Giới thiệu, mô tả nhạc cụ dân tộc dân gian trên
thế giới hiện nay các nhà nghiên cứu thống nhất sử dụng phương pháp
hệ thống hoá và phân loại. Nguyên tắc thứ nhất của phương pháp này
là căn cứ vào nguồn vật chất chuyển động tạo ra âm thanh để chia các
chủng loại nhạc cụ thành bốn Họ : Họ dây (Cordophone), họ
hơi (Aerophone), họ màng rung (Membraphone) và họ tự
thân vang (Idiophone). Sau đó căn cứ vào phương pháp kích âm để
phân loại nhạc cụ trong cùng một họ thành các Chi : Chi gõ, chi vỗ,
chi đấm, chi dập, chi lắc, chi gảy, chi búng v.v…Trong bài
viết nhỏ này tôi chỉ xin giới thiệu một số nhạc cụ của người Cơtu, Tà
Ôi – Pakô ở Thừa Thiên - Huế được chúng tôi sưu tầm và xếp vào họ Hơi
chi lưỡi gà rung.
1. Areeng
(Cơ tu), Areng (Tà Ôi –Pakô)
Một loại sáo thổi dọc, được làm bằng một ống
nứa dài khoảng 34cm, có 2 lỗ bấm có lưỡi gà được tách ra từ vỏ ống nứa
đặt bên mép ống. Khi thổi phải ngậm kín phần có lưỡi gà trong miệng.
Đây là loại sáo thô sơ nhất, dễ kiếm dễ làm.
Mặc dù chỉ 2 lỗ bấm, nhưng các già làng thổi thành
thạo có thể thực hiện từ 4 đến 5 âm với những nét nhạc linh hoạt:

(Các dấu giáng có mũ là
cách kí âm của chúng tôi để chỉ âm đó thấp hơn âm cơ bản chưa đến nửa
cung bình quân trong âm nhạc cổ điển phương Tây)
Tiếng Areeng đục hơn tiếng sáo trúc của người Kinh.
Do vật liệu thô sơ, chế tác đơn giản nên âm thanh chưa hẳn ở cái sáo
nào cũng chuẩn. Cái Areeng chúng tôi khảo sát là do già làng Quỳnh
Hoàng (một nghệ nhân của người Tà Ôi, biết sử dụng thành thạo các loại
nhạc cụ) chế tác. Ông là người chế tác hầu hết các loại nhạc cụ cho
người Tà Ôi – Pakô, Cơ Tu ở A Lưới.
Sáo Areeng thường được trai gái Tà Ôi, Cơtu dùng để tỏ
tình trong những buổi đi sim. Có loại Areeng 2 lưỡi gà đặt ở 2
đầu ống dùng cho 2 người thổi, một nam và một nữ trong giai đoạn tìm
hiểu hoặc mến thương nhau. Loại Areèng này dài hơn khoảng 5cm có 3 lỗ
nhưng 2 người chỉ sử dụng 2 lỗ 2 đầu còn lỗ giữa để thoát hơi.
Trong tập sách Dư âm tình rừng,
nhạc sĩ Minh Phương có sưu tầm câu chuyện về sáo Areeng, đại ý như
sau: có chàng trai Tà Ôi vì nghèo không lấy được người mình yêu
thương, lòng buồn phiền như cây rừng thiếu nước. Thần hộ mệnh động
lòng thương bày cho 2 người làm chiếc sáo Areèng cùng thổi. Đêm đêm
qua vách nứa, chàng trai ngồi ngoài, cô gái trong buồng cùng thổi
chung một ống sáo Areèng như truyền tình cảm cho nhau, ban đầu họ thổi
rất nhỏ nhẹ, nhưng sau vì say sưa quên cả mọi người chung quanh, bố mẹ
cô gái cùng lắng nghe tiếng sáo Areèng và động lòng gọi chàng trai vào
nhà, chấp nhận cho đôi trai gái lấy nhau, khi nào làm ra của cải sẽ
làm đám cưới sau, từ đó sáo Areèng được mọi người xem là sáo hạnh
phúc, trong một lời hát cha chấp cũng có nhắc đến chuyện nầy:
Cám ơn cây sáo hạnh phúc
Cám ơn cây nứa bên hè
Đã cho chúng tôi thêm sức mạnh
Vượt qua trở ngại khó khăn...
2.
Tireel / Anam (Tà Ôi – Pakô)
Là sáo thổi dọc. Cấu tạo giống hệt cây sáo Areeng, vì
vậy, chính người Tà Ôi đôi khi cũng nhầm lẫn khi gọi tên giữa Areeng
và Tirieel.
Sáo Tireel gồm 2 chiếc. Chiếc dài có kích thước khoảng
40 - 42cm, đường kính to hơn sáo Areeng một tí. Gồm 3 lỗ bấm và một lỗ
thoát hơi, gọi là Ahel chiếc ngắn khoảng 21cm, cũng gồm 3 lỗ
bấm gọi là atotq. Chúng đều được thổi bằng lưỡi gà bằng nứa bên
mép ống như Areeng.

