biết đâu là giả thuyết - truyền thuyết dân gian, đâu là ý
kiến của tác giả, mặc dù, ngay sau đó, đã có một phần Nhận xét riêng biệt về
4 giả thuyết, kể cả một phần nhận xét bổ sung (!). Có nhận xét, bình luận
lạc lõng, cố lồng thêm quan điểm đấu tranh giai cấp, đã không phục vụ cho
nội dung, mà còn làm cho tản mạn thêm. Chẳng han, khi mới nêu giả thuyết
thứ nhất, đoạn Lý Công Uẩn bị quân giặc đuổi, để cứu Lý Công Uẩn, nhân
dân tổ chức hát Đúm ngay giữa đường khiến quan, quân của giặc phải dừng lại
để nghe...và việc Trịnh Sâm mê giọng hát của cô gái hái chè Đặng thị
Huệ...thì tác giả liền bình ngay: “Nếu một trong những giả thuyết trên
đây đúng thì cũng cho ta thấy một điểm chung là những gọng hát cũng như các
tác phẩm văn nghệ kiệt tác, từ xưa còn lưu lại, phần lớn là do nông dân lao
động sáng tạo ra. Bọn vua chúa phong kiến chỉ ngồi đấy ăn sẵn. Chúng cướp
người, cướp giọng hát, cướp những cái hay đẹp của nhân dân...”
thì thật là khiên cưỡng, không dính dáng gì đến vấn đề đang nêu. Khi bàn về
sự biến thái, pha tạp trong làn điệu quan họ, tác giả nói: “một đôi giọng
đã bị lai, tiểu tư sản hóa đi đến nỗi”.., thì người đời sau khó
mà hiểu nỗi !
- Với cách tiếp cận khác,
nhạc sỹ Hồng Thao đã lý giải nguồn gốc tên gọi của quan họ trong bài viết
Quan họ, tên gọi và nguồn gốc [5] bằng phương pháp
đối chiếu văn bản. Qua hai văn bản: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu
của Nguyễn Du và một đoạn trong chương I tiểu thuyết Lều chõng của
Ngô Tất Tố, tác giả xác định Quan họ nguyên “ là danh từ dùng để
chỉ những người thuộc họ nhà quan, được trọng vọng, có chữ nghĩa và
nhiều thân thế ”. Sau đó được chuyển hóa từ khái niệm Quan họ - xã
hội thành khái niệm Quan họ - nghệ thuật để chỉ một tổ chức, một
tập thể sinh hoạt văn nghệ bình dân, một thể loại dân ca là Hát quan họ.
Phương thức lưu giữ của dân
ca là truyền khẩu và luôn tồn tại, phát triển bằng những dị bản, vì vậy rất
khó xác định thời điểm ra đời của một thể loại, như Quan họ. Cũng bằng
phương pháp đối chiếu văn bản, tác giả Hồng Thao căn cứ vào quá trình hình
thành, phát triển của thể thơ lục bát trong văn chương mà đoán định niên đại
ra đời của dân ca Quan họ “...không biết dân ca Quan họ (chứ không phải
tục kết nghĩa Quan họ ) ra đời từ bao giờ, nhưng chắc chắn rằng nó ra đồi
sớm nhất là khi thể thơ lục bát ở Việt Nam đã hình thành, giả thiết
là cách đây khoảng năm thế kỷ.”
- Cũng từ một truyền thuyết:
Trương Chi - Mỵ Nương trên dòng sông Tiêu Tương, Quang Lộc lại tiếp cận ở
một góc độ khác để lý giải về nguồn gốc qua bài Thử tìm hiểu nguồn gốc
dân ca Quan họ [4]. Đó là góc độ lịch sử và xã hội thông qua tài
liệu khảo cổ học, dựng lên một bối cảnh xã hội, kinh tế, văn hóa của vùng
Tiên Sơn xưa để giải mã truyền thuyết, xác định nguồn gốc, tên gọi Quan họ:
“Việc giải thích của dân gian về nguồn gốc quan họ gắn liền với câu
chuyện Trương Chi, như thế là có cơ sở. Nó khẳng định quan họ có từ lâu đời
”.
Các cách tiếp cận
trên, không hẵn chỉ là cách thức của các tác giả đã nêu, mà hầu hết các nhà
nghiên cứu, khi viết về dân ca quan họ đều có đề cập vấn đề nguồn gốc, xuất
xứ. Tuy nhiên, ít hay nhiều thường phụ thuộc vào tiêu đề, chủ đề của bài
viết cho tạp chí. (Vì vậy, có một số bài-tác giả, tuy chúng tôi không sắp
xếp vào tiểu mục Nguồn gốc quan họ, nhưng không hẵn là không đề cập
gì đến vấn đề này.)
Đa số ý kiến của các tác
giả trong các bài viết đều rất phân tán. Hồng Thao, Nguyễn Đình Phúc cho là
cách đây khoảng năm trăm năm. Lê Thị Nhâm Tuyết xác định nguồn gốc quan họ
đầu tiên là hình thức đối đáp giao duyên nam nữ đã có từ hàng nghìn năm
trước
.
Nguyễn Tiến Chiêu xác định có từ đời Lý...và cũng như Nguyễn Đình Phúc, Lê
Văn Hảo đều cho Quan họ thoát thai từ hát đúm: “hát đúm là một
trong những nguyên nhân đã cấu tạo nên Quan họ”, hoặc như nhận xét của
Gs. Tú Ngọc trong khảo cứu Những bài hát giao duyên[12]: “ra
đời từ thời kỳ mà các bài ca giao duyên còn đơn giản, mộc mạc dựa trên thơ
bốn chữ. Thời kỳ đó quan họ cũng chỉ là một hình thức hát đúm...
Lối hát Đúm tự do và có tính chất tự phát xưa kia đã nhập
vào môi trường mới”. Còn theo Toan Ánh trong Hội Lim với tục hát
Quan họ [7] thì “tục hát quan họ do Hiệu Trung hầu (tên Diễn, làm
quan dưới triều vua Lê Cảnh Hưng) đã dựa theo lối hát ví của Kinh Bắc
mà đặt ra để mua vui lúc tuổi già”..., “Quan họ là những ngưới
có họ hàng với quan Hầu”...và “làng Cầu Lim tức là làng Lũng
giàng có thể là quê tổ của tục hát quan họ”.
