Những bài cùng tác giả
Có thể nói hát Ả
đào (hay Ca Trù) là một nét son trong truyền thống sinh hoạt nghệ thuật âm
nhạc chuyên nghiệp cổ truyền của người Việt. Không quá đáng nếu cho rằng:
hát Ả đào, suốt một chiều dài lịch sử, bằng một sức sống mãnh liệt đã cô đúc
và tiềm ẩn trong nó những tín hiệu đặc trưng độc sáng của văn hóa dân tộc.
Một thể loại mà trong tiến trình phát triển đã thích ứng, hòa nhập với đủ
mọi thiết chế văn hóa của xã hội Việt Nam: vừa mang tính chuyên nghiệp cao
trong cung vua phủ chúa (hát cửa quyền); vừa mang đậm yêú tố
dân gian trong tín ngưỡng thờ thần hoàng ở hàng xã hàng huyện (hát cửa
đình) và kể cả giai đoạn "bán chuyên" như ở môi trường hát nhà tơ,
hát cô đầu, quan viên... Đặc biệt, Ả đào không phải chỉ là một hình thức
sinh hoạt nghệ thuật dành riêng cho một tầng lớp nào mà có thời nó đã trở
thành một sinh hoạt phổ biến trong công chúng, như học giả Nguyễn Đôn Phục
trong Khảo luận về cuộc hát ả đào đã cho biết: "
hát ả đào chỉ Bắc kỳ ta là thịnh nhất, không tỉnh nào không có, không
huyện nào không có. Trong một huyện thường hai ba làng có ả đào, mà Trung kỳ
thời chỉ tự Nghệ, Tĩnh trở ra là có cuộc hát ả đào mà thôi".
Chuyển biến theo
lịch sử thăng trầm của dân tộc, đến đầu thế kỷ XX hát Ả đào bước vào giai
đoạn suy thoái. Sự suy thoái này hoàn toàn không do bản thân thể loại Ả
đào mà đây chính là sự suy thoái của xã hội thời bấy giờ. Phạm Quỳnh
trong bài diễn thuyết Văn chương trong lối hát Ả đào [1] năm
1923 cũng từng phê phán: "...Há phải lỗi tại lối hát ả đào sao ? Hay là
chính lỗi tại các quan viên ngày nay không có cái phẩm cách, cái chí thú như
quan viên đời xưa, mà để cho một lối chơi rất phong nhã, rất thanh tao biến
thành một cuộc dâm bôn, một bàn cớt nhả ? ". Vấn đề này từ năm 1919 học
giả Đông Châu cũng đã luận bàn: "phải hiểu thấu văn chương, thời mới sành
cung bậc, có sành cung bậc thời mới đánh lọt được tiếng chầu...còn như lả
lơi trên chiếu rượu, chớt nhả ngón nhân tình, không phải là cách chơi phong
nhã của người quân tử vậy."[1]
Hát Ả đào lại phải thích ứng, sự việc từ "một nghệ thuật" trở
thành "một kỹ nghệ" (như cách gọi của Đỗ Bằng Đoàn), thì một lần nữa
chứng tỏ sự nổi trội của yếu tố nghệ thuật Ả đào ; một lần nữa chứng tỏ sức
mạnh hội nhập, thích nghi và lan tỏa của văn hóa truyền thống. Một số loại
hình nghệ thuật khác như múa, sân khấu... ít nhiều, đậm nhạt đều mang vết
tích nghệ thuật của ca trù, của Ả đào. Đôi lúc, chẳng hạn trong lĩnh vực sân
khấu, "đủ để nhìn nhận như một trong những thành phần cơ bản đã
hình thành nên nghệ thuật tuồng " . Sức mạnh này là gì nếu không phải là
bản sắc dân tộc được bồi đắp cho hát Ả đào qua hàng thế kỷ ? Xã hội suy
thoái, văn hóa phương Tây với đầy đủ tính thực dụng của nó đang ngày càng
chiếm lĩnh đời sống tinh thần công chúng các vùng đô thị thời bấy giờ, tại
sao một thể loại nghệ thuật cổ truyền lại phát triển chưa từng thấy (dù là
phát triển theo chiều hướng được gọi là suy đồi về sau) như một hiện tượng
cạnh tranh với văn hóa ngoại lai ?
