Tham luận tại Hội thảo Quốc tế: “Sự thay đổi đời sống kinh tế, xã hội và
bảo tồn văn hoá cồng chiêng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á” do Viện Văn
hóa Nghệ thuật Việt Nam tổ chức tại Festival Cồng chiêng quốc tế 2009.
Mở
Văn hóa cổ truyền của các tộc người ở Tây Nguyên, cũng như các tộc ít
người khác trong cộng đồng các dân tộc Việc Nam, như lời cảnh báo của GSTS
Tô Ngọc Thanh: vốn được sinh ra trong điều kiện của nền văn minh nông
nghiệp lạc hậu và của xã hội chậm phát triển, đang bị thử thách gay gắt
trước những yêu cầu của sự phát triển của xã hội hiện đại, mà trước hết là
xu hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa mọi mặt đời sống của
con người. Vì vậy, nếu không quan tâm đến vấn đề văn hóa thì quá trình
phát triển cũng đồng thời là quá trình hủy diệt văn hóa. Quá trình này, có
một nhà nghiên cứu khác đã diễn giải cụ thể, thực tế và rất hình ảnh: xích
lô về làng đã đưa xe kéo tay vào bếp. Máy bơm nhiều mã lực có mặt trên
đồng ruộng thì gàu sòng, gàu giai ra đi. Ti vi, phim ảnh lên núi, thì
người múa hát dân dã bỏ dần vốn cổ “cây nhà lá vườn” ... nói chung, đó là
nguyên nhân làm rạn nứt các tập tục cổ truyền.
1. Không gian văn hóa của cồng chiêng
Đứng trước sự phát triển của xã hội hiện đại, những ngôi nhà Rông, nhà
Gươl đã bắt đầu hiếm hoi, các tập tục văn hóa cổ truyền chứa đựng trong
nó, được sản sinh ra trong nền kinh tế rẫy nương, săn bắt đã dần dần mai
một đi trong đời sống “ở đất bằng làm ruộng nước” với thiết chế “điện,
đường, trường, trạm”, kinh tế gia đình với khuôn viên VAC như hiện nay.
Cồng chiêng và nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng tồn tại trong không gian
văn hóa của nó, cũng chính là phương thức, đặc tính tổng thể nguyên hợp
của loại hình văn hóa dân gian. Nói một cách khác, cồng chiêng chỉ được
bộc lộ đầy đủ trong các lễ hội truyền thống của cộng đồng tộc người. Âm
nhạc cồng chiêng đối với họ là nhịp cầu nối cá thể lại với cộng đồng, nối
cộng đồng này với cộng đồng khác, nối con người với tất cả thần linh trong
trời đất, cũng có nghĩa là nối con người với thiên nhiên: cây cỏ, sông
núi, trời đất... trong ý niệm vạn vật hữu linh của tín ngưỡng sơ khai.
Như vậy, trước sự biến đổi kinh tế - xã hội, sự phát triển của nhận thức
cũng như sự hội nhập và tính chất toàn cầu hóa về thông tin, giao lưu văn
hóa như hiện nay, các tập tục cổ truyền rạn nứt, các lễ hội truyền thống
dần dà mai một... thì cũng đồng nghĩa với việc Không gian văn hóa của cồng
chiêng sẽ mất đi.
Cần nói thêm, một số lễ hội truyền thống may mắn được “phục chế”, tái hiện
với mục đích bảo tồn + phục vụ du lịch thì những trình thức của lễ hội đều
do các người già điều khiển qua sự tái tạo lại bằng trí nhớ; những bài bản
và hình thức diễn tấu ở mỗi giai đoạn lễ, cũng do nghệ nhân già nhớ và
hướng dẫn; cồng chiêng cũng do người già chế tác, chỉnh âm... Giới trẻ,
hầu như vắng mặt trong đời sống tinh thần của quá khứ, và như thế, những
sinh hoạt mang tính phong tục, tập quán đặc trưng của tộc người khó mà lưu
giữ được vào ký ức văn hóa của họ, như ý kiến cảnh báo của các nhà nghiên
cứu: “truyền thống văn hóa của một dân tộc sẽ chấm hết khi thế hệ cuối
cùng lưu giữ nó chết đi”... Điều này, đang đúng với thực trạng văn hóa của
các dân tộc thiểu số nói chung và cả khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên nói
riêng.