Phải nói rằng, Quan họ nổi
trội lên như một hiện tượng văn hóa độc đáo, đặc thù trong hệ thống dân ca
vùng Trung du và Đồng bằng Bắc bộ, nơi gắn liền với thiết chế xóm làng
truyền thống và cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa một nắng hai
sương. Nếp sống phong lưu đã trở thành tính cách văn hóa trong sinh hoạt
quan họ, còn ẩn chứa nhiều điều về nguồn gốc, mà đến nay, chưa hẵn đã được
giải thích một cách thỏa đáng. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận qua bài Người sáng tác
âm nhạc đối với Quan họ [21] đã từng cảm nhận: " Quan họ, hình
ảnh dư âm của một xã hội thanh bình an cư lạc nghiệp.. Quan họ của cố đô,
con đẻ của những thịnh triều võ công hiển hách, văn học nghệ thuật và triết
học phồn vinh, tiếng hát của cố đô Kinh Bắc"; là một trung tâm dân ca mà
Gs. Tô Ngọc Thanh cho là đỉnh cao của nền dân ca Việt Nam.
Lề lối Sinh hoạt và vấn đề
nghệ thuật
Với đặc tính truyền
khẩu, âm nhạc dân gian - dân ca tồn tại, lưu truyền và phát triển đều thông
qua trình diễn, thông qua sự tái tạo bằng trí nhớ trên chính môi trường đặc
hữu của nó. Đó là sự phục hiện lại ký ức văn hóa. Vì vậy, yếu tố diễn xướng
là không thể tách rời mọi loại thể dân ca. Ở đó, thông qua trình thức, lề
lối - hình thái diễn xướng đặc thù, dân ca mới thưc sự bộc lộ hết bản sắc
của thể loại.
Đối với dân ca quan họ, điều
đó lại càng có ý nghĩa hơn bởi sự độc đáo của lề lối, thủ tục sinh hoạt và
sự phong phú về không gian, môi trường diễn xướng... “là một trong những
hiện tượng độc đáo hiếm có trong di sản văn hóa dân tộc”...[12] . Nghiên
cứu dân ca quan họ, do đó, là tiếp cận tổng thể, là đặt nó đúng vào hình
thái văn hóa Quan họ. Có thể, vì thế mà các tác giả, khi viết về dân ca Quan
họ, ít nhiều đều đề cập đến các vấn đề: quê hương quan họ, nguồn gốc, tục
lệ, lề lối, nội dung nghệ thuật ...
Trong tục lệ sinh hoạt, các
bài viết đều tập trung giới thiệu khá kĩ về tục nam nữ kết bạn quan họ. Tục
này là tục kết nghĩa, có nguồn gốc xa xưa trong truyền thống của dân tộc; nó
đã trở thành một môi trường xã hội có tác dụng duy trì và phát triển thể
loại dân ca này. Toan Ánh cho rằng “đặc biệt nhất trong làng quan họ là
tục Kết Bạn”.[7]. “Việc trai gái Quan họ kết bạn với nhau bề ngoài
giống như một chuyện cưới xin, chỉ khác điều là không lấy nhau thôi”[12],
nhưng “Quan họ trong một làng không bao giờ kết bạn với nhau. Một tốp nam
Quan họ ở làng này chỉ kết bạn với tốp nữ Quan họ ở làng khác”[8]. Đây
là một mỹ tục, một hình thái tồn tại rất đặc trưng của quan họ; là tổ chức
quan họ, một gia đình quan họ xác định một tập thể diễn xướng
có quy định thứ bậc đã “chứng tỏ rằng lối ca hát giao duyên này gắn rất
chặt với tục kết nghĩa”.[12]
Môi trường diễn xướng, không
gian hát quan họ được các tác giả đề cập đến như một hình thái tồn tại đặc
sắc trong văn hóa quan họ. Lê Văn Hảo, Toan Ánh... trên góc nhìn văn hóa -
dân tộc học, trong khảo cứu của mình đã chú trọng đúng mức phương diện này.
Toan Ánh [7] phân định các cuộc hát vào ba không gian chính, trước tiên,
quan trọng nhất của hát quan họ là hát ở hội, mới đến hát
tại gia và hát giải. Ở đó, mỗi cuộc hát đều được quy định theo
một lề lối hát riêng. Lê Văn Hảo trong khảo cứu Vài nét về sinh hoạt
Quan họ trong truyền thống văn hóa dân gian [6] đặt những sinh hoạt
quan họ trong bối cảnh truyền thống văn hóa dân gian, trong địa dư văn hóa
vùng Bắc Ninh - nơi mà “một năm có thể có đến 80 ngày hội”, dựng lên một bức
tranh sống động, đặc sắc, phong phú về môi trường diễn xướng quan họ.
Đặc biệt, ông còn nêu thêm một chi tiết mang đậm yếu tố phồn thực, một dấu
vết tín ngưỡng đặc trưng trong văn hóa của cư dân trồng lúa. Đó là tục “Nam
nữ du ca tại gia”, được coi là “tục lệ làng” mà “năm nào làng
không cử hành trong dịp lễ vào đám hai tục “nam nữ du ca tại đình” và “nam
nữ du ca tại gia” này thì trong làng có xẩy ra nhiều sự không may: người vật
bất an, mùa màng hư hỏng”.
Quan họ không phải là loại dân ca
hát trong môi trường lao động vì không gắn với công việc lao động cụ thể như
một số loại hò, ví... Thường chỉ hát trong dịp lễ bái quan trọng hoặc lễ
lạc vui chơi, mà dịp hát quan trọng nhất là các dịp đám cưới, đám khao, đám
giỗ, đám hội - hội đình, hội chùa. Trai gái Quan họ không phải sống bằng
nghề hát, không thể gọi là những người hát chuyên nghiệp. Nhưng không phải
bất cứ ai ai cũng có thể hát được Quan họ, do sự đòi hỏi phải tuân theo
một số trình thức, lề lối trong tổ chức sinh hoạt cũng như trong ca hát. “Muốn
hát Quan họ phải có nhiều điều kiện, phải có gọng tốt, phải chịu khó tập
luyện nhiều, phải có trí nhớ và ít nhiều thông minh, ở đây nghĩa là có ít
nhiều tài đối đáp, biết bình tỉnh để trả lời người đối diện không những
trong ý câu hát mà nhất là trong giọng bài hát: hát Quan họ khó hơn và tế
nhị hơn hát Trống quân là ở chổ đó.” [6] Không những người hát Quan họ
phải có “sự luyện tập công phu” mà còn phải “tiếp xúc lâu dài với lối hát
đó”.[6] Vì vậy, Tử Phác trong một bài viết về Quan họ năm 1956:
Góp ý kiến về Quan họ [11] đã cho rằng: tuy hát quan họ chưa phải là
nghệ thuật âm nhạc chuyên nghiệp “nhưng nó là hình thức nghệ thuật bắc
cầu giữa sinh hoạt âm nhạc của quần chúng với lao động nghệ thuật có ý thức
của các nhạc sĩ chuyên nghiệp... Quan họ đã thành một trường môn rõ rệt,
trường môn của các nhạc sĩ tài tử”. Từ đó ông đã đưa ra nhận định: “Quan
họ là nghệ thuật của thời kỳ quá độ phát triển từ dân ca đến
âm nhạc chuyên nghiệp hay quan họ là nghệ thuật âm nhạc bán chuyên
nghiệp vẫn song song phát triển với âm nhạc bình dân (dân
ca) và âm nhạc chuyên nghiệp ?”