Lịch sử một thời
đã khắt khe và không công bằng khi cách ly hát Ả đào với truyền thống âm
nhạc cổ truyền; đã "bỏ rơi" một một sản phẩm tinh thần mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc lúc nó đang sức cùng lực kiệt. Mấy mươi năm sau tìm lại, được
chăng cũng chỉ là những mảnh vụn đã rơi vãi theo thời gian; có chăng cũng
chỉ là âm ba vọng lại từ trong sâu thẳm ký ức của các "ả đào già" lìa xa
phách-nhịp đã ngót nửa thế kỷ nay. Cố nhiên đấy chỉ là một khía cạnh về
hát Ả đào trong tiến trình phát sinh phát triển của một loại thể nghệ thuật
cổ truyền.

Ca Trù phường Thái Hà (Hà Nội) hiện nay
Nghiên cứu phê
bình về hát Ả đào trên các tạp chí xuất hiện tương đối sớm và nhiều hơn hẳn
so với các thể loại khác. Tạp chí Nam Phong năm 1923 với bài của Phạm Quỳnh
(đã dẫn) chủ yếu là luận cái giá trị văn chương trong thể Hát nói.
Tuy vậy trong phần đầu ông cũng đã có những nhận xét, bình luận về nguồn
gốc, âm luật và các lối hát. Vào giai đoạn này, điều đáng nói nhất là việc
ông đã sớm phê phán một số người cố áp đặt, gán ghép cái âm luật của Trung
Hoa vào hát Ả đào: "... cố đem cái trù phạn cũ rích của sách tàu mà ghép
vào các thanh âm của ta, như cung huỳnh là thuộc Cung, hát
trai là thuộc Thương, cung bắc là thuộc Giốc,
cung nam là thuộc Chủy, hát gái là thuộc Vũ ; mà
Cung là thuộc Thổ, thương là thuộc Kim, Giốc
là thuộc Mộc, Thủy là thuộc Hỏa, Vu là thuộc
Thủy ; thật là phiền toái và vô nghĩa lý ". Cái điều mà hơn nửa thế
kỷ sau vẫn có những nhà nghiên cứu cứ xem là mới và đã áp dụng vào việc phân
tích âm nhạc cổ truyền dân tộc. Ngoài ra trong bài diễn thuyết Phạm Quỳnh
còn có những nhận xét liên quan đến âm nhạc. Chẳng hạn: " Hát ả-đào có
nhiều lối lắm, khác nhau ở lời văn ít, khác nhau ở giọng hát nhiều...- lối
dịp ba cung bắc, trong khúc hát có ba chổ đổi điệu, chen cung nam
cung bắc rồi chuyển sang cung pha ".