2. Âm nhạc của cồng chiêng
- Nghệ thuật của âm nhạc cồng chiêng đã được các nhà nghiên cứu âm nhạc
như Gs. Trần Văn Khê, Tô Ngọc Thanh, Tô Vũ, Bùi Trọng Hiền, Đặng Hoành
Loan, Lều Kim Thanh, Nguyễn Thuyết Phong... đúc kết, xác định giá trị nghệ
thuật cao trên phương diện âm nhạc học, dân tộc nhạc học.
- Sự phát tích, phát triển theo tiến trình lịch sử, sáng tạo cũng như mối
quan hệ mật thiết trong đại gia đình nhạc khí các tộc người Tây Nguyên từ
chiêng đá (Goong Lú – một loại đàn đá của người Mnông Gar, âm thanh là của
đá nhưng tiết tấu, cao độ là của dàn chiêng 3 âm: chiêng Mei, chiêng Suôn,
chiêng Kon Pé) đến chiêng đồng và các loại đàn chiêng tre (Đinh goong,
Goong kram, Chinh Kok, Cing kram) *...
- Mặc dù mang đặc tính của một loại thể dân gian, nhưng tính khoa học của
âm nhạc cồng chiêng về âm thanh như âm chuẩn, thang âm, âm sắc, tổ hợp dàn
chiêng (số lượng, chức năng của cồng và chiêng – chiêng núm và chiêng
bằng, chiêng Mẹ, chiêng Cha và các chiêng con...) mặc dù có khác nhau giữa
các tộc người vì sự cấu tạo, pha màu mang tính đặc thù về thẩm mỹ của từng
sắc tộc nhưng đều có sự hòa hợp, hoàn chỉnh. Đáng ngạc nhiên là đôi tai kỳ
diệu của những nghệ nhân có trách nhiệm xác định cao độ chuẩn cho hàng âm
dàn chiêng, cũng như xác định độ chênh sai về âm thanh của từng chiếc
chiêng và kỹ năng chỉnh chiêng cho đúng tiếng để nó không trở thành chiêng
chết. Chỉ với một chiếc búa gỗ nhỏ mà có thể điều chỉnh âm chiêng lên cao
hay xuống thấp một cách chính xác. Các nhà nghiên cứu thường gọi đùa là
người lên dây chiêng.
- Chiêng là tiếng nói của con người kết nối với cộng đồng, kết nối với
thần linh, với các Yang (Yang sông, Yang suối, Yang núi ...) cho nên tiếng
nói của chiêng được các tộc người Tây Nguyên sáng tạo thành nhiều bài
chiêng khác nhau. Trong trình thức lễ, mỗi loại dàn chiêng ứng với của
cuộc lễ, mỗi bài chiêng ứng với một lễ thức. Trong lễ đâm trâu tạ thần
người Ba-na sử dụng dàn chiêng Hoh gồm 11 chiếc cồng núm và chiêng phẳng;
trong lễ bỏ mả người Gia-rai sử dụng dàn chiêng Arap (cing arap) gồm 16
chiếc: 9 cồng, 7 chiêng (trong đó cồng, có núm là bộ đệm, chiêng, không
núm là bộ giai điệu)... cũng như các bài chiêng khác nhau đánh trong các
lễ cúng bến nước, lễ thổi tai, lễ làm nhà Rông mới, lễ ăn cơm mới v.v...
(Cũng vì sự hoàn chỉnh, độc lập của một hình thức âm nhạc dân gian mà các
nhà nghiên cứu âm nhạc có lúc đã xác định cồng chiêng đủ khả năng chuyển
đổi chức năng, không lệ thuộc vào không gian văn hóa của nó để đến với
không gian nghệ thuật có sân khấu, bục diễn... )
3. Nét độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên
Sự độc đáo và khác biệt cơ bản giữa cồng chiêng Tây Nguyên đối với cồng
chiêng của các nước trong khu vực Đông Nam Á ngoài sự gắn kết với không
gian văn hóa, là sự phong phú trong cơ cấu của các dàn chiêng (riêng người
Gia-rai trước đây đã tồn tại 5 dàn cồng chiêng khác nhau: loại dùng trong
lễ bỏ mả, loại dùng để uống rượu cần, loại dùng khi có đám rước, loại dùng
tế thần lửa và loại dùng để đón người chiến sĩ chiến thắng trở về) và nhất
là sự độc đáo, khác biệt trong cách thức diễn tấu.