Tirell hay dùng để 2 người hòa tấu, thường là một
nam một nữ, như một tín hiệu để gọi nhau, tìm nhau, hẹn nhau... Sáo
Tireel ngắn (atotq) linh hoạt hơn, sáo Tireel dài (ahel) chỉ để phụ
họa, chơi các nốt trì tục, như nét nhạc sau đây:

3. Talee (Cơtu) Tale
(Tà Ôi) Alia (Pakô)
Là loại sáo thổi dọc như Areeng, Tireel, nhưng dài hơn
- khoảng 50 - 55cm và có gắn núm trái bầu khô làm loa sáo, làm cho
tiếng vang to và xa hơn. Talee có 4 lỗ bấm thực hiện được 5 âm không
có bán âm với nét nhạc sau đây:

4. Khên
Người Kinh gọi là khèn, người Tà Ôi, Cơ Tu
gọi là khên, một nhạc cụ phổ biến ở hầu hết các dân tộc thiểu
số Việt Nam. Khèn là nhạc cụ hơi, đa thanh, vì mỗi ống cho một âm
thanh riêng. Khèn của người Tà Ôi, Cơ Tu ảnh hưởng khèn Lào, gồm 14
ống nứa sắp xếp song song từng đôi một thành 7 hàng từ ngắn đến dài.
Đôi ống dài nhất là 60cm và cặp ngắn nhất là 35cm. Các ống nầy đều gắn
lưỡi gà và được xuyên qua bầu khèn, được làm bằng gỗ dẻo gọi là
apúc. Phần ống có gắn lưỡi gà đều được đặt trong apúc được bít kín
các khe bằng sáp ong ruồi. Lỗ thổi khoét ngay đầu bầu khèn, có thể
đồng thời vừa chơi giai điệu vừa thực hiện các chồng âm đệm theo, cũng
như âm trì tục kéo dài. Âm vực khá rộng, khèn Tà Ôi có âm vực từ g-a2
hình thành hàng âm không bán âm

Khèn chỉ được sử dụng trong vui chơi hội họp giao
duyên, không sử dụng trong nghi lễ cúng tế thần linh.
5.
Takkoi (Tà Ôi) Tang koi
(Pakô)
Parngong
(Cơ Tu, Tà Ôi)