Khảo luận
về cuộc hát Ả đào
của Nguyễn Đôn Phục [2] là một khảo cứu đầy đặn về một "xã hội Ả đào" trước
giai đoạn suy thoái, bế tắc. Có thể nói rằng qua mô tả nề nếp sinh hoạt, từ
tổ chức giáo phường, hát đình, hát đám, hát thi, tác giả bài khảo cứu hầu
như đã nhấn mạnh và đề cao kỷ cương, phẩm hạnh của giới ca kỹ nước nhà. Ở
đây không gợn lên chút nào sự suy đồi, băng hoại về đạo đức của đội ngũ đào
nương: " truy nguyên lại cái quy tắc trong nhạc tịch, và cái phong hóa
trong giáo phường, thực cũng đáng bảo thủ, mà cũng đáng khen thay ! ...Cũng
có người nói bọn ca kỹ nước Nam ta là kỹ trung chi lương, nói thế
cũng khí quá đáng, nhưng tưởng cũng không phải là quá đáng". Đặc biệt
ngoài việc liệt kê một cách đầy đủ danh mục các cách hát, điệu hát rất mực
phong phú của hát Ả đào, ông còn đi sâu vào từng lối hát, lối gõ phách, lối
chầu, lối đàn một cách cặn kẻ, cụ thể. Chẳng hạn, đàn cũng có lối đàn
khuôn là lối đàn được gọi là giáo phường đệ nhất bộ, và lối đàn
hàng hoa " kém bề khuôn phép, chỉ có ngón đàn tài hoa, thêm
thắt ly kỳ, nghe thì cũng thấy sướng tai nhưng cô đào khó gõ phách, quan
viên khó đánh trống". Thì đây, tác giả đã nói đến tính chất ngẫu hứng
tòng theo giai điệu như một đặc trưng tấu đàn và đệm hát trong truyền thống
cổ truyền chuyên nghiệp mà sau này vẫn thấy ở Ca Huế và ca nhạc tài tử. Mặc
dù các vấn đề chưa được trình bày một cách có hệ thống, có phần tản mạn và
hẳn là không phải khảo cứu âm nhạc nhưng những nhận xét và thông tin trong
khảo luận sẽ có giá trị cho những nghiên cứu hát Ả đào về sau.
Nguyễn Xuân Khoát
thì đi sâu vào chuyên môn hơn với bài Âm nhạc lối hát Ả đào
[3]. Bài đăng năm 1942 trên báo Thanh Nghị, chỉ sưu tầm được mục đàn Đáy
và trống Chầu. Gọi là đi sâu vào chuyên môn nhưng thực ra chỉ nêu sơ
lược về cây đàn Đáy và lối nhấn nhá đặc trưng của loại đàn này. Về trống
Chầu cũng chỉ nói qua về ý nghĩa, công dụng và vai trò người cầm chầu. Tuy
rằng có một vài dẫn dụ lý thuyết âm nhạc phương Tây sơ đẳng diễn đạt bằng
tiếng Việt rất tối nghĩa lại không đúng với bản chất âm nhạc Ả đào như : "đoạn
này điệu đàn đều lấy ở một hiệp âm vị thành cung (accord parfait mineur) -
Một hiệp âm sầu não, buồn rầu - nhưng cung (intervalle) vị thành tam cấp
(tierce mineur) và tiếng đứng cách âm chính không đầy ba bậc đã dùng đến rất
ít (...) nên khúc đàn này không buồn ". Nghiên cứu phê bình âm nhạc cổ
truyền thời bấy giờ (1942) mà dẫn ra được một trường hợp na ná, có dây mơ rễ
má với căn bản nhạc lý Âu Tây mới du nhập, thì cũng là đã "học thuật" lắm
rồi. Những năm về sau ( Đôi điều tâm đắc về ca
trù -1973 [9] ) cách phân tích, nhận xét của ông khác đi nhiều : "cái
mềm mại và cái nhuần nhị của lời hát được những tiếng phách khô giòn, thanh
khiết nâng lên, trong khi đó tiếng đàn đáy vừa nhuần nhị lại vừa rắn rỏi,
gắn hai cái lại, còn những tiếng chát, tiếng tom mà người cầm chầu đã phải
tập thế nào để cho khỏe được, cho tròn được, cho hào hứng được, để tô điểm
cho bức tranh âm thanh này khởi sắc lên một cách thần tình". Trong bài
báo Cái đẹp của lối hát ca trù [10] năm 1986, nhạc sĩ Nguyễn
Xuân Khoát thừa nhận ca trù có nguồn gốc dân gian sau đó mới du nhập vào hệ
nhã nhạc xướng hát ở cung đình và rồi trở lại với lối chơi thanh cao trong
gia đình. Đã có những nhận xét về âm nhạc sâu sắc hơn : " Ca trù ngoài
giọng hát, có thêm cổ phách, cây đàn đáy và chiếc trống chầu ; trong ca trù
những thành tố này đã được lựa chọn đến mức không thể thay đổi một âm sắc mà
không ảnh hưởng đến tính chất của lề lối". Ông cũng phản bác việc viết
lời mới cho ca trù, và cho là cái luận điển bình cũ rượu mới cho đến
hôm nay là phi khoa học, phi nghệ thuật, phi lô-gich, không thể dung
tục áp dụng được. v.v...
