Bên tai tôi tới giờ vẫn còn văng vẳng một câu hát,
đó là câu đầu trong bài Thét nhạc mở màn cho
Liên hoan Ca trù toàn quốc 2005 tại Hà Nội, cũng là
câu Dương Khuê mượn làm câu kết trong Đào Hồng
Đào Tuyết - bài Hát nói được chọn làm
tiết mục bắt buộc với tất cả các đào nương tham dự
Liên hoan. Vì thế trong hai ngày liền tại Văn Miếu
cổ kính đã vang lên không biết bao nhiêu lần qua các
giọng ca khác nhau cùng một câu hát: «Đàn ai...».
Hai ngày được sống trọn vẹn trong một bầu
không khí tưng bừng mà trang nghiêm, trong cảnh Hát
cửa đình theo phong cách xưa, có trống chiêng liên
hồi, trầm hương nghi ngút, có dâng lễ vật, múa bỏ
bộ, múa bát dật. Thật đẹp mắt được ngắm nhìn những
vũ nữ xiêm y lộng lẫy, thật êm tai được thưởng thức
những điệu hát cung đàn. Lời thơ hòa với tiếng nhạc,
giọng ca thêm đẹp thêm duyên nhờ cách ém hơi nhả
chữ, quyện trong tiếng đàn khi vê khi vẩy, khi bổng
khi trầm, lúc mau lúc chậm, cuốn theo nhịp khoan
nhịp dồn giòn giã của phách con phách cái, tiếng tom
chát vừa chấm câu vừa phê phán của trống chầu. Thật,
mà tôi cứ ngỡ như một giấc mơ!
Tôi sẽ không tường thuật chương trình mà chỉ muốn
ghi lại vài cảm nghĩ về cuộc Liên hoan đã để lại
nhiều ấn tượng trong tôi.
Trước hết, tôi muốn nêu những yếu tố căn
bản mà Ca trù có được, đủ điều kiện để làm hồ sơ đệ
trình Unesco xét duyệt vào danh sách những kiệt tác
di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại:
1) Có bề dầy của lịch sử và chiều
sâu của nghệ thuật.
2) Đã có lúc bị chìm trong quên lãng,
dù là một nghệ thuật cao siêu và độc đáo sanh ra từ
thuở xa xưa tại Việt Nam chớ không du nhập từ nước
ngoài.
3) Chánh quyền rất quan tâm đến việc giữ
gìn và phát huy nghệ thuật ca trù: Unesco sẽ
không tôn vinh một nghệ thuật đã không còn chỗ đứng
trong xã hội hiện nay. Trong Liên hoan này, Ca trù
được khẳng định là một «di sản phi vật thể quí báu
của dân tộc» và Bộ trưởng Bộ Văn hóa thông tin đã
«giao trách nhiệm cho Cục Nghệ thuật biểu diễn phối
hợp với Sở Văn hoá Thông tin Hà nội, Sở Văn hoá
Thông tin Hà Tĩnh tổ chức Liên hoan Ca trù toàn quốc
năm 2000» (phát biểu của Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông
tin Lê Tiến Thọ).
4) Nghệ thuật Ca trù được quần chúng yêu
mến : trong đợt Liên hoan này tại Khu di tích
Nguyễn Du ở Hà Tĩnh (26-27/3/05) và Văn Miếu - Quốc
Tử Giám ở Hà Nội (2-3/4/05) lúc nào cũng đầy nghẹt
người đến nghe hát, xem múa.
5) Được tuyên truyền trên các báo, Đài
phát thanh, Truyền hình: Liên hoan được đưa tin
đầy đủ lễ khai mạc, các buổi thi, lễ phát giải và lễ
bế mạc cho đông đảo quần chúng có thể theo dõi từ
xa.
6) Các nghệ sĩ, chuyên gia cũng thiết
tha với việc bảo tồn, phát huy nghệ thuật Ca trù :
Liên hoan đã hội tụ các nghệ nhân cao niên, các nghệ
sĩ trung niên và những mầm non, tất cả trên 70 diễn
viên từ 20 CLB Ca trù , cùng các nhà nghiên cứu, sử
gia, thi sĩ yên mến nghệ thuật Ca trù.
