Những bài cùng tác giả
Video Ca Trù
Ca trù (Trần Văn Khê)
1/ Ca trù
2/ Nhận xét của Gs Trần Văn Khê về luận án
1/ Ca trù
Ca trù chỉ một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi ca trù cũng đã được
tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán Nôm chữ “trù” trong “ca trù” 歌
籌đều dùng chữ “trù” 籌. Theo đó Trù籌là thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số
tiền (hoặc quy định ngầm với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền),
dùng để thưởng cho đào và kép ngay trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng
bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào
và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc thưởng này chính là vị quan
viên (khách nghe hát), sử dụng trống chầu (gọi là cầm chầu). Đó là nguồn gốc
của tên gọi ca trù; cũng là thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy
nhiên ca trù, với ý nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đã nói ở
trên thì chỉ có ở hát ca trù ở đình đền, tức là hát thờ.
Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn về cách
thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học ca trù làm
nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói. Đây là một bộ môn nghệ
thuật ca nhạc “thính phòng” được hình thành trên nền tảng âm nhạc dân gian
Bắc bộ, người nghe cũng tham gia vào cuộc hát bằng việc cầm chầu. Ca trù còn
có những cái tên khác như: hát cửa đình, hát nhà trò (hát ở đình, đền,
miếu), hát cửa quyền (trong cung phủ), hát nhà tơ (hát ở dinh quan, tư gia
các gia đình quyền quý), hát ả đào, hát cô đầu (hát ở các ca quán)...
Ca trù gắn liền với nghi thức tế thần ở các đình làng, ngoài những điệu hát
còn có các nghi lễ với vũ điệu và cả các cách thi tuyển tại đình làng trong
dân gian nên các lề lối biểu diễn ca trù được gọi là thể cách. Thể cách ca
trù vừa bao gồm làn điệu, vừa bao gồm các hình thức diễn xướng khác như múa,
biểu diễn kỹ thuật nghề (đàn, trống). Trong 49 tài liệu Hán Nôm có liên quan
đến ca trù được khảo sát trong có 8 bản mang tên Ca trù thể cách. Các học
giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong sách Việt Nam ca trù biên khảo cũng
gọi là các thể ca trù.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ thuât lâu đời,
độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt Nam. Ca
trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư
tưởng, triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp
phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam.
Ca trù là một DI SẢN VĂN HÓA ĐẶC SẮC của Việt Nam. Đặc sắc ở sự phong phú
làn điệu, thể cách, cả không gian, thời gian biểu diễn và phương thức thưởng
thức; đặc sắc còn vì từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết với lễ nghi, phong
tục, với sinh hoạt cộng đồng. Ca trù làm người ta nhớ tới những tao nhân mặc
khách với lối chơi ngông, chơi sang, rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo
của những danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản
Đà…Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà thơ, nhà báo, họa sĩ)
với Ả đào - mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá
trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm
và thưởng thức các tác phẩm của mình.
Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã và
sang trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu
lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại
sinh hoạt ca trù ra khỏi đời sống văn hóa. Ca trù đã không được nuôi dưỡng
và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn
tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi
nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình. Khoảng chục năm trở lại đây dư
luận xã hội và các cơ quan thông tấn báo chí đã từng lên tiếng về nguy cơ
thất truyền của ca trù. Nguy cơ mai một dần và vĩnh viễn mất đi ca trù là
một nguy cơ có thực, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sưu tầm, nghiên cứu,
bảo tồn ca trù như một vốn quý văn hóa của dân tộc. Do vậy việc cung cấp
những hiểu biết sâu hơn và có căn cứ về một số vấn đề của ca trù, không
những góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy mà còn góp phần vào việc phục
hồi và chấn hưng nghệ thuật và sinh hoạt ca trù.
2/ Nhận xét của Gs Trần Văn Khê về luận án Tiến sĩ của Nguyễn Xuân Diện
Năm vừa qua, trước khi gặp tác giả tại quê nhà, tôi đã đọc được quyển sách
Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù của Nguyễn Xuân Diện. Tôi vô cùng thích thú
và ngạc nhiên.
Thích thú vì trước kia khi bắt đầu tìm hiểu Ca trù, tôi chỉ đọc được hai bài
viết trên báo Nam Phong của Nguyễn Đôn Phục và Phạm Quỳnh. Sau này, có thêm
quyển Việt Nam Ca trù biên khảo của hai tác gỉa Đỗ Trọng Huề và Đỗ Bằng
Đoàn. Hôm nay, quyển sách của Nguyễn Xuân Diện đã cho tôi biết thêm rất
nhiều sách báo về hát Ca trù mà tôi chưa hề đọc được. Trước kia tôi chỉ biết
một quyển Ca trù thể cách mà trong thư mục tác gỉa đã cho tôi biết thêm sáu,
bảy quyển Ca trù thể cách khác, lại còn kê khai trên bảy chục văn bia viết
bằng chữ Nôm đang được tàng trữ tại Viện Hán Nôm.