Hát Ả đào
[4] của Gs. Trần Văn khê được công bố năm 1960 là một khảo cứu tương đối
khoa học hơn so với những khảo cứu về hát Ả đào trước đó. Các vấn đề
Nguồn gốc, Tổ chức giáo phường, Âm nhạc trong ả đào
được tra cứu ở nhiều nguồn tư liệu và trình bày, diễn giải một cách hệ
thống, súc tích. Về nguồn gốc, như trong nhiều khảo cứu của Hoàng Yến, Phạm
Quỳnh, Nguyễn Đôn Phục, Trần Văn Khê cũng "tạm cho là xuất phát tại vùng
Thanh-Nghệ-Tĩnh muộn nhất là vào đầu thế kỷ XV". (Chúng tôi có lưu ý một
chi tiết trong bài giới thiệu vốn văn nghệ dân gian các dân tộc
miền núi Nghệ Tĩnh của Hoàng Thọ nói đến việc dân tộc Thổ sử dụng
đàn Đáy trong hát nhà tơ, liệu có liên quan gì đến vấn đề này
chăng ?). Trong phần Lạm bình của bài Tồn cổ lục[2]
đăng trên Nam Phong năm 1919, tác giả Đông Châu cũng cho rằng: "Lối hát
ả đào khởi ra tự trong Thanh Hóa, mà thịnh hành ở ngoài Bắc kỳ ta".
Gs. Trần Văn Khê cho biết vào thế kỷ XVII hát Ả đào rất thịnh và nghề hát Ả
đào là một nghề cao quý vì các đào nương chỉ sống với nghề hát thôi. Phần Âm
nhạc trong Ả đào, mục Nhạc khí, Trần Văn Khê dẫn theo Vũ trung tùy bút
của Phạm Đình Hổ nói là ngày xưa phụ họa cho cuộc hát Ả đào phải có cả một
dàn nhạc gồm 7 nhạc cụ. Ông mô tả khá kĩ lưỡng về cây đàn Đáy, một loại đàn
chỉ sử dụng trong hát Ả đào. Mục nói về các điệu hát, lối hát chủ yếu dẫn
theo các nhận xét bình luận trong khảo cứu của Nguyễn Đôn Phục, Phạm Quỳnh.
Mục các điệu múa cũng là những tư liệu bổ ích cho những khảo cứu toàn diện
về hát Ả đào cũng như mối liên hệ của chúng với các điệu múa cung đình triều
Nguyễn.
