Đã có
rất nhiều bài viết về xuất xứ, bề dầy lịch sử và
chiều sâu nghệ thuật của Ca trù. Trong tham luận
nầy, tôi chỉ nêu vài yếu tố cho thấy nghệ thuật Ca
trù vô cùng độc đáo trong nước Việt Nam và trên thế
giới.
I°
Ca trù là một sự phối hợp đa dạng,
tinh vi, nhuần nhuyển giữa thi ca và âm nhạc,
đôi khi với cả múa. Ca trù có những qui luật chặt
chẽ, rõ ràng trong thơ và nhạc, nhưng không quá
khắt khe, mà có chấp nhận một vài ngoại lệ.
II°
Ca trù có những nét đặc thù trong hai lĩnh vực
thanh nhạc và khí nhạc không tìm thấy
trong các bộ môn âm nhạc khác.
.
III° Ca
trù dùng ít nhân lực mà hiệu quả biểu diễn và
nghệ thuật rất cao.
IV°
Ca trù có nguồn gốc Việt chớ không du nhập từ
nước ngoài, có tổ chức theo giáo phường, có qui chế
đào tạo đào nương trong chương trình Hát thi và hình
thức phát giải.
Sau đây là chi tiết của 4 yếu tố đó.
I° Về thơ.
Hầu hết các loại hình nhạc cổ Việt Nam đều có sự
phối hợp giữa thơ và nhạc. Trong dân gian, Vè, đồng
dao có thơ 3 chữ, 4 chữ; hầu hết các bài dân ca Hát
ru, Hò, Lý, đối ca nam nữ, lời ca của các làn điệu
Chèo, Hát văn là thơ lục bát (một câu 6 chữ, một câu
8 chữ), lục bát biến thể (2 câu lục bát có thêm
những tiếng đệm có nghĩa hay vô nghĩa để cho nét
nhạc và tiết tấu hai câu thơ thay đổi), song thất
lục bát (2 câu 7 chữ tiếp theo câu lục bát). Trong
nhạc truyền thống bác học có thơ lục bát, lục bát
biến thể, lại có thêm các thể thơ theo Đường luật
ngũ ngôn thất ngôn.
Ca trù sử dụng tất cả các thể thơ trên,
ngoài ra còn dùng thơ 8 chữ không có trong thi ca
cổ, chỉ sau nầy mới thông dụng trong Thơ mới Việt
Nam. Thơ 8 chữ dùng trong Hát nói, gồm 11 câu chia
làm 3 khổ:
Khồ đầu: 4 câu gồm 2 câu lá đầu và 2 câu
xuyên thưa
Khổ giữa: 4
câu gồm 2 câu chữ Hán ngũ ngôn hay thất ngôn và 2
câu xuyên mau.
Khổ xiết: 3
câu gồm câu dồn, câu kết và câu keo.
Qui định theo lề lối gọi là «đủ khổ»,
nhưng vẫn có thể gặp những câu 11, 12, 13 chữ, hoặc
thêm khổ, gọi là «dôi khổ».
Chưa thể loại nhạc cổ nào đa dạng về thơ như
vậy.
Ca trù là một loại nhạc thính phòng, như
Ca Huế miền Trung, ca Tài tử miền Nam. Nhưng trong
các loại ca nhạc thính phòng khác, bài ca có nét
nhạc cố định, nếu đặt lời mới cũng phải tuân theo
nét nhạc đó. Riêng Ca trù, trong các « lối» hay
« thể» (khoảng 15 thể Hát chơi, 12 thể Hát cửa
đình), giai điệu không cố định mà tùy theo thanh
giọng của lời thơ. Thành ra, những bài Gửi thư, Hát
ru, Bắc phản, Mưỡu có những giai điệu khác nhau,
cùng một thể Hát nói có cả trăm bài (theo sách Ca
trù biên khảo - Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề) .
Mỗi loại thơ đều có nét nhạc và tiết tấu
đặc biệt tạo ra nhiều thể trong Ca trù. Lục bát và
lục bát biến thể có trong Mưỡu, Bắc phản, Xẩm huê
tình, hay ngâm theo Sa Mạc hoặc Bồng Mạc, thơ 8 chữ
trong Hát nói.
II.° Trong Ca trù
thanh nhạc và khí nhạc đi song song với
nhau và mỗi loại đều có nét đặc thù.
1° Về thanh nhạc:
Có lẽ
ngoài hát Tuồng có những kỹ thuật phong phú và độc
đáo, còn các bộ môn ca nhạc cổ truyền - kể cả Quan
họ Bắc Ninh, Ca Huế trong nhạc thính phòng - không
có kỹ thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như Ca trù.