7) Được Quỹ Ford tài trợ: sau khi
xem xét và nhìn nhận giá trị đặc biệt của nghệ thuật
Ca trù, quỹ Ford đã tài trợ tổ chức Liên hoan.
Sự tài trợ này có giá trị như một cuộc sơ khảo của
Unesco.
Nhiều hình ảnh và âm thanh ghi trong Liên hoan sẽ là
những minh họa sống động cho phần giới thiệu nghệ
thuật Ca trù trong hồ sơ đệ trình Unesco.
Trên đây là những điều kiện cần để Ca trù có thể trở
thành một «ứng cử viên » được Unesco xem xét và đánh
giá.
Điều đáng mừng là Liên hoan Ca Trù toàn
quốc năm 2005 đã cho thấy cái đẹp của hình thức đi
đôi với chiều sâu của nghệ thuật.
Không những nghệ sĩ biểu diễn mặc quốc
phục, mà cả Ban giám khảo - từ chánh khảo PGS.TS Vũ
Nhật Thăng đến các ủy viên - đều rất đẹp trong chiếc
áo the, đầu chít khăn đen, còn các bà mặc áo dài
nhung đen, tóc bỏ đuôi gà. Vũ nữ cũng mặc xiêm y
theo truyền thống, áo năm thân, thắt lưng lụa màu,
tay cầm quạt cầm hoa, khi múa Cửa đình đi chân trần
theo đúng nghi lễ ở chốn trang nghiêm. Bàn chân của
phụ nữ Việt Nam, cũng như của phụ nữ nhiều nước châu
Á rất đẹp. Đài truyền hình Pháp có lần chỉ quay bàn
chân và bước đi của các thiếu nữ Philipin trong đoàn
Bayanihan sang châu Âu biểu diễn với lời giới
thiệu: «Mời quí vị xem bàn chân và dáng đi dẹp nhứt
thế giới ». Các vũ nữ Lào, Khmer,
Indonesia, Ấn Độ đều đi chân không. Ngắm bàn
chân của các cô gái Việt Nam khi đi tới đi lui, lúc
bước qua bước lại, tôi cứ nhớ đến chàng trai trong
câu hát Trống quân «để anh mua gạch Bát Tràng, xây
hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân», nhớ tới cô gái Huế
«nhón chân bước thuyền» đã làm cho cố Nhạc sĩ Lưu
Hữu Phước phải «tình mơ thương nhớ» trong bài
Hương giang dạ khúc.
Theo tôi, mặc quốc phục xưa đâu phải vì
muốn giống vua quan thời phong kiến, mà để cho
hình thức phù hợp với nội dung, nghệ thuật được toàn
diện từ ngoài đến trong. Người phương Tây uống
rượu champagne bằng ly thủy tinh hay pha lê, uống
bia dùng loại «chope», người Trung Quốc hay Việt Nam
thưởng thức trà trong chén nhỏ bằng đất nung, người
Nhựt Bổn nhắm sa kê trong chung sứ nhỏ. Cứ thử uống
rượu champagne trong cái ly giấy, uống bia trong một
chén đá, uống trà ngon trong cái tô con Rồng, nếm sa
kê trong chiếc ly chuyên dùng uống rượu đỏ, các bạn
sẽ thấy hương vị của rượu quí trà ngon mất đi rất
nhiều.
Vậy hãy thử nghe hai nhóm Ca trù, một nhóm không cần
hình thức cổ truyền: người hát mặc áo đầm, người đàn
đáy mặc quần bò, người cầm chầu mặc đồ Tây cổ thắt
nơ..., còn nhóm kia theo đúng truyền thống: đào
nương mặc áo the đen ánh lên sắc đỏ từ chiếc áo dài
bên trong, đầu vấn khăn nhung buông tóc đuôi gà,
người đàn đáy và cầm chầu mặc áo dài khăn đóng, các
bạn sẽ có cảm giác khác nhau lắm.