Đỗ Bằng Đoàn
trong bài khảo cứu về Quá trình tiến hóa của ca trù và ảnh hưởng của
ca trù đối với văn hóa dân tộc [5] đã hệ thống hóa quá trình phát
triển của ca trù qua sự đúc kết rất tổng quát nhưng cô đọng và hình ảnh :
Phát triển về bề rộng gồm 4 giai đoạn: cung vua, đền thần, dinh quan và
tư gia ; quá trình tiến hóa của nội dung cũng qua 3 giai đoạn: nhạc,
thơ và sắc. Ông đã luận giải các vấn đề trên cũng rất gọn gàng và súc
tích: "Từ cung cấm ra đến dân gian, qua đền thần và
dinh quan ca trù đã phát triển về bề rộng theo đúng hệ thống giai
tầng của xã hội Việt Nam cũ...Từ nhạc, qua thơ đến sắc,
nội dung ca trù đã khai thác tất cả những khía cạnh có thể có của một ngành
nghệ thuật". Trong việc ảnh hưởng của ca trù đối với văn hóa dân tộc,
theo ông: ca trù đã cảm hóa con người, cảm hóa xã hội, "nhưng quan trọng
hơn hết là ảnh hưởng của ca trù đối với văn chương quốc âm...đã hiến cho
chúng ta một thể thơ đặc biệt Việt Nam là hát nói". Như thế qua sự phân
tích cả chiêu sâu bề rộng tác giả đã tìm được cho quá trình của hát Ả đào
một chu kỳ tiến hóa tron vẹn. Tuy vậy, việc tác giả cho là Ca trù bắt nguồn
từ ban nữ nhạc trong cung vua, và từ ban nữ nhạc đến cô đầu
ngày nay ca trù đã có non một nghìn năm lịch sử, thì cũng chỉ là sự suy luận
không có căn cứ, dẫn chứng nên thiếu thuyết phục. Nhưng cái tồn nghi quan
trọng nhất chưa được giải quyết vẫn là: Ả đào từ dân gian vào cung cấm hay
từ cung cấm ra với dân gian ?
Trong một khảo
cứu dân tộc học : Vài nét về sinh hoạt của hát Ả đào trong truyền
thống văn hóa Việt Nam [6] Lê Văn Hảo đã đề cập đến các vấn đề lớn
như địa vị Ả đào trong lịch sử xã hội Việt Nam qua các giai đoạn từ thế kỷ
XV đến đầu thế kỷ XX; Nghệ thuật và sinh hoạt của Ả đào trong văn hóa và
phong tục Việt Nam. Ông nêu qua hai hình thức sinh hoạt của nghệ thuật này ở
giai đoạn biến chất và đặc biệt nhấn mạnh giai đoạn phát triển lành mạnh,
chính đáng của hát Ả đào trong truyền thống văn hóa dân gian. Nhấn mạnh
nguồn gốc dân gian của Ả đào, Lê Văn Hảo cho rằng: " Vai trò quan trọng
nhất của Ả đào tự khởi thủy đến nay, theo thiển ý, có lẽ là vai trò của một
nghệ thuật bình dân chủ ý tô điểm cho một khía cạnh của tôn giáo bình dân là
sự cúng tế Thành Hoàng, vị thần phù hộ làng mạc Việt Nam ". Có thể vì
thế mà ông quan tâm đến môi trường diễn xướng, các hình thái sinh hoạt quan
trọng mang tính phong tục gắn với truyền thống văn hóa cổ truyền dân tộc như
tục "thưởng giải ca chúc thần" ở làng Bát Tràng và Thị Cầu (Bắc
Ninh), tục "phẩy quạt rao, lấy tiền thưởng ả đào" ở làng Phù Lưu (Bắc
Ninh). Lại có những tục lạ kỳ liên quan đến phong tục tình ái của người Việt
cổ đại có sự tham dự của Ả đào, mà tác giả gọi là Hèm - một điển lễ
bí mật được tiến hành đêm cuối trong lễ vào đám. Chẳng hạn điển lễ
giả làm thần bắt ả đào ở làng Đang Nhiểm (huyện Văn Giang) kỳ mục nhảy
vào ôm ả đào, con trai cũng nhảy vào ôm con gái; tục cho trai gái (kể cả ả
đào) tự do gần gũi nhau 3,4 phút trước bàn thờ thần trong đêm ca thờ thần ở
làng Khắc Niệm thượng (huyện Vũ Giàng).
Đọc quyển
Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề
[7] Lê Văn Hảo không dừng lại ở phạm vi một bài "điểm sách" thông thường mà
mở rộng thành một tiểu luận phê bình. Ông đã tóm lược, bình luận và nêu bật
được những giá trị của quyển sách đối với lịch sử văn hóa âm nhạc Việt Nam.