Đào nương hát không há miệng to, nhìn cứ
như mím môi, không đẩy mạnh hơi từ buồng phồi ra mà
phải «ém hơi» trong cổ, phải biết « ậm ự» mà lời ca
nghe vẫn rõ ràng. Hát phải « tròn vành rõ chữ». Hát
trong cửa đình không cần ngân nga. Hát chơi có cách
đổ hột, đổ con kiến, khác hẳn cách luyến ngân
«tahir» trong cổ nhạc Ba Tư, «tremolo»
trong nhạc Âu, «yodel» trong nhạc Thụy Sĩ. Đổ
hột làm cho câu hát thêm duyên, có khi như tiếng nức
nở, thở than. TS Trần Quang Hải từng nghiên cứu đối
chiếu nhiều truyền thống thanh nhạc trên thế giới,
đã phân tích kỹ thuật đổ hột của Ca trù qua hình ảnh
hiện lên máy sonagraph và cho biết kỹ thuật
này rất độc đáo, không có trong các kỹ thuật thanh
nhạc khác.
2° Về khí nhạc:
a) Cỗ phách:
gồm 3 phần: một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn
phách, hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con.
Trên thế giới không đâu dùng hai chiếc dùi mà trong
đó có một chiếc tròn đầu hơi nhọn, chiếc kia tròn và
chẻ hai. Dùi nhọn như dương vật (linga, theo
cách gọi của Ấn độ), dùi chẻ hai là âm vật (yoni
theo cách gọi của Ấn độ). Gõ hai dùi vào cỗ phách
tạo nên tiếng mạnh tiếng nhẹ, tiếng cao tiếng thấp,
tiếng trong tiếng đục, tiếng dương tiếng âm. Tay cầm
phách cái, phách con, tay nào đưa lên cao tay nào để
dưới thấp, động tác nhịp nhàng uyển chuyển như múa,
cách gõ phách theo 5 khổ qui định, đoạn «lưu không»
(chỉ có tiếng đàn đáy và tiếng phách không có lời
ca) cũng có lề lối…, tất cả cho thấy đây là một nghệ
thuật không tìm thấy trong các bộ gõ khác. Tiếng
phách phải rõ ràng phân minh, khi gõ riêng từng dùi,
khi gõ hai dùi một lượt là «chát», hai phách âm
dương chen nhau, xen kẽ, pha trộn, có nhịp mà nghe
như không có nhịp, có mà như không, thực mà như hư,
hiện mà như ẩn.
Người Ấn độ luôn hãnh diện với cách
đánh trống Tabla và Bahya của họ,
trong đó người nghe có thể cảm nhận được tiết tấu
Tala như bước đi đều đặn của phụ nữ và laya
như chiếc váy phất phơ theo bước chân, đếm được bước
đi mà không đếm được cái phất phơ của chiếc váy. Hai
chiếc phách cái, phách con trong Ca trù của người
Việt cũng tạo được một loại tiết tấu hiện ẩn như
thế.
b). Đàn đáy:
chỉ dùng duy nhất trong Ca trù. Thùng đàn hình chữ
nhựt hay hình thang, mặt đàn bằng cây ngô đồng, có
mặt mà không có đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím
bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của
dây đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, lên cách nhau một quãng
4, đánh dây không nhấn cho tiếng trầm, bấm phím
thành tiếng cao. Không có cầu đàn ở đầu đàn trước
khi quấn dây vào trục, nên trên đàn đáy có cách nhấn
khác thường: «nhấn chùn » lẽ ra phải có độ cao hơn
một quãng 2 thì lại phát ra một âm đồng độ cao mà
màu âm khác. Phím đàn gắn theo thang âm chia quãng 8
thành 7 quãng đồng đều (equiheptatonic), thể hiện dễ
dàng quãng ba trung bình giữa thứ và trưởng (neutral
3rd between the minor 3rd and the major 3rd), một
quãng đặc thù của lưu vực sông Hồng thường gặp trong
Hát ru, Hát nói và Sa mạc. Nhạc công phải đánh rõ
tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, tay trái phải biết
cách nhấn, rung, nhấn chùn, bấm 3 dây khi đàn chữ
«dinh dinh dinh». Khi chân phương khi dìu dặt, khi
mạnh khi nhẹ, tiếng đàn trong đoạn sòng đầu, lưu
không hay phụ hoạ theo lời ca chẳng những có nét
nhạc, mà còn tạo nên «hồn nhạc».
c) Trống chầu.