Tôi thấy các nghệ sĩ
châu Á đều mặc quốc phục khi biểu diễn nhạc truyền
thống. Nghệ sĩ đàn Gu qin (cổ cầm) Trung Quốc hiện
nay luôn mặc áo vạt dài. Còn các nhạc công Việt Nam,
phụ nữ thì mặc áo dài rất đẹp, nhưng nam giới trong
khi đánh đàn bầu đàn nhị thổi sáo lại mặc áo sơ mi
quần Tây, còn khoác thêm áo gilet màu theo kiểu Nga
hay dân tộc Tziganes, tôi cảm thấy chút gì đó chưa
ổn.
Trong Liên hoan này, riêng tôi đã có được bốn niềm
vui.
Cái vui nhứt là được gặp gỡ và trò chuyện với nhiều
bực lão thành trong truyền thống Ca trù như cụ Chu
Hà - nhà văn nhà thơ sáng tác nhiều bài Hát nói
trong đó có Xuân Rồng đã được cố nghệ nhân
Quách Thị Hồ trình bày trong đĩa hát của Unesco: «Đào
thắm, mai vàng chung kế hoạch năm năm». Tôi còn
giữ một bài cụ Chu Hà viết tặng tôi qua giọng ca của
cụ bà Quách Thị Hồ:
Trần ai bay bổng sơn khê
Hồn say nghệ thuật vì quê hương mình.
Nghệ nhân Ngô Trọng
Bình, thành viên Ban giám khảo, người thạo cách cầm
chầu và chuyên đàn đáy, đã tức hứng đặt một bài Mưỡu
và Hát nói Duyên nợ ca trù, rồi chép tay tặng
tôi ngay trong Liên hoan:
Ôm đàn từ thuở mười ba
Lời ca nhịp phách giao hoà tiếng tơ.
……………………………….
Tay phách kia chưa lặng tiếng im hơi
Thì đàn đáy tang tình còn góp mặt
Nắn phím tơ rung, âm giai dìu dặt
Cùng hoà chung mưỡu, nói, thiên thai
Ca trù nay đã tái lai..
Tôi rất vui có dịp gặp gỡ nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn
Xuân Diện (Viện Hán Nôm), tác giả cuốn sách Góp
phần tìm hiều lịch sử Ca trù.
Cái vui thứ nhì là được gặp những người nước ngoài
mê Ca trù. Giáo sư Hàn Quốc Chun In Pyong không biết
tiếng Việt mà vẫn theo dõi Liên hoan suốt hai ngày,
sau đó còn đến nghe tôi thuyết trình cả một ngày về
lịch sử, truyền thuyết và những nét đặc thù của Ca
trù tại Viện Âm nhạc. Ông ngạc nhiên vì Ca trù đem
lại cho ông cảm giác quen thuộc chứ không xa lạ. Tôi
trả lời rằng từ hơn 20 năm nay tôi đã để ý trong cấu
trúc thang âm Ca trù và cấu trúc thang âm điệu thức
Kye-myong-Jo trong dân ca và bộ môn Pansori của
Triều Tiên có điểm giống nhau. Điều này làm ông thú
vị vì được gợi đến một hướng nghiên cứu đối
chiếu trong ngôn ngữ âm nhạc.
Người thứ hai là ngài đại diện Quỹ Ford. Tại
Festival Huế năm ngoái, ông đã đến khán đài Ngọ Môn
chào tôi và nói bằng tiếng Việt: «Thầy không nhớ em
chớ em vẫn nhớ thầy. Em là Michael đã học 40 tiết
nhạc Việt Nam với thầy tại Đại học Honolulu năm
1988». Trong Liên hoan này ông ngồi ngay bên cạnh
tôi. Khi tôi ngỏ lời cám ơn Quỹ Ford đã tài trợ cho
chương trình «Đào tạo diễn viên ca trù trẻ» năm 2002
và nay lại tài trợ cho Liên hoan Ca trù toàn quốc,
ông mỉm cười: «Thật ra Quỹ Ford phải cám ơn thầy.
Nhờ bài giảng của thầy tại Đại học Honolulu mà em
say mê Ca trù từ năm 1988. Mãi đến gần đây em mới có
dịp thực hiện ý nguyện của mình là làm gì đó giúp
cho nghệ thuật Ca trù đừng bị chìm vào quên lãng».