Hát quan họ bao giờ cũng được hát
đôi, đôi nam hát đối đáp với đôi nữ theo lối đồng âm. Trong một đôi, cũng
được phân công người hát chính - “dẫn giọng” và người hát phụ - “luồn
giọng”. Vì vậy, “Trong quá trình ca hát, thường hình thành các cặp nghệ
nhân trong một bọn; những cặp này thích ứng với nhau về mặt kỹ xảo ca hát,
mức độ thông thuộc các câu hát”[12].
Đối giọng
được xem là yêu cầu chủ yếu trong lề lối hát quan họ. Các nhà nghiên cứu đều
thừa nhận sự phong phú đa dạng trong giai điệu, trong hệ thống giọng của
quan họ là do tác động của quy luật đối giọng trong diễn xướng. Tuy nhiên,
vấn đề phân loại giọng, tên gọi của các giọng trong quan họ vẫn chưa thống
nhất. Đặc biệt là khối giọng Vặt; nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc và Tú Ngọc còn
chưa nhất trí với nhau về những giọng “thuần túy quan họ” và những giọng “ảnh
hưởng các loại hát khác”[10]. Mặc dù đã có lúc xác định giọng Vặt (hay
vụn) bao gồm tất cả “các giọng linh tinh khác”, là những giọng du
nhập từ ngoài vào do yêu cầu của quy luật đối giọng, song đôi lúc lại giới
thiệu chúng như những giọng độc lập, cùng với giọng sổng, vặt... Các
tác giả tỏ ra lúng túng trong việc phân loại và hệ thống hóa các giọng quan
họ, có thể do chưa phân định rõ ràng giữa giọng, điệu, làn điệu hoặc hơi...
trong khi các nghệ nhân quan họ có thói quen đều gọi tất cả là giọng, kể cả
tên của bài !
Tên của 5 giọng lề lối giữa các
tác giả cũng chưa thống nhất. Theo Nguyễn Đình Phúc là: Giọng Hừ La,
giọng Ngay, giọng Tình Tang, giọng Đường bạn và giọng Lên núi (lên nương);
Tú Ngọc là: Hừ là, La rằng (hoặc tôi rằng), Ban lan, Cây gạo v.v...;
Trần Văn Khê là: giọng Là giằng (Hừ la), tình tang, lên núi,xuống sông,
v.v...; Hồng Thao là: Hừ la, La rằng, Đương bạn, Tình tang, Cây gạo, Cái
hời cái ả... Trong trình tự, lề lối của một cuộc hát đa số thống nhất
là: giọng lề lối - giọng sổng - giọng vặt và cuối cùng là Hát giã.
Tuy vậy, một số tài liệu lại có sự khác biệt, thí dụ theo tác giả Toan Ánh
thì sau giọng vặt là đến giọng Bỉ (hoặc gọi là giọng Vĩ) “Trai
gái quan họ dạo giọng bằng giọng Sổng, gắn bó với nhau bằng giọng Vặt, và để
chia tay nhau họ dùng giọng Bỉ” [7]. Theo Lê Văn Hảo thì sau giọng Bỉ
rồi mới đến Hát giã: “ Sau khi mỗi bên hát được vài bài giọng vặt thì hát
sang “giọng bỉ” là một giọng khó hát”[6]. Trần Văn Khê lại theo một lề
lối khác: “Khi hát giải thì phải theo lề lối tức là bắt đầu hát các giọng
Là giằng (Hừ la) tình tang, lên núi, xuống sông, v.v...Rồi đến các giọng
vặt, giọng vụn. Khi đêm về khuya mới hát đến giọng huỳnh, giọng hãm...Rồi
lúc từ giã hát bài Giã bạn, tỏ tình quyến luyến nhau” [1]...
Các tác giả còn luận bàn nhiều về
lề thói, kiểu cách ứng xử, nói năng, ăn mặc của các liền anh,
liền chị quan họ với những nét vẻ riêng đã hợp thành tính độc đáo, đặc
thù trong văn hóa quan họ... Tuy nhiên, những giá trị mà dân ca quan họ có
được là do nó có một phong cách riêng được tạo thành bởi những đặc điểm nghệ
thuật, mà hàng đầu là đặc điểm âm nhạc .
Có thể nói nhạc sĩ Hồng Thao là
người nghiên cứu dân ca quan họ một cách toàn diện nhất. Mặc dù không phải
là người khởi đầu, nhưng căn cứ vào các chuyên khảo đăng rải rác trên các
tạp chí từ những năm 70, 80 và 90, với hầu hết mọi vấn đề về dân ca Quan họ,
đã chứng tỏ tâm sức, tâm huyết của ông dành cho thể loại này.
Ngoài những vấn đề nguồn gốc,
sinh hoạt, bảo tồn và phát triển... nhạc sĩ Hồng Thao đã bỏ nhiều thời gian,
điền dã, sưu tầm, nghiên cứu, tổng kết những đặc điểm âm nhạc của dân ca
quan họ. Trong bài nghiên cứu Bàn về giai điệu và thang âm điệu thức
Quan họ [13], khi nhận xét về yếu tố giai điệu, ông đã nêu được
những đặc điểm như: ít có những bước nhảy xa, tiết tấu bình ổn; sự kết thúc
bài ca thường là trọn vẹn ở âm bậc I hoặc âm có quan hệ quãng 4 với bậc I
của điệu thức; mỗi bài quan họ thường có phần mở đầu, phần phát triển và
phần kết thúc rành mạch; và dân ca quan họ phần lớn phổ biến ở dạng hát
hơn là dạng ngâm, và mang nhiều đặc tính của ca khúc hơn là
làn điệu v.v...