Đồng thời chỉ một số hạn chế, chẳng hạn như vấn đề nguồn gốc và thời gian ra
đời của ca trù. Ông "chưa thấy sử liệu nào cho rằng Ca trù từ trong cung
điện truyền bá ra đến cửa đình, cửa đền" và đã có nhận xét hay liên quan
đến tên gọi Ca trù - Ả đào: " tôi nhận thấy danh từ dùng để gọi chung tất
cả các lối Hát Ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát nhà tơ v.v...là danh
từ Ca trù (hát thẻ) có lẽ là danh từ cũ nhất, nguyên nghĩa chỉ một
tập quán văn hóa dân gian và minh chứng được phần nào nguồn gốc dân gian của
Hát Ả đào". v.v...
Hát Ả đào
của Nguyễn Duy Diễn [8] không phải là một nghiên cứu phê bình xuất sắc về
hát Ả đào nhưng những điều ông nêu ra trong phần đầu bài viết cũng cần phải
xem xét. Như việc ông cho rằng trong các cuộc tế lễ ở đình miếu ngày xưa, để
đở mệt mỏi vì phải đứng lên quỳ xuống khấn vái dâng hương liên tục, các vị
kỳ mục nảy ra ý định xen nhạc vào trong khi hành lễ vừa được nhẹ nhàng cho
buổi lễ cũng vừa thích hợp với chủ trương Lễ Nhạc của Khổng
giáo. Vì những bài hát thờ đều mang tính chất trang nghiêm nên sau buổi
lễ các cụ thường đến nhà các thiếu nữ hát thờ để nghe những bài có màu sắc
tự do phóng khoáng hơn như Bồng mạc, Sa mạc, Gửi thư v.v...Lâu dần
thành nếp và Ả đào xuất hiện từ đó, là biến thể của hát cửa đình. Việc thời
điểm ra đời của Ả đào mà một số ý kiến cho là dưới thời Lê khi Nho giáo đã
đi tới chổ toàn thịnh, tác giả bài viết Nguyễn Duy Diễn đã đưa ra điều nghi
ngại : Tại sao trong thơ văn của các tác giả sáng tác qua các thế kỷ từ XV
đến đầu XVIII không có đoạn nào, câu nào xét ra có dính líu tới hát Ả đào.
Sau khi xem xét dấu vết trong thơ văn của các tác giả cuối thế kỷ XVIII đến
thế kỷ XIX ông giả định hát Ả đào "rất có thể có từ dưới thời Lê trung
hưng hoặc gần hơn nữa, dưới thời Lê mạt (hậu bán thế kỷ XVIII)".
Gs.Tú Ngọc đã nêu
ra những điểm tương đồng và khác biệt khá lý thú của hai loại hát trong khảo
cứu : Mối quan hệ giữa hát Xoan và hát Ca trù [11]. Qua so
sánh, đối chiếu trên các phương diện : lịch sử và truyền thuyết, phong tục
và lễ nghi tín ngưỡng, môi trường, trình thức diễn xướng và hệ thống, nội
dung bài bản, tác giả bài khảo cứu muốn làm sáng tỏ bản chất đặc trưng thể
loại chung của chúng. Qua những điểm tương đồng mà đặc biệt là hệ thống
chương trình nội dung tiết mục, đã cho thấy khởi nguyên của hai loại hát này
- hát Xoan và Ca trù - cũng đều là một hình thức dân ca nghi lễ, tế thần có
cội rễ sâu xa trong đời sống tinh thần của cư dân người Việt gắn với không
gian trình diễn là cửa đình, cửa đền. Đồng thời tác giả dẫn ra những
điểm khác biệt cơ bản dẫn đến "những khuynh hướng phát triển khác nhau
của một vài hình thức dân ca nghi lễ của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ".