Tôi xúc động không ngờ cậu sinh viên trẻ người Mỹ
học tôi từ 18 năm trước vẫn còn nhớ thầy, cũng không
ngờ bài giảng sơ lược của tôi về Ca trù tại Honolulu
lại có hiệu quả đến vậy.
Niềm vui thứ ba là tôi được mời phát biểu hai lần
tại Liên hoan, trước một cử tọa toàn cỡ chuyên gia
về ca trù. Chưa bao giờ phát biểu mà lòng tôi lo âu
như lần này, vậy nên tôi đã mở đầu: «Tôi là người
«ngoại đạo», sanh trưởng tại làng Vĩnh Kim, tỉnh
Tiền Giang, vùng lưu vực sông Cửu Long, trong một
gia đình bốn đời chuyên nhạc tài tử miền Nam, sống
tại nước ngoài trên 55 năm, chỉ bắt đầu học Ca trù
với các nghệ nhân Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc,
Đinh Khắc Ban, nhà thơ Trúc Hiền, học vội vàng mà
chưa bao giờ được thực nghiệm. Nhưng trước cử toạ
toàn người nước ngoài, tại các trường Đại học, tôi
mạnh dạn nói về Ca trù, vì thính giả không ai biết
gì về Ca trù cả và vốn hiểu biết hạn chế của tôi
cũng đủ để thuyết phục họ. Nay phải nói về những nét
độc đáo trong nghệ thuật Ca trù trước một cử toạ
nhiều chuyên gia như hôm nay, tôi có cảm giác mình
đang «đánh trống trước cửa nhà sấm, múa búa trước
cửa Lỗ Bang»! Nếu tôi có nói đều chi chưa đúng xin
quí vị thẳng thắn chỉnh những sai lầm của tôi. Tôi
rất vui và sẵn sàng lĩnh giáo». Thật may, sau buổi
họp tôi được vài vị cho rằng những điều tôi nói
không sai !
Niềm vui thứ tư của tôi là trong khung cảnh tráng lệ
của Văn Miếu, cháu Thúy Hoà đã hát tặng tôi bài Mưỡu
và Hát nói Nghĩ thay viết thế của Nguyễn Thị
Đoan - một người bạn quí của tôi nay đà quá vãng -
đã viết «trêu» tôi từ năm 1995:
(Mưỡu) Thế gian nghĩ cũng nực cười
Mình chưa muốn nói có người nói thay !
Sự đời đến thật là hay,
Mình chưa kịp viết, viết thay cho mình ;
(Nói) Thơ một túi nhàn du miền châu Úc
Đàn Bá Nha dạo khúc tính tình tang
Ngắm núi sông, đùa với gió trăng
Thiếu tri kỷ, tri âm vui chẳng vẹn.
……………………………………..
...Chung tình ấy, người xưa âu cũng thế
Say men tình đâu phải chỉ riêng Ta
Ai ơi ! Có thấu chăng là…
Nhớ lại năm 1976, khi ghi âm tiếng hát của
cụ Quách Thị Hồ, tiếng đàn đáy của ông Đinh Khắc
Ban, tiếng trống chầu của cụ Trúc Hiền để làm đĩa
hát cho Unesco, lòng tôi se thắt vì nghĩ rằng mình
chỉ ghi lại chút hương thừa của những đóa hoa sắp
tàn trên một cành cây khô cằn cỗi.
Trở lại Hà nội năm nay không ngờ tôi được
thấy nghệ thuật Ca trù như đoá hoa tưởng sắp tàn mà
lại thắm tươi, cành cây xưa cằn cỗi nay chứa đầy
nhựa sống. Trên cành cây có bao nụ non, có nụ đã nở
thành hoa và nhiều nụ sắp nở thành hoa. Nói như
Hoàng Cầm :
Được một cơn mưa mới
Ươm mầm non sắp thui.
Và câu hát xưa tưởng chừng chìm nghỉm trong âm thanh
cuộc sống hiện đại, nay lại được các ca nương trẻ
hát lên, vang vọng mãi trong tai người mộ điệu Ca
trù :
Đàn ai một tiếng dương tranh...
|