Về thang âm - điệu thức, nhạc sĩ
Hồng Thao quan niệm là một trong những yếu tố cơ bản hàng đầu tạo thành tính
chất điêu luyện, hoàn chỉnh trong dân ca quan họ. Qua khảo sát một khối
lượng lớn bài bản quan họ, ông kết luận: dân ca quan họ đã ứng dụng chủ
yếu nhất và phổ cập nhất là hai thang âm năm cung kiểu IV và kiểu V (tương
ứng với điệu thức mang tên Chủy và Vũ trong âm nhạc Trung Hoa) cùng những
hình thức giao thoa điệu thức của chúng; ông đề xuất phương pháp xác
định âm gốc theo luận điểm của Girshman, cũng như một số ký hiệu bổ sung
trong việc ký âm nhạc quan họ... Ngoài ra, trong một bài khác: Dân ca
Quan họ, giao lưu nghệ thuật [18], ông còn tổng kết 5 phương thức mà
Quan họ đã tiếp thu, sáng tạo, quan họ hóa nghệ thuật “ngoài Quan họ” để làm
phong phú cho phong cách của mình.
Trong một bài khảo cứu: "Con
sáo sang sông" theo phong cách Quan họ Bắc Ninh [14] nhạc sĩ Văn Cao
chỉ đề cập riêng đến vấn đề đặc điểm âm nhạc trong đường nét giai điệu dân
ca quan họ. Ông đã nêu dẫn 2 âm hình điển hình được sử dụng thường xuyên
trong các bài hát (mà ông ký hiệu là âm hình a và âm hình b)
và cho đó “là một quan hệ bất biến trong cấu trúc dân ca quan họ, tạo nên
phong cách riêng, một nét khu biệt, bên những bài ca của các địa phương khác”.
Đó là “âm hình(a) tạo nét nhạc vượt lên quãng 4 và láy
tiếng (?), và âm hình(b) láy quãng 3 thứ đổ xuống”. Nhạc
sĩ còn xác định : “Trong quan họ, âm hình a thường dùng để mở câu
và phát triển câu nhạc, âm hình b khép lại và dùng để phát triển”.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận trong
Người sáng tác âm nhạc đối với Quan họ [21] cho yếu tố quan trọng
trong nhạc quan họ là Thơ: "Nhạc quan họ đẻ ra từ lời thơ quan họ”.
Nhận xét bài ca quan họ, ông cho rằng, "một điều trước tiên nổi lên, là
nó tạo ra được mầu quan họ. Nếu chỉ nhìn, phân tích về quãng
(phần lớn đi liền bậc), hình tiết tấu (sơ đồ đi toàn làn sóng êm),
điệu thức (mông lung trưởng thứ) thì chỉ mới thấy là nó thuộc
loại chung của các nhạc tình". Cái mà nhạc sĩ Đỗ Nhuận gọi là mầu
quan họ, ở đây, là việc "chỉ thông qua tiếng hát của chính người quan
họ, đó là vô vàn những âm hưởng vô hình, những luyến láy, những glissandi
nhỏ nhất, những các rung rinh ngầm, tạo ra một thứ âm sắc vô cùng đặc biệt,
nghe hát lên thì thấy, nhưng ghi ra (dù tỉ mỉ, chi tiết nhất) rồi đem xướng
lên, hoặc tấu vào các đàn cung 1/2 cung, thì hương vị quan họ mất
hết, hoặc gần hết.. .mức độ phức tạp này, ở quan họ thuộc loại cao
nhất". Có một vài chi tiết ông nêu ra và sử dụng thuật ngữ khó
hiểu. Chẳng hạn, "đứng về tác khúc, thường dùng nhiều thủ pháp nguyên âm
thay cho lời có nghĩa. Một phạm trù xếp vào loại chung là vocalise (xướng
nguyên âm: hối ư, hạ ối ư)... đã đóng vai trò làm cân bằng cấu trúc, đồng
thời gây mênh mông thêm".
Một đặc điểm phổ biến trong âm
nhạc dân gian Việt Nam: là dân ca, khi diễn xướng không nhất thiết phải có
nhạc cụ, nhất là dân ca người Việt (Kinh). Hát quan họ, nếu không có nhạc cụ
đệm, thì cũng được xem như là một đặc tính vốn có của thể loại. Tuy nhiên,
nhạc sĩ Đỗ Nhuận lại cho rằng: " không phải do trình độ quan họ không
biết dùng sáo nhị, không phải vùng quan họ không có người biết đàn, sáo,
trống, phách. Đây là có dụng ý rồi: Vụ thưởng thức thơ - nhạc tới mức
cao, thuần túy, không muốn nghe đàn. Bê đàn vào có thể làm loãng đi những
cái ngân nga sâu kín của lời thơ tỏa ra".
Gs. Tú Ngọc - một trong những
người khởi đầu việc nghiên cứu dân ca quan họ, cũng đã từng đề cập các vấn
đề trên trong những khảo cứu của mình. Khi nói đến những đặc điểm âm nhạc
trong quan họ, thì nhạc sĩ cho rằng, trước hết cần nói đến tư chất của
giai điệu và phương thức trình bày giai điệu đó. ”Giai điệu quan họ
thường được cấu trúc bằng những mô típ lèo lượn (những âm
hình thêu)... những giai điệu lèo lượn thường lại kết hợp với nhịp độ
chậm nên rất thích hợp với nội dung của cảm xúc trữ tình sâu lắng và tinh tế
- cung điệu tình cảm chủ đạo trong quan họ”. Một đặc điểm khác, phổ biến
trong âm nhạc quan họ “là lối bố cục hai phần trong một bài hát. Phần đầu
của nhiều bài quan họ là một đoạn nhạc có tính chất ngâm ngợi được gọi là
bỉ. Phần thứ hai của bài hát được coi là thân bài. Trong thân bài giai điệu
thường tương phản với phần bỉ đầu bởi tính chất mạch lạc của nhịp điệu và
nhịp phách”.
Cũng như vấn đề thang âm, Tú Ngọc
chỉ nhận xét: “Giai điệu trong nhiều bài hát quan họ được xây dựng trên
các loại thang âm 5 cung không có bán âm. Có bài chỉ một loại thang âm nhưng
có bài lại dựa trên một vài thang âm theo lối chuyển dịch từ dạng thang âm
này sang dạng thang âm khác, mà độc đáo nhất trong âm nhạc quan họ, là sự
chuyển dịch thang âm xuất hiện vào lúc gần cuối, gọi là câu đổ”.
Ông cũng cho biết, thỉnh thoảng có những bài dùng thang âm có bán âm, và
cũng chỉ được dùng trong hai trường hợp là ở những cụm âm luyến lên hoặc
xuống và ở những chổ kết câu, kết đoạn. v.v...
Có lẽ thú vị nhất là sự việc nhạc
sĩ Nguyễn Viêm, và sau đó là nhạc sĩ Hồng Thao với các bài viết đăng trên
tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật trao đổi, tranh luận với nhạc sĩ Lê Yên về
phương pháp phân tích, tìm hiểu giá trị nghệ thuật trong âm nhạc quan họ. Ở
đây, các tác giả của bài viết đã bộc lộ rõ quan điểm, nhận thức của mình về
phương diện nghiên cứu thể loại dân ca này.