Takkoi là tên gọi của
người Tà Ôi để chỉ một loại nhạc cụ làm từ sừng trâu, người Cơ Tu gọi
là parngong. Ở người Kinh loại nhạc cụ này gọi là Tù và,
người Bâhnar ở Tây nguyên gọi là Tơ nuốt, nhưng Tù và của người
Tà Ôi, Cơ Tu miệng thổi không phải ở đầu chóp sừng được cắt phẳng, mà
thổi bằng lưỡi gà bằng đồng đặt ở phần lõm của hình vòm cung, cách
chóp 10cm. Vì vậy khi thổi được đặt nằm ngang, phía lõm của hình vòm
cung hướng vào trong. Tiếng Tù và trầm, đục nhưng mạnh và có độ vang
xa.
Âm thanh cao hay thấp là do điều khiển luồng hơi
thổi mạnh hay nhẹ, nhưng thường chỉ thổi với một độ mạnh cho một âm
tương đương với nốt pha quãng 8 nhỏ với độ vang khá lớn. Trong dàn
nhạc, tù và chỉ sử dụng vài chỗ mở đầu, giữa và kết thúc với tính chất
ngẫu hứng tự do. Thường dùng nhiều trong các cuộc tế lễ như đâm trâu,
đón khách, tiễn khách v.v... Trong sinh hoạt hằng ngày, tù và là tín
hiệu để báo tin cho nhau khi săn được con nai, con heo và cũng là lời
kêu cứu khẩn cấp khi gặp nguy hiểm, tai nạn...
6. Karyok ayol ( Tà Ôi
– Pakô, Cơ Tu)

Giống như một cái Tù
và nhỏ vì được làm bằng sừng dê núi, chỉ dài khoảng 10 - 12cm, đường
kính ở góc sừng khoảng 2,5cm. Lưỡi gà đồng đặt cách chóp sừng, phía
trong hình vòng cung 3cm - đầu nhọn của sừng được cắt thủng. Khi thổi
có thể bịt cả 2 đầu hoặc không bịt để tạo ra âm khác. Màu âm của
Karyok ayol sáng và chói nhọn, đôi lúc the thé như tiếng của thú
rừng.
Thường hay được thổi trong lúc lên nương rẫy cho vui
chân, đỡ buồn và có tác dụng đuổi thú rừng phá hoại hoa màu. Nó cũng
là tín hiệu báo cho nhau giữa rừng xanh núi thẳm. Trong một số lời ca
của điệu hát Baboih và chachấp do nhạc sĩ Minh Phương sưu tầm, có bài
có đề cập đến 2 nhạc cụ nầy.
Anh ơi anh! Nhớ anh em chờ
Nghe tiếng Târ kòi thấy anh về đó
Thổi một tiếng dài, anh ở bờ suối
Thổi hai tiếng dài, anh ở nương ngô
Thổi ba tiếng dài anh ở đầu núi
Thôi thúc Târ kòi anh gọi em lên.
Em như con nai
Bị Krờ doóc a dôn săn đón
Chân em líu lại
Má em như có lửa nung
Mắt em nhìn qua kẻ lá
Tim em như ngọn lửa bừng bừng.
7. Tarqơơi took
Là một nhạc cụ đơn giản
Họ hơi, chi thổi chỉ thấy ở
người Cơ Tu. Tarqơơi toók được làm từ một đoạn ống tre dài
khoảng 25cm, đường kính khoảng 2cm. Một đầu ống tre có mắt kín, có đục
lỗ thổi ở mép ống, gần mắt, đầu kia rỗng được khoét, vạt vào thân ống
bằng ½ chiều dài có tác dụng để điều khiển âm thanh. Người diễn tấu
thổi trực tiếp vào lỗ thổi, tay trái nâng nhạc cụ, tay phải điều khiển
âm thanh. Sáo Tr’ơi toóc nghe rộn ràng, phấn chấn. Cũng như Karyok
ayol, Tarqơơi toók chỉ có một âm cố định phát ra trên một lỗ thổi, sự
điều khiển âm thanh ở tay phải chủ yếu là tạo âm thanh bắt chước tiếng
hót của một số loại chim rừng. Vì thế không phải là một nhạc cụ sở
trường diễn tấu giai điệu.
8. Nkoaiq/ nkrao
(Tà Ôi - Pakô)
Âng Kro (Cơ Tu)
Có thể gọi đây là đàn môi, rất phổ biến hầu hết
ở các tộc ít người ở Việt Nam
với nhiều tên gọi và chất liệu chế tác khác nhau.
Đàn môi người Tà Ôi, Cơ Tu làm bằng đồng,
hình chiếc lá có cả cuống lá, ở giữa được dát mỏng hơn so với chung
quanh và cắt rời thành một hình tam giác cân mà 2 cạnh bên tạo thành
một góc rất nhọn dưới 150, còn đáy dính vào thân đàn. Đầu
nhọn của đỉnh tam giác ấy được uốn cong ra ngoài dùng để búng. Khi
chơi đàn, người ta ngậm hờ vào môi dùng vòm họng làm hộp cộng hưởng và
ngón trỏ búng vào cái đỉnh tam giác được uốn cong ra ngoài, tay trái
giữ gốc đàn, là cái cuống lá.
Đàn môi được bảo quản cẩn thận trong một ống tre ngắn
có nút đậy. Cao độ không chuẩn xác vì ngón trỏ búng làm rung lưỡi gà
lúc mạnh lúc nhẹ, vòm miệng làm hộp cộng hưởng lại bị chi phối bằng
việc thay đổi khẩu hình nên âm thanh phát ra đôi lúc như tiếng ếch
nhái, khó định được cao độ.