Có một vấn đề về sự xuất hiện của các tên gọi (mà điều này lại liên quan mật
thiết với quá trình phát triển của thể loại Ca trù) theo như ông nói : "
thoạt kỳ thủy là hát cửa đình, sau đó là hát Ả đào (Ả đầu, Đào nương ca),
hát ca trù, hát nhà trò, hát nhà tơ, hát cô đầu" thì ngược lại với ý
kiến với một số người khác cho rằng tên gọi Ca trù là xưa nhất.
Bài viết Ca
trù qua một số truyền thuyết [13] của Trần Thị An chỉ xoáy sâu vào
nguồn gốc xuất xứ của Ca trù qua các truyền thuyết. Trong mục Truyền
thuyết về tổ Ca trù, tác giả bài viết nhấn mạnh đến cái nôi ca trù Cổ
Đạm và qua truyền thuyết về cây đàn đáy (chỉ có ở Cổ Đạm) để giải quyết vấn
đề: Có thể ca trù có từ đời Lý nhưng cuối đời Lê mới xuất hiện tổ ca trù.
Tác giả cũng lưu ý về mối liên quan giữa ca trù và cái nôi dân ca Nghệ Tĩnh:
" Đó là việc dùng "hơi trong" của ca trù với âm "ư" làm nền và tiếng đưa
hơi "ư, hư, ni, nị" tạo giọng trầm trong hát Dặm Nghệ Tĩnh. Ý nghĩ về việc
hát ca trù và hát dặm có chung một quê mẹ văn hóa là đáng suy nghĩ.
Theo Phạm Khương
trong bài viết Ca nhạc dân gian Vĩnh Phu
[3]
thì ở vùng đất tổ còn có "Hát Nhà tơ một lối hát riêng mà sau này được
gọi là lối hát Ả đào". Ông cho biết trước đây ở các huyện của tỉnh Vĩnh
Phú có ít nhất là 15 phường hát thường hát suốt ba tháng xuân hết đình này
đến đình khác nhưng không cho biết các phường Nhà tơ này tồn tại trong thời
gian nào. Trong đó "phường Chế Nhuệ (Phú Thọ) là "tổ" của hát Nhà tơ hàng
năm vào tháng giêng các phường trong tỉnh đều về Chế Nhuệ mở hội hàng phủ để
tế "tổ" rất vui".
Từ ca trù
đến hát bội [14],
trong phần sơ lược về ca trù tác giả Lê Ngọc Cầu tiếp cận tư liệu lịch sử
với góc nhìn rộng hơn, không phải đi tìm dấu vết một tên gọi ả đào
hay ca trù mà Ca trù chính là toàn bộ phong tục múa - hát của
người Việt và ông thấy rằng, "con hát đã thành chuyên nghiệp hẳn hoi ít
ra là từ thế kỷ V. Qua thời Đinh, thời Lý, khoảng thế kỷ X về sau thì nghề
hát múa của ta đã thịnh hành lắm rồi...Với các cứ liệu đó, chúng ta có cơ sở
để nói rằng, hát cửa đình và sân chầu bằng nghệ thuật ca trù đã ra đời rất
sớm lại được phổ biến rộng khắp tờ dân gian vào cung phủ, đi vào sinh hoạt
của nhân dân ta để trở thành một phong tục từ ngàn xưa để lại". Từ quan
điểm đó tác giả đã phân tích, dẫn chứng một cách thuyết phục về mối quan hệ
gắn bó giữa ca trù và sân khấu, ca trù "được nhìn nhận như một trong
những thành phần cơ bản đã hình thành nên nghệ thuật tuồng".