Nhạc sĩ Lê Yên với bài viết
Qua việc phân tích mấy bài Quan họ [15], đã nêu một phương pháp
phân tích dân ca mà ông gọi là “phương pháp hoàn chỉnh”, “phương
pháp toàn diện”, kết hợp phân tích cả lời lẫn nhạc, không tách bạch
từng phần riêng biệt. Vì theo ông, “Không hiểu lời thì đừng hòng hiểu
đựơc nhạc... nếu nghiên cứu nhạc tách khỏi lời, thì chúng ta cũng chỉ tìm ra
được một kết luận rất khô khan và phiến diện”. Để dẫn chứng cho sự hoàn
chỉnh của phương pháp này, nhạc sĩ đã phân tích, mổ xẻ tương đối sâu vào kết
cấu của mấy bài quan họ “Cây trúc xinh”, “Qua cầu gió bay”...
và đã “vô cùng kinh ngạc khi phát hiện được những điều “then chốt” của vấn
đề.
Nhạc sĩ Nguyễn Viêm trong bài
Bàn về giá trị của một bài hát [16] đã tán thành với cách đặt vấn
đề và phương pháp phân tích mà nhạc sĩ Lê Yên đề xuất. Đồng thời ông cũng
nêu lên những điểm chưa nhất trí đối với các nhận định của Lê Yên về mối
quan hệ giữa lời và nhạc, mà ông cho là quá tuyệt đối...
Nhạc sĩ Hồng Thao thì bộc lộ rõ
hơn quan điểm đối kháng của mình trong bài Nhân việc phân tích mấy bài
Quan họ [17]. Mặc dù ông vẫn công nhận phương pháp phân tích trên là
hợp lý, nhưng không tán thành quan niệm thực hiện phương pháp của nhạc sĩ Lê
Yên. Ông đã dẫn chứng nhiều bài quan họ, nêu nhiều thực tế sinh hoạt diễn
xướng dân gian, những hạn chế của nghệ nhân, những đặc tính, đặc điểm của
dân ca nói chung và quan họ nói riêng... để làm rõ tính tương đối ngẫu
nhiên, tương đối tùy tiện trong sinh hoạt dân ca cũng như vai trò tương đối
độc lập của từng yếu tố trong dân ca quan họ. “Do chưa nhận rõ chức năng
sở trường của lời và nhạc trong dân ca. Lê Yên đã chặt vụn lời ca ghép vào
từng âm hình giai điệu tương ứng, cụ thể rồi tưởng tượng, tán dương”.
Hồng Thao còn phê phán luôn cả Nguyễn Viêm “ khi phân tích cụ thể cũng
như Lê Yên, hình như Nguyễn Viêm vẫn muốn bắt câu và tiết của âm nhạc phải
lệ thuộc vào câu và tiết của lời ca”. Còn với quan điểm của nhạc sĩ Lê
Yên, thì Hồng Thao thẳng thừng kết luận: “...do lầm cái ngẫu nhiên là tất
nhiên, lầm cái hiện tượng là bản chất, nên trong phân tích nhiều khi đã đi
quá xa”.
Dù sao, đó cũng là một thái độ
thẳng thắn đáng trân trọng. Căn cứ vào số xuất bản của tạp chí, số lượng
trang của bài viết (12tr), có thể thấy nhạc sĩ Hồng Thao đã có sự chuẩn bị
kỹ càng, nghiêm túc, không hấp tấp vội vàng. Bởi vì hai năm sau, kể từ khi
nhạc sĩ Lê Yên công bố bài nghiên cứu của mình (1974), nhạc sĩ Hồng Thao mới
có bài viết trao đổi này (1976).
Đối với nhạc sĩ Lê
Yên, thái độ tôn trọng dân ca nhạc cổ, đã thể hiện nhiều bằng những quan
niệm, những tìm tòi cẩn trọng, nghiêm túc trong các bài nghiên cứu của ông.
Vấn đề này, năm 1985 nhạc sĩ cũng đã có dịp trở lại cùng với những phân
tích, dẫn chứng phong phú, sinh động khác mà ông gọi là để bổ sung cho bài
Qua việc phân tích mấy bài quan họ công bố năm 1974 và “nhân tiện
để gián tiếp trả lời bạn Hồng Thao đã bắt bẻ tôi”[3].
Tuy nhiên, đôi lúc ông hơi bị tình trạng đề cao quá mức, bác học hóa hết
thảy (hoặc một số) yếu tố nào đó trong dân ca nhạc cổ. Chẳng hạn nói về sự
“bí hiểm” của các điệu thức trong hát Tuồng, mà ông cố gắn vào các hành
trong Ngũ hành với một cơ sở lý luận không mấy thuyết phục lắm.[4]
Ông luôn nói sự ảo diệu,
tuyệt diệu của âm nhạc cổ truyền Việt Nam mà ông đã khám phá, và sự lỗi thời
của hệ thống lý thuyết âm nhạc cổ điển châu Âu; phê phán những người nghiên
cứu nhạc cổ truyền lấy tiêu chuẩn thước đo bằng nhạc lý phương Tây... Nhưng
trong hết thảy mọi vấn đề mà ông nghiên cứu đều không thoát khỏi cơ sở lý
thuyết, tiêu chuẩn thẫm mỹ của âm nhạc cổ điển châu Âu:
“- Khi cô Hai định bụng
nói dối, thì lúng túng, ngập ngừng, buông lững về âm át ; còn,
- Khi anh Hai dặn
cô Hai về nhà nói dối, thì cô Hai bình tĩnh, kết đàng hoàng về âm chủ
!...Thật là một sự tính toán chính xác, theo nội dung lời mà đặt từng nốt
nhạc cho hợp tình (tình cảm) và hợp lý (nhạc lý, lô-gích âm nhạc ), chứ đâu
phải dân ca là lúc nào và chổ nào cũng tùy tiện ? ”
[5].
Để phân tích âm nhạc Chèo ông không ngần ngại sữ dụng ký hiệu hợp âm theo
lối hòa âm công năng: “ Trong Sắp chợt cũng kết về s như
vậy: đVII - s ! để gây kịch tính đột ngột... Trong Ru kệ:
- Trổ 1 kết bằng TSVI – Đ
[6]...
Trổ 2 kết bằng TSVI - T... Trổ 3 kết bằng SII- T... Trong
Văn xô (binh lửa).. Trổ 1, 2, 3 kết bằng đ7 - t... Trổ 4 kết bằng
t - s... Đúng rồi ! Má đào trong binh lửa, làm sao ổn định mà về
t được?
[7]
v.v và v.v...