-
Cồng chiêng của các nước Đông Nam Á lục địa: Lào, Campuchia, Thái Lan,
Myanma, các nước hải đảo: Indonesia, Philippines, Malaysia với các dàn
chiêng Gamelan, Gong Kebyar (Indonesia), Kulingtan (Philippines), Khong
wong yai (Thái Lan, Lào), Khong thom (Campuchia), Ky waing (Myanma)...
ngoài 1 đến 2 chiếc cồng lớn là treo trên giá (Agong – cặp cồng núm), còn
đa phần là cồng có núm nhỏ, mà mỗi cồng có núm được úp trên một hộp bằng
đồng - Gs. Trần Văn Khê mô tả như hình cái ô trầu có nắp * được sắp đặt
theo một hệ thống cố định trên một giàn tròn bằng mây hoặc giá bằng gỗ.
Nhạc công ngồi yên ở giữa, hai tay dùng 2 búa gỗ để gõ cồng. Nói chung,
dàn cồng chiêng của họ được cấu tạo tương tự hình thức một cây đàn gõ ra
giai điệu. (chỉ trừ dàn cồng Gangsa tại đảo Luson (Philippines) gồm 6 cồng
phẳng, cách sắp đặt và diễn tấu lại không khác nhiều người Mnông ở Tây
Nguyên).

Dàn cồng chiêng Myanmar tại Festival Cồng chiêng quốc tế 2009 tai Gia Lai
- Công chiêng Tây Nguyên Việt Nam thì trái lại, biên chế đa dạng, không cố
định, hình thành nhiều loại dàn chiêng khác nhau để phục vụ cho những sinh
hoạt, lễ thức khác nhau. Có loại dàn chỉ gồm 2 chiếc (như dàn chiêng Tha)
cho đến loại từ 9,11,16 cồng và chiêng. Nhạc công các dàn cồng chiêng các
nước Đông Nam Á lục địa một mình với 2 tay đánh bằng dùi gõ cả dàn cồng
đến 17, 19 chiếc, còn nhạc công dàn cồng chiêng Tây Nguyên thì mỗi người
chỉ đánh một cồng. Mỗi nhạc công giữ một vị trí cao độ và tiết tấu, âm sắc
khác nhau, đòi hỏi phải nhớ, phải tập trung tâm trí nắm chắc thời gian,
nhịp điệu để gõ đúng phần của mình, vừa phải lắng nghe người khác trong
dàn nhạc để tạo nên sự hòa hợp, đồng cảm chung. Vì vậy, để tham gia diễn
tấu được một bài chiêng, thì yếu tố “nhạc cảm”, năng khiếu bẩm sinh là vấn
đề quan trọng, không phải là ai cũng có thể làm ngay được. Đặc biệt là sự
quy định chức năng từng loại cồng trong dàn nhạc: “Chiếc cồng phát ra âm
thanh thấp – vốn là âm cơ bản – mang tên “mẹ”. Trong những dàn có 9 cồng
chiêng trở lên thì có thêm cồng “cha”, ... tiếp theo là các cồng con, cồng
cháu... hình thành hệ thống gia đình mang dấu vết chế độ mẫu hệ của người
Tây Nguyên. Khi diễn tấu, cồng mẹ và cồng cha được phân công phần trầm làm
nền, cồng con và các cồng khác đánh so le trước – sau, nhanh – chậm để tạo
ra giai điệu” *.
- Điều khác biệt nữa là nhạc công dàn chiêng Tây Nguyên không ngồi yên tại
chỗ để gõ cồng như các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanma... mà luôn di
động, (thường là di động xoay quanh một đối tượng được tôn vinh ở vị trí
trung tâm như cây nêu... theo chiều ngược kim đồng hồ như chiều bay của
cánh chim Lạc trên mặt trống đồng) và đa dạng về động tác (tùy theo sự cảm
hứng diễn đạt trong quá trình diễn tấu như khom người, nghiêng mình, cúi
mặt...). Cách gõ cồng của Tây Nguyên có hai cách: đánh bằng dùi và đánh
bằng cườm tay. Đánh bằng dùi, nếu là dùi mềm cho âm thanh tròn trĩnh, dịu
dàng, trầm lắng, nếu là dùi cứng cho âm thanh độ mãnh liệt, sắc nhọn. Đánh
bằng cườm tay cho âm thanh cảm giác mờ ảo, xa xăm, huyền bí, hoang sơ. Bàn
tay trái phía sau cồng không chỉ để giữ cồng mà cũng tham gia diễn tấu,
lúc bịt lúc mở mặt chiêng để tạo tiếng ngắt, tiếng ngân theo từng sắc thái
của bài chiêng.
4. Vấn đề đào tạo, truyền nghề trong việc bảo tồn di sản
Cuối năm 2008, Viện NC âm nhạc, Khoa âm nhạc di sản thuộc Học viện âm nhạc
Huế có cuộc khảo sát tại Đắc Lắc, Kon Tum và một số buôn của tỉnh Gia Lai.