Ngạc nhiên vì tác giả là một thanh niên lại chịu học Hán Nôm, sưu tầm,
nghiên cứu rất nhiều tư liệu về Ca trù và giữ chức vụ Phó Giám đốc Thư viện,
ngạc nhiên vì quyển sách là một bước tiến rất mới và rất xa trong việc
nghiên cứu Ca trù, vừa mang tính phát hiện, vừa mang tính bao quát, phương
pháp áp dụng rất phù hợp với cách nghiên cứu trong các nước tiên tiến, đầy
đủ tiêu chuẩn quốc tế nên có độ tin cậy rất cao. Tôi rất mong khi về nước sẽ
gặp được tác giả để tỏ lời khen tặng.
Nhờ biết trước khả năng của tác gỉa nên khi tôi làm cố vấn cho việc lập hồ
sơ để trình bày những nét đặc thù của ca trù cho UNESCO, tôi đã nghĩ ngay
đến em và mời em tham gia viết hồ sơ, cụ thể là phần lịch sử và phát triển
ca trù Việt Nam.
Hôm nay, sau khi đọc bản Luận án của em thì tình cảm mến được tăng lên rất
nhiều. Nội dung vô cùng phong phú. Công việc sưu tầm, nghiên cứu phân tích
và phê phán các văn bia rất phù hợp với những phương pháp khoa học đã được
áp dụng trên các nước Âu Mỹ theo phương cách đặt câu hỏi cái gì, ai, ở đâu,
lúc nào, như thế nào (what, who, where, when, how) và không quên đối chiếu
với những tư liệu khác.
Nhờ đó, có nhiều phát hiện mới mà từ trước đến nay chúng ta chưa được biết.
Có những nghi vấn về Ông Tổ của Ca trù, về lúc nào danh từ “Ca trù” được
dùng lần đầu tiên thì Luận án này đã đưa ra những bằng chứng đáng tin cậy.
Nhờ Luận án này, chúng ta thấy rõ không gian biểu diễn Ca trù như hát thờ,
hát chơi và hát chúc hỗ (hát chúc thọ nhà Vua hay tiếp Sứ ngoại quốc), cách
tổ chức giáo phường, lề lối và hoàn cảnh sinh hoạt của các nghệ nhân, nghệ
sĩ; nắm rõ được các thể cách, thể điệu (chín mươi chín thể cách trong đó có
sáu mươi sáu về hát và ngâm và ba mươi ba hát và múa), xuất xứ và miêu tả
nhạc khí căn bản của Ca trù như phách, đàn đáy, trống chầu; kỹ thuật hát
(hát khuôn, hát hàng hoa, các khổ đàn, khổ phách như phách khoan, phách mau,
phách theo, phách róc, phách ba, phách hơi, phách vào ba ra bảy…)
Luận án đưa ra bảy kết luận nhưng trong Luận án, chúng ta thấy nhiều điều có
thể mở ra những vấn đề nghiên cứu khác nữa.
Văn phong giản dị, ngôn ngữ và chánh tả chính xác. Nội dung và hình thức của
Luận án cho phép chúng tôi đánh giá đây là một công trình khoa học tối ưu.
Nguyễn Xuân Diện đã đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu về lịch sử Ca trù
đồng thời cũng cung cấp được nhiều cứ liệu quan trọng trong việc phục hồi
không gian văn hóa Ca trù và phát triển nghệ thuật Ca trù.
Mặc dầu đề tài Luận án đặt trọng tâm vào nguồn tư liệu Hán Nôm về việc
nghiên cứu Ca trù, chúng tôi đề nghị thêm một phụ lục vào những bài viết
đáng kể về Ca trù của các tác giả ngoại quốc như Baron trong quyển Histoires
curieuses des royaumes du Tonkin et de Laos.
Nên có một bảng ngữ vựng về những thuật ngữ chuyên môn trong Ca trù.
Nên có một danh sách những dĩa hát xưa nay về Ca trù (Beka, Columbia…),
những băng ghi âm ghi hình.
Ngày 26 tháng 3 dương lịch, năm 2007.
GS.TS TRẦN VĂN KHÊ
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Nguyễn Xuân Diện
|