Vấn đề này, trước đây
Gs Trần Văn Khê đã có đề cập trong việc phê bình ông Nguyễn Tiến Chiêu, khi
ông này đặt hợp âm cho bài Trống Cơm: “Tại sao lại có hợp âm? Bài hát Việt
thuộc về loại đơn âm (monodique) chớ có phải loại đa âm (polyphonique)
đâu mà có hợp âm... Áp dụng những luật hòa âm Âu Châu để phân tách một bài
ca Việt chẳng khác nào đem một bài hát Âu Châu ra mà nói đoạn nào theo điệu
Bắc, đoạn nào theo điệu Nam...” Ông Nguyễn Tiến Chiêu khi phân tích bài
Trống Cơm đã đặt câu hỏi : “Ai dám bảo rằng dân tộc ta từ ngàn xưa không
thông hiểu những quy tắc về nhạc lý? ”, Trần Văn Khê lại chất vấn: “Nhạc lý
nào? Nhạc lý Âu, Mỹ hay là nhạc lý Việt, nhạc lý Á Châu?” [20].
Đây là một thực trạng vẫn tồn
tại trong nghiên cứu lý luận âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Chính nhạc sĩ Hồng
Thao, nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian dày dạn cũng từng quan niệm trong một
khảo cứu về dân ca quan họ: “...có một số quy luật phổ biến gần như của
chung toàn nhân loại. Chẳng hạn đó là nguyên tắc tương phản,
nguyên tắc nhắc lại, bố cục ba đoạn, v.v... Một số quy luật về
tư duy công năng điệu thức, những cảm giác về điệu tính, về những quãng
thuận và nghịch, về những âm ổn định và bất ổn định... là những thứ không
phải của riêng ai, của riêng một dân tộc nào” [13]. Chẳng hay đây là
những quy luật của truyền thống âm nhạc nào, hay tất cả đều là những quy
luật cơ bản trong nền tảng lý thuyết âm nhạc cổ điển châu Âu, mà người Việt
Nam chỉ mới làm quen (và trở
thành thói quen) từ đầu thế kỷ XX này!
Nói chung, trong bài khảo cứu
Bàn về giai điệu và thang âm điệu thức Quan họ [13], nhạc sĩ
Hồng Thao hầu như hoàn toàn dựa trên các kết quả nghiên cứu về thang âm điệu
thức của các nhà nghiên cứu nước ngoài như Kulakovskij, Spasobin, Girshman,
mà những luận điểm liên quan đến điệu thức 5 cung như: luân chuyển trưởng
thứ ; điệu thức 5 cung trưởng, điệu thức 5 cung thứ ; âm gốc và bán
gốc... đã được ông dùng làm cơ sở để lý giải các hiện tượng năm âm trong
âm nhạc quan họ. Đây chẳng qua cũng chỉ là hệ thống năm âm phổ biến trong
các truyền thống âm nhạc khác nhau ở phương Đông, nhưng được xem xét dưới
tiêu chuẩn thước đo của hệ âm bình quân cũng như nền tảng lý thuyết của nó.
Cách xem xét này, đối với âm nhạc cổ truyền dân gian, càng nghiên cứu sâu
bao nhiêu thì càng lún sâu vào gông cùm của hai thể điệu: Trưởng - Thứ,
và các hiện tượng năm âm phong phú trong âm nhạc cổ truyền, sẽ chỉ là những
vệ tinh xoay quanh và hướng đến một điệu thức trung tâm duy nhất là điệu
thức 7 âm diatonique tiêu biểu trong âm nhạc cổ điển (hay cổ truyền) châu Âu
!!
Vấn đề bảo tồn, phát triển
Nghiên cứu tự thân đã bao hàm
cả ý nghĩa bảo tồn. Ở đây không nêu ra những cách thức, phương pháp bảo tồn
và phát triển dân ca quan họ đã được đề xuất trong các bài nghiên cứu, mà
chỉ nhặt ra một số ý kiến có tính chất phê phán, tán đồng những khuynh
hướng, hoặc những ý tưởng có liên quan đến vấn đề gìn giữ và phát triển quan
họ.
Không chỉ trong dân ca quan
họ, mà cả trong âm nhạc dân tộc cổ truyền nói chung, vấn đề bảo tồn, phát
triển, nhất là việc phát triển nâng cao, đã tồn tại những quan điểm
khác nhau, nếu không muốn nói là đối chọi nhau. Cố nhiên, những quan điểm
này - thái độ đối xử với dân ca nhạc cổ, không thoát khỏi sự chi phối theo
từng giai đoạn xã hội nhất định, mà cụ thể, là biến chuyển theo những chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ khác nhau.
Bài viết Nâng cao và
phát triển Quan họ [19] từ năm 1956, nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn đã nêu
lên những nguyên nhân khác nhau, được xem như là động lực dẫn đến sự phát
triển trong dân ca quan họ. Trong đó, dị bản (theo cách gọi ngày
nay), là một yếu tố có tính chất quyết định. Trường hợp bài Tình bằng có
cái trống cơm (một bài hát được tái hiện lại bằng ký ức của một diễn
viên văn công quân đội năm 1954, mà hiện nay vẫn được coi là một bài hát hay
trong danh mục dân ca quan họ), mà sự thêm thắt, sáng tạo do không nhớ lại
được nguyên vẹn, theo ông, cũng là một cách phát triển quan họ. Từ những đặc
điểm vốn có của dân ca, là tồn tại theo phương thức truyền khẩu, các làn
điệu luôn vận động, mỗi ngày một khác, không đứng ỳ một chỗ. Nhạc sĩ Nguyễn
Đình Tấn cho rằng, trong quan họ còn rất nhiều bài chưa tập trung cô đọng,
chưa gọn về nội dung và hình thức, nó chậm chạp, thể hiện nhịp sống bình
thường ngồi hát chơi khi nhàn rỗi, thiếu sức mạnh. Yêu vốn cổ nhưng không
"tòng cổ" một cách thiếu phê bình, việc phát triển, nâng cao sẽ làm cho quan
họ phong phú và thích hợp với nhịp sống hiện đại. Theo nhạc sĩ, “nâng cao
dân ca, là sửa chữa nhạc và lời một số bài cho thích hợp,
như vậy mới làm sống lại một cách thích hợp với đòi hỏi của quần chúng...
làm như vậy cũng như người hát quan họ sáng tạo mà thôi, chỉ cần đi sát quần
chúng, luyện tình cảm mình là tình cảm của nhân dân, học tập thấm nhiều
dân ca lấy đó kết hợp khoa học, sáng tạo để nâng cao”. Quan điểm đó,
những năm sau này ít được ủng hộ hơn, thậm chí phủ nhận sự xâm phạm vốn cổ
theo cách trên, dù chỉ là việc đặt lời mới, dựng thành vở diễn sân khấu, như
ý kiến nhạc sĩ Đỗ Nhuận dưới đây: “cũng như với dân ca nói chung, thái độ
của chúng ta là không nên làm phương hại tới bản chất, tính cách của nó.