Đoàn đã đến lớp học cồng chiêng của Y thơn A’yun – một già làng của buôn
K’rum thuộc xã Cư Bao, huyện Krông Buk, Đắc Lắc mà báo chí đã đưa tin...
nhưng chỉ gặp một không gian đìu hiu không nghe tiếng cồng không nhìn thấy
chiêng! Lớp học đã không còn tồn tại, chỉ còn một già làng tuổi đã cao
không còn minh mẫn. Tuy vậy, khi đến buôn Ea Bông, xã Chư Ê Bur Ban Mê
Thuột lại gặp được nghệ nhân Y Thim Bya, 45 tuổi, một nhà sưu tập có khá
nhiều bộ cồng chiêng quý Êđê, Gia rai, M’nông, chiêng tre và các loại nhạc
khí khác của Tây Nguyên. Đặc biệt ông cũng là thầy giáo của một lớp học
tại gia gồm nhiều học viên nam, nữ, ở nhiều độ tuổi khác nhau, nhưng đa số
đều trẻ từ các buôn khác nhau đến học. Bỏ qua sự thẩm định về vốn liếng di
sản cổ truyền của nghệ nhân, chương trình, bài bản... và dù chỉ do sở
thích cá nhân hoặc mục đích khác, nhưng với số lượng học viên đông đảo,
được truyền nghề trực tiếp, đáp ứng được nhu cầu học hỏi của tuổi trẻ
trong địa phương... thì thiết nghĩ, đây là mô hình truyền nghề rất có hiệu
quả trong việc bảo tồn đối với di sản âm nhạc này. Những học viên – nghệ
nhân tương lai sẽ được trả về đúng với không gian văn hóa của nó, không
vướng bận bởi một lý do, một điều kiện nào, mà tự nhiên như lúc họ đến xin
học.
Khác với di sản khác như Nhã nhạc, Ca trù (và kể cả Quan họ), thuộc dòng
cổ truyền chuyên nghiệp*, đã định hình một hệ thống bài bản, những quy
định nghiêm ngặt về tổ chức dàn nhạc cũng như kỹ thuật diễn tấu các nhạc
khí... thì hướng đào tạo tập trung theo hệ thống giáo dục hiện nay như đào
tạo Trung học, Đại học...còn khá thuận tiện. Cồng chiêng hoàn toàn thuộc
dòng cổ truyền dân gian, lại là âm nhạc của các dân tộc thiểu số vùng cao,
còn mang nhiều yếu tố tự nhiên, thô phác và nhất là gắn bó rất chặt chẽ
với lễ hội, gắn bó với các loại hình dân gian khác như đặc tính nguyên hợp
vốn có của nó. Vì vậy, việc xây dựng chương trình giảng dạy theo hệ thống
giáo dục là khó và chưa thể thực hiện được, kể cả vấn đề đầu vào, đầu
ra...
Học viện âm nhạc Huế có khoa Âm nhạc di sản, nhưng không thể tuyến sinh và
đào tạo được như Nhã nhạc, Ca đàn Huế... mà chỉ nên tổ chức đào tạo theo
Dự án bảo tồn, là đào tạo tại chổ. Ngoài kinh phí đặc biệt cho giảng viên
(là các nghệ nhân), lại phải có chính sách trả kinh phí học cho học viên,
vì đầu ra của họ không phải là về các đoàn Nghệ thuật, các cơ quan nhà
nước... mà về lại với không gian của cồng chiêng. Chương trình học ngoài
các dàn chiêng, bài chiêng là những kiến thức về các hội lễ truyền thống
của chính họ, của từng tộc người ở Tây Nguyên.
Kết
Việt Nam ngày càng có thêm nhiều di sản phi vật thể được UNESCO công nhận,
mới đây thôi đã thêm Quan họ và Ca trù. Nên chăng Bộ VHTT và DL, Bộ GD&ĐT
hiệp thương để có một đặc chế, đặc lệ trong việc đào tạo lực lượng kế thừa
cho những di sản ấy để bảo tồn, gìn giữ... như ý kiến Giáo sư Tô Ngọc
Thanh bàn về việc đào tạo “nghệ nhân” thay cho “cử nhân” trong Hội thảo
Đào tạo âm nhạc di sản khu vực miền Trung – Tây Nguyên tại Học viện âm
nhạc Huế ngày 30 tháng 10 vừa qua.
Bùi Ngọc Phúc (Vĩnh Phúc)