Trong vấn đề bảo
tồn và phát huy vốn cổ Ca trù, một bài báo nhỏ - Mừng ít, lo nhiều
[15] của B.D nhận xét về cuộc Liên hoan ca trù mở rộng lần thứ nhất tháng 12
năm 2000. Khi đề cập vấn đề nhiều tỉnh có vùng ca trù cổ nhưng không tham
gia liên hoan, tác giả cho rằng nguyên nhân do không có sự quan tâm đúng của
ngành văn hóa. Thậm chí một số tỉnh không còn biết ca trù tỉnh nhà nằm ở đâu
và sống chết thế nào. Nhiều tỉnh đã không cử các nghệ nhân ca trù tham dự
Liên hoan mà lại cử một đoàn văn công tỉnh đã nhiều năm chuyên đầu tư vào
việc sáng tác các bài ca trù mới. Việc cải biên tùy
tiện ca trù trong một số đoàn ca trù biểu hiện trong Liên hoan đã trở thành
một xu hướng đáng lo ngại cho nghệ thuật ca trù đang như một cô gái ốm, vấn
đề bây giờ không phải là vực dậy để mặc cho cô quần áo đẹp mà vực dậy là để
phục thuốc thang. Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn trong bài Cần khẳng định
ca trù là nhạc dân gian của Hà Nội
[4]
sau khi phân tích sự biến thái phát triển của Ca trù từ dân gian vào cung
đình và đã sống gần trọn nghìn năm trên đất Thăng Long, tác giả đã phê phán
thái độ hững hờ của Hà Nội đối với đứa con của mình : " Vậy có thể nói Ca
Trù là đứa con xinh duyên, tài hoa mà chỉ có người mẹ Hà Nội mới đủ điều
kiện để sinh ra nó. Và người mẹ ấy vẫn nuôi nấng thương yêu, nhưng không
hiểu sao lại không dám nhận là con mình, nên có khi nó đã bị ghẻ lạnh, sống
vất vưởng".
TÀI LIỆU DẪN
[1] Phạm Quỳnh. Văn chương trong
lối hát Ả Đào
Nam phong số 69/1923
[2] Nguyễn Đôn Phục. Khảo luận
về cuộc hát Ả Đào
Nam phong số 70 tháng
4/1923.
[3] Nguyễn Xuân Khoát. Âm nhạc
lối hát Ả Đào
Thanh nghị số
14,17/1942.
[4] Trân Văn Khê. Hát Ả
Đào
Bách khoa số 81, 82,
83/1960.
[5] Đỗ Bằng Đoàn. Quá trình
tiến hóa của Ca trù và ảnh hưởng
của Ca trù đối với nền văn
hóa dân tộc.
Bách khoa số 132/1962.
[6] Lê Văn Hảo. Vài nét về sinh
hoạt của hát Ả Đào trong truyền
thống văn hóa Việt Nam
Tạp chí Đai học số 5
/1962.
[7] Lê Văn Hảo. Đọc quyển Việt
Nam Ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề. Đại học số
32/1963.
[8] Nguyễn Duy Diễn. Hát Ả Đào.
Gió Mới bộ 6 số 5/1963.
[9] Hoài Anh. Đôi điều tâm đắc
về Ca trù. Văn hóa Nghệ thuật số 26/1973.
[10] Nguyễn Xuân Khoát. Cái đẹp
của lối hát Ca trù Văn nghệ số 23 (1179) 7-6-1986.
[11] Tú Ngọc. Mối quan hệ giữa
hát Xoan và hát Ca trù. Văn hóa Nghệ thuật số 9/1997.
[12] Giang Thu. Nghệ thuật Ca
trù ở Hải Phòng. Tạp chí Cửa Biển số 33/1997.
[13] Trần Thị An. Ca trù qua một
số truyền thuyết. Tạp chí Sông Hương số 125 7/1999.
[14] Lê Ngọc Cầu. Từ Ca trù đến
hát Bội. Nghiên cứu Nghệ thuật số 2/1983
[15] Đ.D. Mừng ít lo nhiều.
Thể thao Văn hóa số 99 12-12-2000.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Vĩnh Phúc
|