Tiếp thu phát triển quan họ mà đem kịch tính hóa nó thành nhạc sân khấu, làm
lời mới dù có nội dung thúc đẩy sản xuất nhưng ít chất thơ, mà chi chít chữ,
bỏ đi cái thoáng chữ của quan họ, gán hồ đồ cho nó là lề mề... là đánh mất
cái tinh tế của nó, làm thô kệch quan họ... Tôi không muốn đặt lời mới vào
điệu quan họ gốc.” [21]
Nhạc sĩ Hồng Thao trong
Quan họ, công việc gìn giữ và phát triển [24] không cho bài
Bèo dạt mây trôi và Tình bằng có cái trống cơm là quan họ. Theo
ông, bài Bèo dạt mây trôi chưa bao giờ được lưu truyền trong các “liền
anh liền chị” quan họ, còn bài Trống cơm thì chính nghệ nhân quan
họ Bắc Ninh gọi là Quan họ bộ đội. Ông gọi đó là những bài quan họ
rởm mà tính chất nội dung nghệ thuật rõ ràng khác hẳn những bài quan họ
đích thực. Trường hợp bài Người ơi người ở đừng về rõ ràng là một dị
bản của bài Chuông vàng gác cửa tam quan. Tác giả Trần Minh đã phân
tích về nhạc và lời của hai bài này và đã tỏ ra rất tinh tế khi phê phán dị
bản (mà ông gọi là bài “cải biên”) đã làm mất tính chất quan họ, là
dung tục, theo thị hiếu tiểu tư sản...[23], nhưng ông quên rằng, dị bản là
đặc tố của dân ca, vì vậy không có cái gọi là “bản gốc” (mà ông đã
nhắc đi nhắc lại có chủ ý nhiều lần khi phân tích) trong thành phần âm nhạc
được lưu truyền bằng phương thức truyền khẩu này. Nhạc sĩ Nguyễn Viêm cũng
chỉ đồng ý với tác giả Trần Minh việc thay đổi lời ca ở bản cải biên là chưa
thật quan họ lắm, “chưa nắm được sinh hoạt văn hóa quan họ”.
Trong lĩnh vực sáng tác
mới có dựa trên chất liệu âm nhạc quan họ, nhà nghiên cứu Hồng Thao lại
tỏ ra "khó tính" đối với một số ca khúc mới đã đời sống riêng trong
lòng công chúng, kể cả công chúng trên quê hương quan họ: “Bài Những cô
gái Quan họ của Phó Đức Phương thiên về mang “tính chèo”. Bài Làng
Quan họ quê tôi của Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Phan Hách cũng
không mang được “tính quan họ” bởi một lẽ đáng tiếc là nó đã bị phát triển
từ âm hưởng bài Bèo dạt mây trôi (nếu tôi không lầm), một bài hát vốn
bị hiểu sai là “dân ca Quan họ” [24]. Chúng tôi nói nhạc sĩ Hồng Thao “khó
tính” là vì: Hai nhạc sĩ trên có tội tình gì trong việc sáng tác một ca
khúc mới về cuộc sống mới trên quê hương Quan họ? Họ không
hề làm cái công việc sửa chữa, cải biên hoặc nâng cao một làn
điệu quan họ cổ truyền nào. Họ chỉ biết sáng tác theo cảm xúc theo đề tài và
tác phẩm của họ hoàn toàn là một bài hát mới như một ca khúc
phổ thông hiện nay mà thôi. Như vậy, liệu sẽ đối xử thế nào với bài
Thu trên đảo Kinh châu của Lê Thương và nhất là một số lớn bài quan
họ trong khối giọng Vặt, là khối giọng gồm rất nhiều bài có nguồn gốc
miền Trung, miền Nam đã được Quan họ hóa. Hoặc kể cả bài Con sông Vị Thủy
được biết là do nghệ nhân quan họ Nguyễn Đức Sôi sáng tác dựa trên âm điệu
bài Đường trường vị thủy của Hát chèo, mà hiện nay vẫn được
coi như một làn điệu quan họ cổ? Cố nhiên không thể so sánh những ca khúc “cải
cách” được sáng tác hoàn toàn bằng thủ pháp của Tây, với các làn điệu
dân ca đã trãi qua thời gian và sự mài giũa của các nghệ nhân Quan họ.
Sửa chữa, cải biên
dân ca để gọi là nâng cao như ý kiến của nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn
[19], hoặc nệ cổ đến mức khắt khe với các bài hát mới thuộc
lĩnh vực tân nhạc, thảy đều là thái độ cực đoan trong nghiên cứu phê
bình âm nhạc dân gian. Riêng vấn đề sáng tác bài Quan họ mới thì Lê Danh
Khiêm trong bài viết về Hiện tượng sáng tác Quan họ, miêu tả
và suy nghĩ [25] đã nói : “cũng như sáng tác các bài quan
họ mới vốn đã được bàn luận từ lâu và ở nhiều loại hình diễn đàn khác nhau.
Lý thuyết, tranh luận, thử nghiệm, giám định... đều không ít. Nhưng tới nay,
ánh sáng về một giải pháp mang tính thực tiễn cho vấn đề này hầu như vẫn
chưa mấy sáng tỏ”.
Năm 1976, trên tập san Khoa
học Xã hội của Việt kiều ở Pháp, Gs. Trần Văn Khê, qua những tài liệu sách,
báo viết về quan họ, cùng chuyến đi điền dã, thực tế tại Bắc Ninh, đã có
những nhận xét tổng quát về quá trình nghiên cứu, gìn giữ dân ca quan họ
trong bài Sau khi thăm quê hương Quan họ [22] Ông đã nêu ra 6
ưu điểm trong công tác sưu tầm, nghiên cứu và cho là : “đáng làm gương
cho các công tác nghiên cứu âm nhạc dân tộc trong nước ta và cho cả các nước
khác về mặt phương hướng và đường lối, nhất là cách nghiên cứu tập thể, tổng
hợp và toàn diện rất đúng với phương pháp nghiên cứu của môn dân tộc nhạc
học ngày nay”. Đồng thời, Gs cũng nêu lên 6 nhược điểm, gọi là Vài
khó khăn do điều kiện đất nước trong thời chiến tranh... Mặc dù là nhà
nghiên cứu người Việt ở nước ngoài, trong đánh giá không khỏi có phần chủ
quan, nhưng ông đã nhận xét đúng với thực tế nghiên cứu dân ca quan họ từ
trước đến thời bấy giờ (giai đoạn từ 1956 đến 1976). Một trong 6 cái khó
khăn đó, là cho rằng “tôi chưa đọc được những bài nghiên cứu tường
tận về cách phát âm, cách lấy hơi, cách ngân nga luyến láy trong quan họ,
những bài tiểu luận về thang âm, thức điệu, tiết tấu, những chữ lót chữ đệm,
cũng như chưa thấy những bài phân tích về cách cấu trúc, chuyển hệ, chuyển
điệu trong các bài hát quan họ”.