Trống chầu Ca trù khác trống chầu trong Tuồng, Hát
bội, từ kích thước đến cách đánh. Kích thước và hình
thức rất gần trống đế của Chèo nhưng cách đánh và
chức năng hoàn toàn khác. Dùi trống không gọi là
“dùi” mà là “roi chầu”. Roi chầu bằng gỗ, dài hơn
dùi trống khác. Người đánh trống cầm roi trong tay
mặt, gõ vào tang trống - gọi là “chát”, đánh roi sát
trên mặt trống - gọi là “tom”. Người cầm chầu gọi là
“quan viên”, phải sành Ca trù, biết rõ các khổ đàn,
khổ phách, biết đàn thế nào là hay, hát thế nào là
“khuôn”, là “hàng hoa” và không đánh trống “bịt
miệng ả đào”, lại phải nắm rõ các công thức xuyên
tâm, song châu, liên châu, hạ mã, lạc nhạn để khen
chê, thưởng phạt đúng nơi đúng cách, dáng ngồi, tay
cầm roi, tay vịn mặt trống phải phong lưu đài các.
Nghe tiếng chầu, thính giả biết giá trị và phong
cách của người cầm chầu.
Trên thế giới, không có loại trống nào giữ
3 chức năng như trống chầu Ca trù:
1. tham gia vào cuộc diễn bằng những
tiếng trống mở đầu, chấm câu, và kết thúc
2. khích lệ nghệ sĩ, phê phán, khen
thưởng để ca nương kép đàn thêm hào hứng
3. hướng dẫn cho thính giả vì không phải
ai cũng biết giọng ca tiếng đàn hay ở chỗ nào và hay
đến đâu. Tiếng trống chầu của người sành điệu giúp
cho thính giả biết thưởng thức và trở nên sành điệu
hơn.
III°. Không thể loại nhạc cổ truyền nào dùng ít
nhân lực mà thời gian biểu
diễn và
hiệu quả nghệ thuật cao như Ca trù.
A. Trong nước Việt:
Trong nhạc thính phòng cổ truyền, chương
trình biểu diễn ca nhạc Huế trên một tiếng đồng hồ
cần có dàn ngũ tuyệt tức là 5 nhạc công. Dàn
tam tấu (nguyệt, tranh, nhị) không có trống phách
phụ hoạ, không có lời ca trộn với tiếng đàn, khó làm
cho thính giả say mê trên một tiếng đồng hồ, nếu
thêm người ca thì tổng số người biểu diễn là bốn,
không còn là tam tấu nữa.
Trong sân khấu truyền thống thì số người
biểu diễn rất đông. Riêng Hát bài chòi trước lúc “từ
đất lên giàn“ có một người hát các vai khác nhau,
một đàn nhị và một sanh sứa, tức là cũng chỉ có 3
diễn viên, nhưng nghệ thuật rất thô sơ so với Ca
trù.
B. Trên thế giới:

đàn guzheng

Đàn Pipa
Trung Quốc, Nhựt Bổn có những chương
trình độc tấu trong một buổi trình diễn: đàn pipa
(tỳ bà Trung Quốc), đàn guzheng (đàn tranh
Trung Quốc 16, 19, 22 dây), đàn koto (Nhật).
Nhưng chỉ có khí nhạc không có thanh nhạc và trống
phách phụ hoạ. Nhựt Bổn còn có nhóm biểu diễn
Sankyoku gồm 3 nhạc công đàn Koto, Shamisen,
Shakuhachi, không có hát và nhịp phách phụ hoạ.
Triều Tiên có biểu diễn độc tấu đàn
Kayageum với phụ hoạ của trống Chang gu
(trượng cổ), nhưng không có hát.
Các nước Á rập có thanh nhạc là chánh,
phụ hoạ chỉ có đàn dây khảy Ud, đàn cung kéo
Keman, đôi khi có trống Daff.
Người Ba Tư có hát là chánh, phụ hoạ
có đàn dây khảy Târ hoặc Setâr, có đàn
cung kéo Kemantche, và trống Zarb cũng
gọi là Tombak..
Ấn Độ có nhiều phong cách hát những
câu thơ, những bài thơ như Dhrupad cổ điển,
Kheyal bán cổ điển, bay bướm, Thumri
tình cảm, phóng khoáng. Nhạc khí phụ hoạ chỉ làm nền
mà không hòa theo giai điệu, có trống phụ hoạ nhưng
không có tiếng phách.
Và trong tất cả các loại nhạc kể trên đếu không
có trống chầu phê phán.