Nkoaiq (ân quái) thường được dùng vào ban đêm, khi
người con trai đến bên vách nứa, chỗ cô gái ngủ để tỏ tình và hò hẹn
đi sim. Tiếng đàn thỏ thẻ vang lên như tiếng côn trùng trong
đêm không làm cả nhà thức giấc, nhưng chỉ cô gái là nghe được “tiếng
lòng” ấy, liền nhẹ nhàng theo tiếng đàn của người con trai đến bên bờ
suối vắng để tình tự...
Lời ca trong điệu hát Kơlâu Kơlênh của người Cơ Tu có
đề cập đến đàn môi làm bằng tre :
“ Em ơi em,
Anh làm chíêc Âng Kro.
Để đàn nói giùm anh.
Những điều không nói được.
Anh lên trên núi cao.
Chọn cây tre già nhất.
lấy đoạn tre tốt nhất.
Làm chiếc đàn khéo nhất.
lựa những lời hay nhất.
Để nói với em những lời chân thật nhất.
Thương em nhiều nhất.
Em ơi em, em có biết không?”
Chúng tôi phân vân chưa biết xếp nhạc cụ này vào họ
nào, vì thực chất, vòm miệng của người đàn chẳng qua chỉ là hộp cộng
hưởng như quả bầu mà thôi, còn lưỡi gà hình tam giác có chiều dài hơn
½ chiều dài của đàn, được búng bởi ngón tay người đàn để phát âm chứ
hoàn toàn không tác động bằng luồng hơi thổi nào, chức năng của vòm
miệng lại giống như kiểu chơi của đàn Abel, nên không thể khiên
cưỡng rằng nhạc cụ nào đưa lên môi đều là nhạc cụ thổi. Ý kiến của
GSTS Tô Ngọc Thanh trong tập sách Nhạc cụ dân tộc thiểu số Việt Nam,
được biết, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng vẫn chưa nhất trí với
nhau về việc xếp đàn Môi vào họ nhạc cụ nào, có người xếp vào họ
dây, người xếp vào họ hơi và có người xếp vào họ tự thân
vang.
Nhạc cụ của các tộc người thiểu số ở Thừa Thiên Huế
khá phong phú. Chúng tôi đã sưu tầm và phân loại gồm đầy đủ cả 4 họ
nhạc khí. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin giới thiệu các nhạc cụ
thuộc họ Hơi
Th.S Vĩnh Phúc
Trường Đại học Nghệ thuật Huế