Vấn đề này, đến năm 1992,
trên tạp chí Văn Nghệ Hà Bắc [24] nhạc sĩ Hồng Thao, trên phương diện là
người trong cuộc, đã tổng kết, bình luận một cách chi tiết và đầy đủ
hơn. Thậm chí, ông còn vạch ra sự lệch lạc, xuống cấp một cách bi đát
của một đơn vị nghệ thuật quan họ ngay trên quê hương quan họ (Đoàn dân ca
Quan họ Hà Bắc) vào những năm 80. Vài trong những cái xuống cấp nhạc sĩ Hồng
Thao nêu ra, có thể kể là trong các chương trình biểu diễn của Đoàn đã nhập
nhằng, lộn xộn, không phân biệt rõ đâu là dân ca Quan họ cổ truyền,
đâu là phần dân ca ngoài quan họ (như Cò lả, Ví giận thương),
đâu là phần sáng tác mới (như Làng quan họ quê tôi, Đi chùa
Hương)... và Đoàn từ hướng nghệ thuật ca nhạc dân gian đi chệch sang
hướng sân khấu, xây dựng vở diễn v.v...
Trong bài Xe chỉ luồn
kim, một giả thiết [26], ngoài việc nêu ý kiến của một số nhà nghiên
cứu cho rằng Xe chỉ luồn kim dựa theo âm điệu của bài Lý tiểu khúc,
dân ca Trị Thiên. Tác giả Đức Hiển đã đưa ra hai giả thiết cho lý do giao
thoa đó. Đặc biệt còn giả định thêm về thời điểm ra đời căn cứ vào tiếng đệm
bằng chữ nhạc cổ truyền: U , xang, xê, cống, phan…
Đáng lưu ý, và đây cũng là
một trong những hiện tượng độc đáo hiếm có trong di sản văn hóa dân tộc: so
với các thể loại dân ca khác trong dòng âm nhạc cổ truyền dân gian Việt Nam,
yếu tố “đối đáp - giao duyên” đa phần là “đối lời” – bằng văn vẻ, nhưng đối
đáp trong Quan họ là “đối giọng” – bằng âm nhạc.
Vĩnh Phúc (Bùi Ngọc
Phúc)
THỨ
TỰ TÀI LIỆU
[1]
Trần Văn Khê. Hát
quan họ.
T/c Bách khoa số 43,
tháng 10/1958.
[2]
Nguyễn Tiến
Chiêu. Tìm hiểu nguồn gốc Quan họ Bắc Ninh
(phần 2)
T/c Bách khoa số 65,
tháng 9/1959.
[3]
Nguyễn Đình Phúc. Để
góp phần vào nghiên cứu Quan họ.
Tập san Văn hóa số
11/1961.
[4]
Quang Lộc. Thử tìm
hiểu nguồn gốc dân ca Quan họ.
Sáng tác Hà Bắc số 9/1978.
[5]
Hồng Thao. Quan họ,
tên gọi và nguồn gốc.
Văn nghệ Hà bắc số
2/1990.
[6]
Lê Văn Hảo. Vài nét
về sinh hoạt Quan họ trong truyền thống văn hóa dân gian.
T/c Đại học số
33/1963.
[7]
Toan Anh. Hội Lim với
tục hát Quan họ.
Nguyệt san Phương
Đông số 31, 32. 1,2/1974.
[8]
Hồng Thao. Quan họ,
lề lối sinh hoạt.
Văn nghệ Hà Bắc số
1/1991.
[9]
Nguyễn Đình Phúc.
Các giọng Quan họ
Văn nghệ số 114/1956.
[10]
Nguyễn Đình Phúc. Thêm vài
ý kiến về giọng Quan họ.
Tập san Âm nhạc số
10, 11/1956.
[11]
Tử Phác. Góp ý kiến về
Quan họ.
Tập san Âm nhạc số
10, 11/1956.
[12]
Tú Ngọc. Những bài hát
giao duyên (Phần Quan họ Bắc Ninh).
T/c Âm nhạc số
4/1982.
[13]
Hồng Thao. Bàn về giai
điệu và thang âm điệu thức Quan họ.
T/c NCNT số 1/1982.
[14]
Văn Cao. “Con sáo sang
sông” theo phong cách Quan họ Bắc Ninh.
T/c NCNT số 3/1985.
[15]
Lê yên. Qua việc phân tích
mấy bài Quan họ.
T/c NCNT số 2/1974.
[16]
Nguyễn Viêm. Bàn về giá
trị của một bài hát.
T/c NCNT số 4/1974.
[17]
Hồng Thao. Nhân việc phân
tích mấy bài Quan họ.
T/c NCNT số 1, 2,
3/1976.
[18]
Hồng Thao. Dân ca Quan họ,
giao lưu nghệ thuật.
Văn nghệ Hà Bắc số
1/1992.
[19]
Nguyễn Đình Tấn. Nâng cao
và phát triển Quan họ.
Tập san Âm nhạc số
10, 11/1956.
[20]Trần
Văn Khê. Nhân đọc bài “Trấng cơm” của ông Nguyễn Tiến Chiêu.
T/c Bách khoa số 78,
79/1960.
[21]
Đỗ Nhuận. Người sáng tác
âm nhạc đối với Quan họ.
T/c NCNT số 10,11,
12/1976.
[22]
Trần Văn Khê. Sau khi thăm
quê hương Quan họ.
Tập san Khoa học Xã
hội số 1 tháng 11/1976.
[23]
Trần Minh. Về bài dân ca
“Người ơi người ở đừng về”.
T/c Âm nhạc số
1/1977.
[24]
Hồng Thao. Quan họ, công
việc giữ gìn và phát triển.
Văn nghệ Hà Bắc số
3/1992.
[25]
Lê Danh Khiêm. Hiện tượng
sáng tác Quan họ, miêu tả và suy nghĩ.
Văn nghệ Hà Bắc số
Xuân Giáp Tuất 1994.
[26]
Đức Hiển. “Xe chỉ luồn
kim”, một giả thiết.
T/c NCNT số 9/1996.

|