IV°. Ca trù là
một truyền thống xuất phát từ nước Việt
chớ không du nhập từ nước ngoài, có huyền thoại về
xuất xứ cây đàn đáy, về các vị Tổ sư (theo sách
Ca trù biên khảo của Đỗ Trọng Huề và Đỗ Bằng
Đoàn).
Ca trù được tổ chức chặt chẽ thành
phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai
quản. Ca trù có qui chế về sự truyền nghề, cách học
đàn học hát, có những phong tục trong sự nhìn nhận
đào nương rành nghề, như lễ mở xiêm áo (thầy cho
phép mặc áo đào nương để biểu diễn chánh thức lần
đầu tiên trong đình làng gọi là Hát cửa đình), có
nhũng qui chế về việc chọn đào nương đi hát thi
(ngoài tài năng và sắc diện cần phải có đức hạnh
tốt).
Các cuộc Hát thi và phát giải được tổ chức
rành rẽ, các lễ hội được cử hành rất nghiêm chỉnh.
Ca trù được nhiều nhạc sĩ, nhạc học gia
nước ngoài theo học, tìm hiểu, nghiên cứu: TS
Barley Norton (Anh) Thạc sĩ Alienor Anisensel (Pháp)
GS Stephen Addiss (Mỹ). Ca trù được giới thiệu tại
Đại học Sorbonne Paris, Đại học Hawaii at Manoa
Honolulu (GS Trần Văn Khê thuyết giảng).
Ca trù được cơ quan, tổ chức quốc tế tôn
vinh và xuất bản dưới dạng đĩa hát. Tổng thư ký Hội
đồng quốc tế Âm nhạc thuộc Unesco Jack Bornoff, Giám
đốc Viện quốc tế nghiên cứu Âm nhạc với phương pháp
đối chiếu tại Tây Bá Linh (Đức), GS Alain Danielou
đã tặng Bản danh dự cho NSND Quách Thị Hồ, người đã
tham gia vào việc thực hiện đĩa hát Ca trù và Quan
họ do Unesco phát hành. Đĩa hát nầy được Unesco gởi
tặng trên 400 trường Đại học và Nhà Văn hoá của
nhiều nước Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi.
Năm 1994 tại Paris, đĩa Ca trù do Nhà Văn
hoá Thế giới phát hành với sự tham gia của nhóm Ca
trù Thái Hà được Laurent Aubert, nhà phê bình báo
Thế giới Âm nhạc (Le Monde de la Musique) xếp hạng
“Choc” (chấn động), hạng cao nhứt trên cả 4 sao.
Năm 1985, Ca trù là 1 trong 9 tiết mục được
tuyển lựa vào Diễn đàn âm nhạc châu Á do Unesco tổ
chức tại Bình Nhưỡng (CHDCND Triều Tiên).
Quỹ Ford đã hai lần tặng tiền tài trợ cho việc
khôi phục Ca trù: lần thứ nhứt cho lớp thể nghiệm
ngắn hạn cho hơn 200 học viên do Nhóm Thái Hà của cụ
Nguyễn Văn Mùi đảm nhiệm; lần thứ nhì đóng góp cho
việc tổ chức Liên hoan Ca trù toàn quốc 2005 tại Hà
Tĩnh và Hà nội.
Kết luận.
Một nhóm chỉ có hai nghệ sĩ biểu diễn và
một quan viên vừa tham gia biểu diễn vừa phê phán mà
tập hợp nhiều yếu tố nghệ thuật làm cho thính giả có
thể nghe hằng giờ, hằng đêm, có khi ngày nầy qua
ngày khác mà không ngán. Người biết nghe sẽ cảm nhận
được văn chương bóng bẩy của câu thơ, thang âm điệu
thức dồi dào của giai điệu, tiết tấu rộn ràng của
tay phách, chữ đàn gân guốc hay bay bướm của anh
kép, không khí nghiêm trang hay rộn rã của buổi
trình diễn trong đó thơ và nhạc quyện vào nhau như
bóng với hình.
Một
loại hình âm nhạc có bề dầy lịch sử (theo sử liệu và
văn bia), chiều sâu nghệ thuật, tuy có nguy cơ bị
quên lãng, nhưng đang chiếm được sự quan tâm của
chánh quyền, sự thiết tha gìn giữ của nghệ nhân, sự
đón nhận nồng hậu của người trong nước và nước
ngoài, sự tôn vinh và tài trợ của các tổ chức quốc
tế, rất xứng đáng được Unesco xem xét hồ sơ mà chúng
ta sẽ đệ trình trong tương lai.
GSTS TRần Văn Khê |